1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng văn hoá Mường Thanh, có những đặc trưng chung của khu vực lịch sử - văn hoá như thế, nhất là trong lĩnh vực văn hoá vật chất. Trên cơ sở đó, các đặc trưng trong vùng có sự gắn bó với nhau về vận mệnh trong quá trình lịch sử (bao gồm cả sự phát triển văn hoá cũng như đời sống kinh tế, chính trị, xã hội). Vì vậy, khu vực lịch sử - văn hoá là một phạm trù lịch sử, chúng luôn biến đổi phù hợp với môi trường tự nhiên, điều kiện hoàn cảnh lịch sử và trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Do đó, tuy cùng nằm chung trong một khu vực lịch sử - văn hoá nhưng tuỳ từng dân tộc sinh sống trong khu vực đó cũng mang đậm những đặc trưng văn hoá khác nhau, chứ không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Cũng chính vì thế mà trong một khu vực Lịch sử - văn hoá thường bao gồm nhiều phân vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá, mang những sắc thái văn hoá riêng. Song, trong quá trình này bao giờ cũng nổi lên một nền văn hoá nổi trội hơn. Ở vùng văn hoá Mường Thanh sự nổi trội đó được thể hiện khá rõ ở nền văn hoá Thái. Nói khác đi, nói tới nền văn hoá Thái, chính xác hơn là văn hoá của các cư dân nói tiếng Thái (bao gồm cả các yếu tố văn hoá Thái: ở các nước láng giềng như Lào, Thái Lan, Myanma, Xíp xong năn na (Trung Quốc)...). Cho nên, nói đến vùng văn hoá Mường Thanh không chỉ giới hạn trong phạm vi vùng văn hoá của các dân tộc ở Việt Nam mà còn liên quan đến văn hoá của cả khu vực Đông Nam Á nội địa.
Khi đặt vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu Văn hoá vùng Mường Thanh chính là đặt vùng văn hoá Đông Nam Á. Nói khác đi là đặt vùng Văn hoá Mường Thanh trong khu vực lịch sử - văn hoá các dân tộc Đông Nam Á. Điều đó sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng đắn hơn vị trí, vai trò và những giá trị văn hoá vùng Mường Thanh trong khu vực lịch sử - văn hoá hay vùng văn hoá này.
2. VÙNG VĂN HOÁ MƯỜNG THANH TRONG BỐI CẢNH VÙNG VĂN HOÁ TÂY BẮC VÀ ĐÔNG NAM Á
2.1 Mường Thanh - một vùng huyền thoại
Xung quanh tên vùng văn hoá này lâu nay có nhiều tên gọi khác nhau. Cho đến nay, các tên gọi đó vẫn còn đang được tranh luận, có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Một số ý kiến chính như sau:
- Trong dân gian và sử sách Thái lâu nay đều gọi là "Mường Theng" và được phiên âm ra tiếng Việt là Mường Thanh. Cho đến nay, ý nghĩa và cả ngữ nghĩa tên gọi này vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Có ý kiến cho rằng, đây là từ có nghĩa trong tiếng Khơmú, đúng hơn là bắt nguồn từ quan niệm của người Khơmú, một cư dân sống bên cạnh người Thái từ thời cổ đại. Theo quan niệm này, Mường Thanh bắt nguồn từ mường Thênh (mường ở trên vùng cư dân ở mường phía trên) cũng theo quan niệm này, mường trên còn có nghĩa là người ở trên, người có vị trí xã hội cao hơn hoặc là những người được người Khơmú tôn trọng hơn. Điều này cũng đúng với quan niệm của các nhóm Thái khác ở vùng Tây Bắc cho rằng Mường Thanh là mường ở phía trên so với các mường khác của vùng Tây Bắc, nguyên văn tiếng Thái là "Tay nưa" hay "Tay mường nưa" đều ý chỉ người ở vùng trên, vùng cao hơn về mặt địa lý, địa hình. So với đặc điểm địa hình cả vùng Tây Bắc, điều đó có cơ sở khoa học hơn, dễ chấp nhận hơn. Quan điểm người sinh sống ở mường trên, mường dưới như thế khá phổ biến ở các nhóm Thái khác. Ví dụ ở Lào có "Săm Nưa" (Sầm trên) và "Săm Tợ" (Sầm dưới). Ở Vân Nam (Trung Quốc) có vùng Thái Tớ Không và được gọi là Thái Tớ Không "Tay Tớ Không " vùng đất phía dưới sông Mê Kông... ngược với vùng Thái Khửn ở phía trên thuộc Myamma và vùng Assam (Ấn Độ). Theo quan điểm trên, đồng thời cũng là quan điểm của bài viết này, vùng Mường Theng chính là vùng người Thái ở phía trên phía cao hơn so với các vùng Thái khác ở Tây Bắc. Có người cho rằng mường Theng do đọc chệch từ mường Kheng trong tiếng Thái có nghĩa là Mường cứng "cứng đầu trước mọi kẻ thù".
- Cũng có ý kiến cho rằng, mường Theng bắt nguồn từ mường Then. Trong tiếng Thái, mường Then và mường Theng là hai từ khác nhau cả về ngữ âm và ngữ nghĩa, nên không thể ghép làm một như thế. Hơn nữa, trong tư duy của tất cả các nhóm Thái trên thế giới đều coi mường Then là mường chỉ có trong tâm linh, trong tín ngưỡng Thái. Đây là tên địa danh chỉ có trong tưởng tượng về thế giới bên kia (thế giới người chết) của người Thái. Theo quan niệm của người Thái, sau khi chết 80 vía người hội tụ lại thành 4 vía như sau:
- Vía gốc (ở chỏm đầu) nhập vào bàn thờ tổ tiên với con trai cả.
- Vía hai trở thành vía trông coi thân xác ở nghĩa địa.
- Vía ba (vía giữa) đi ở với các cô con gái.
- Vía ngọn là vía được tiễn về ở với tổ tiên trên mường Then (mường trời).
Nguyên văn tiếng Thái: "Khoăn cốc khảu klọ hỏng chong sơ đom lục chái, Khoăn pai, khoăn pịu xổng mứa mướng bôn xuân cả, nướng phá, nướng mọc xuân váng. Mứa đom pạu đom pủ, đom mủ đom súm đẳm sỉnh (họ gì nói tên họ đó)", mứa xủ đẳm đoi, ngói phá, hắng tu nón, khoăn tu dủ mường Then". Dịch là: (Vía gốc vào bàn thờ tổ tiên với con trai, vía ngọn vía út tiến về mường cao xanh vườn cũ, mường Trời, mường mây mù, vườn bỏ. Về theo ông bà cụ kỵ, theo bà con họ hàng (họ nào đọc tên họ đó), về với tổ tiên ở rìa trời, tổ vía ngủ, nơi vía ở mường Then).
Trên cơ sở cứ liệu này, rõ ràng mường Then thực ra là mường trời, mường cao xanh, một mường trong tưởng tượng chứ không phải là một mường có thật, một địa danh cụ thể nào đó ở trần gian. Hơn nữa, lại cho rằng đây chính là vùng đất tổ của các nhóm Thái khác, từ đây các nhóm Thái đã chia đi các nơi thì quan điểm này đã bị bác bỏ từ lâu bởi chính các nhóm Thái khác đang sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Cho dù, đến nay ở Mường Thanh vẫn còn tồn tại một số huyền thoại về các dấu tích xa xưa như hồ U Va "Nong U Va" nơi có sân tiên cho các cô tiên sau mỗi đêm xuống tắm xong lên đó sưởi lửa, múa hát trước khi bay lên trời. Cách trung tâm Mường Thanh đi xuôi về phía Tuần Giáo khoảng 30km còn lại dấu tích thau tắm trẻ sơ sinh bằng đá ở bản Tạu Pụng (quả bầu mẹ), tiếng Thái gọi là "Áng me bảu". Theo phong tục Thái, sau khi đứa trẻ được cắt rốn xong đều đem nhúng vào nước trong thau để tắm que cho sạch. Cái ang đá này đã từng là ang nước tắm cho tất cả các dân tộc sau khi chui từ quả bầu mẹ ra theo lỗ dùi của Then do Then thả xuống trần gian sau nạn Đại Hồng Thuỷ.
Theo câu chuyện trên còn nhắc tới một địa danh huyền thoại là bản Na nọi ỏi nu (bản ruộng nhỏ, mía chuột). Tương truyền, sau Đại Hồng Thuỷ Then cử một đoàn người trời xuống xây dựng lại trần gian. Dẫn đầu đoàn người trời là Pủ Thao Do và vợ là Mế Da Ngam, xuống đến trần gian họ tạm trú ở bản Na nọi ỏi nu trên đây. Trong đoàn người đó có Khun Bó Lôm, con út của Then ở đây được ít lâu, Khun Bo Lôm sinh hạ được bảy đứa con trai. Khun bèn chia dân cho bảy đứa con mang theo lập bản dựng Mường ở các nơi khác nhau.
- Con cả là Khun Lò đi ăn mường Sua (tức vùng Luông Pha bang - Lào ngày nay).
- Khun Lan đi ăn mường Hoàng - Sai kăm - Vitilat
- Khun Chúc Son đi ăn mường Lan ni phon Nahataras.
- Khun Khăm Phường đi mường Khuôn Khăm Nho Nọkoras
- Khun In ăn mường Lovo
- Khun Chét Chương ăn mường Pou Eun.
- Khun Chét Chang ăn mường Dan.2
Câu chuyện này có nhiều dị bản khác nhau và được kể ở nhiều vùng dân cư nói tiếng Thái khác nhau, chúng tôi chọn bản đã công bố trong cuốn "Điện Biên trong lịch sử", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1979, trang 51- 52.
Thực ra qua những địa danh và ngay cả tên một số nhân vật trong truyện cũng khá xa lạ với tên Thái ở Việt Nam. Chúng tôi nghi rằng, đây là câu chuyện ở nơi khác (rất phổ biến ở Lào) do người Thái Điện Biên tiếp thu rồi biến thành câu chuyện của mình. Theo câu chuyện này có người lầm tưởng rằng, nơi Khun Bo Lôm sinh ra bảy người con là Mường Thanh và từ Mường Thanh này họ đã phân đi sinh sống ở các vùng Thái khác.
Như vậy, xung quanh tên gọi Mường Thanh cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhất là về ngữ nghĩa của tên gọi này. Chỉ biết rằng, đây là vùng đất cổ của người Thái gắn với nhiều huyền thoại xa xưa khi vùng này mới được "khai thiên lập địa". Những huyền thoại đó cũng còn gặp ở một số dân tộc anh em như người Khơmú, Hà Nhì, La Hụ ...phải chăng các mô típ khởi thuỷ của loài người được nhiều dân tộc thể hiện, những huyền thoại ở vùng Mường Thanh cũng nằm trong số đó. Điều muốn nói ở đây là không thể căn cứ vào những huyền thoại đó mà cho rằng mường Theng là do đọc chệch từ mường Then mà ra và càng không nên kết luận mường Theng là mường Then (mường Trời) của các nhóm Thái ở Việt Nam và Đông Nam Á.
2.2 Mường Thanh - ngã tư đường giao lưu kinh tế - văn hoá
Với vị trí địa lý ở vùng trên của miền Tây Bắc, Mường Thanh đã được thiên nhiên ưu đãi nhiều thế mạnh và những thuận lợi "trời cho". Một trong những thế mạnh và thuận lợi đó là cánh đồng lớn nhất vùng Tây Bắc. Đây là một bồn địa giữa núi khá lý tưởng cho sự hội tụ dân cư và hội tụ văn hoá. Trên cơ sở đó, Mường Thanh cũng sớm trở thành vùng đất lịch sử - văn hoá khá độc đáo trên miền Tây Bắc Việt Nam. Nhìn toàn cảnh Mường Thanh, nơi đây vừa có núi non hùng vĩ vừa có cánh đồng rộng thẳng cánh cò bay, một vùng địa lý khá đặc biệt của một vùng núi. "Thực tế, những dãy núi ở đây cao thấp khác nhau, muôn màu, muôn vẻ nằm trên độ cao so với mặt biển từ 500 - 1.000m. Dãy núi Pu Xam Xao chạy dọc theo biên giới Việt Lào chắn ngang như một tường thành thiên nhiên với đỉnh cao nhất 1.897m ôm chặt lấy cả vùng mường Then"3. Phía Bắc là dãy núi đá vôi Tây Trang, phía Đông gồm dãy núi cao từ 1.200 - 1.700m xoè ra như ba cánh quạt bao bọc lấy cánh đồng Mường Thanh. Từ đó các con sông, con suối lớn nhỏ như Nặm Mấc, sông Mã, Nặm Núa và chi nhánh của nó là Nặm Rốm đổ vào cánh đồng Mường Thanh những lớp đất màu mỡ, tạo nên sự trù phú của lòng chảo Mường Thanh dài trên 200km, rộng hơn 5km. Với diện tích hàng ngàn ha ruộng hai vụ, Mường Thanh thực sự trở thành vựa lúa lớn nhất Tây Bắc: "Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc" có thể nuôi sống hàng chục vạn người...
Trong kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn đã từng nhận xét: "Châu này thế núi vòng quanh, nước sông bao bọc, đồn sở ở giữa, ruộng đất bằng phẳng màu mỡ, bốn bên đến chân núi đều phải đi một ngày đường, công việc làm ruộng bằng nửa công việc châu khác, mà số hoa lợi thu hoạch lại gấp đôi, thổ sản có sa nhân, sáp vàng, diêm tiêu, lưu hoàng và sắt sống. Có một quả núi, nước suối rất mặn, thú rừng thời thường đến uống, người địa phương dùng nỏ bắn được rất nhiều, tục gọi là "mỏ thịt"(4).
Mặc dù là một lòng chảo lớn, nhưng Mường Thanh không phải là một vùng khép kín mà lại là nơi qua lại của nhân dân miền tây Bắc Đông Dương, miền tây Nam Trung Quốc và các vùng khác ở Việt Nam, thậm chí cả các vùng Nam Á khác. Cho đến nay, nhiều người đều cho rằng vùng Đông Nam Á lục địa, trong đó có các nước Đông Dương là nơi trồng lúa nước từ thời cổ đại. Trong đó Mường Thanh với cánh đồng rộng cũng đã từng là một trong những vùng trồng lúa nước từ rất sớm. Sự có mặt của văn hoá lúa nước như thế đã làm cho nền văn minh thời kim phí của Đông Nam Á sớm trở thành vùng thống nhất với sự phát triển rực rỡ của mình (nền văn minh Đông Sơn). Hơn nữa, Mường Thanh với thế mạnh của mình cũng đã sớm chứng kiến những luồng giao lưu giữa nhiều nền văn hoá khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là sự giao lưu giữa văn hoá của cư dân trồng trọt bản địa với văn hoá các vùng cư dân du mục xa xôi miền Trung Á. Điều đó được chứng minh khá rõ qua các tư liệu dân tộc học, khảo cổ học cho thấy rõ mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố văn hoá Trung Á và Đông Nam Á và ngược lại. Trong cuốn: Lịch sử dân tộc học các nước Đông Dương5 của IvanTchesnop phát hành năm 1976 đã trình bày khá rõ vấn đề này. Đặc biệt là, từ thời cổ đại, Mường Thanh vốn là đường vận tải văn hoá tà Ấn Độ sang Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng. Tư tưởng đạo Phật, Bà la môn từ Ấn Độ đã ảnh hưởng tới Đông Dương khá đậm và ngược lại, những thành tựu và các yếu tố văn hoá truyền thống nơi đây cũng ảnh hưởng trở lại các vùng đó khá sâu sắc. Theo các tác giả cuốn Điện biên trong lịch sử, bên cạnh những nguồn tư liệu điền dã dân tộc học thời cận hiện đại, các nguồn tư liệu trong nhật ký Marco Polo nhà du lịch người Ý thể kỷ XIII đầu thế kỷ XIV đã cung cấp nhiều tư liệu giá trị về lịch sử và địa lý các ông đã đi qua.
Trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn cũng đã nhắc tới những con đường mà các cụ già ở Mường Thanh đã từng đi trước đây. Từ Mường Thanh có thể theo mường Pồn, mường Muôn qua mường Tòng vào mường Lay, Phong Thổ (Lai Châu) rồi tới Lào Cai, xuôi sông Hồng về tận Hà Nội. Từ Tây Trang vào Nặm Bạc, xuôi Nặm U về Luông Pha bang, xuống Sầm Nưa, Xiêng Khoảng và ngược lên Phong Sa Lỳ tới Chiềng Hung (Xíp xong Păn na - Trung Quốc) rồi có thể rẽ sang Chiềng Tung Bang San (Myanma) và sang tận Ấn Độ. Từ Mường Thanh xuôi xuống mường Phăng, mường Ảng về Tuần Giáo qua đèo Pha Đin tới Thuận Châu, mường La, Mai Sơn về mường Vạt, Mộc Châu đến suối Rút (Hoà Bình) rồi về Hà Nội. Đến Mai Sơn rẽ qua Tam Luân xuôi Sốp Cộp vào Trung Lào hay xuôi sông Mã về Thanh Hoá, Nghệ An...
Như vậy, Mường Thanh không chỉ là "mỏ thịt", "mỏ lúa" hội tụ cư dân đông đúc mà từ Mường Thanh có thể tới nhiều nơi trong nước và trong khu vực. Vì thế, từ thuở xa xưa Mường Thanh cũng đã trở thành trung tâm giao lưu văn hoá vùng và khu vực. Với đặc điểm một khu vực lịch sử - dân tộc học như vậy, Mường Thanh hay vùng văn hoá Mường Thanh thực sự có ý nghĩa về nhiều mặt. Trong đó, đặc biệt Mường Thanh từ bốn, năm thế kỷ trước đã được chứng kiến những đoàn ngựa hay thồ hàng dài lê thê từ Myanma sang, từ vùng Xíp xong păn na (Vân Nam - Trung Quốc) tới. Các đoàn thồ hàng này thường dừng ở Mường Thanh vài ngày rồi mới toả đi nhiều nơi khác ở Việt Nam.
Tuy ngày nay đã có nhiều con đường hiện đại khác kể cả hàng không, nhưng những ký ức thơ mộng, lãng mạn đầy gian khổ của một thời xa xưa buôn bán, trao đổi, giao lưu vẫn còn đọng lại khá đậm nét trong tâm thức của người dân Mường Thanh. Trong con mắt lịch sử không phải mãi sau này khi thực dân Pháp biến Mường Thanh thành cứ điểm quân sự hay nhất là sau chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng khắp năm châu bốn biển mới biết tới Mường Thanh. Đã từ lâu, Mường Thanh do điều kiện tự nhiên và xã hội của mình sớm được lịch sử lựa chọn trở nên một vùng đất đặc biệt, một vùng văn hoá Mường Thanh với bề dày của cả mặt thời gian và không gian. Dân gian Thái coi đây là vùng trung tâm, vùng mường Trời (mường Then) của mình cũng không có gì quá đáng. Hơn nữa, tuy là những huyền thoại, nhưng các chứng cứ đây là vùng đất cổ vẫn hiển hiện rõ ràng không chỉ trong tâm thức mà còn là những tư liệu có thật trong thực tế của vùng đất này.
(Tượng đài chiến sĩ Điện Biên. Nguồn:vi.wikipedia.org.)
2.3 Mường Thanh - vùng lịch sử - văn hoá
Theo bề dày lịch đại, Mường Thanh là cánh đồng trồng lúa lớn nhất vùng Tây Bắc nước ta. Sau nạn Đại Hồng Thuỷ, vợ chồng Ải Lậc Cậc được Then cử xuống khai phá, xây dựng đầu tiên với ý nghĩa là người khai thiên lập địa. Với vị trí được chọn làm ruộng mạ cho các cánh đồng lớn khác ở Tây Bắc, Mường Thanh không chỉ là cánh đồng lớn nhất mà còn là cánh đồng quan trọng nhất. Nói khác đi, ngay từ đầu, cánh đồng Mường Thanh đã được chọn là bộ mặt tiêu biểu của miền núi rừng Tây Bắc. Cho dù truyền thuyết trên là sự vô tình thì việc lựa chọn Mường Thanh làm ruộng mạ, ruộng khởi đầu cho chu trình trồng lúa nước là sự hội tụ tinh hoa của dân gian đã chọn đúng mảnh đất đầu tiên này. Trong tập quán của cư dân canh tác ruộng nước, ruộng được chọn làm nơi gieo mạ, tiếng Thái gọi là "ta cạ" (bến mạ). Đây phải là mảnh đất tốt nhất, thuận lợi nhất cho cả cánh đồng. Theo kinh nghiệm, cả cánh đồng lúa có tốt hay không, mùa màng có bội thu hay không là tuỳ thuộc vào "ta cạ" (bến mạ). Người Thái không gọi là ruộng mạ "na cạ" này là bến mạ "ta cạ" hẳn cả một cái bến để gieo mạ. Cái bến mạ đó được cày bừa đầu tiên và càng bừa kỹ đến mức được người Thái ví như bát cháo nấu cho người ốm nặng. Nghĩa là đất phải tơi nhuyễn hơn các thửa ruộng để cấy lúa. Điều đó nói lên tầm quan trọng của ruộng mạ trong chu trình canh tác ruộng nước của người Thái đến nhường nào. Trong tâm thức dân gian, Mường Thanh là ruộng mạ loại ruộng quan trọng bậc nhất của cả cánh đồng và cái bậc nhất ấy của cánh đồng Mường Thanh đã trở thành cái bậc nhất của một vùng lịch sử - văn hoá, trước đây thường được gọi là khu vực Lịch sử - Dân tộc học.
Yếu tố hàng đầu của một khu vực Lịch sử - Dân tộc học là loại hình kinh tế của các cư dân sinh sống trong khu vực đó. Trên cơ sở loại hình kinh tế cơ bản này, các hoạt động kinh tế - xã hội khác sẽ diễn ra một cách thích hợp. Tạo ra đặc thù vùng văn hoá - vùng văn hoá lúa nước . Mặc dù Mường Thanh là địa bàn miền núi, nhưng với cánh đồng lớn nhất của vùng Tây Bắc, Mường Thanh mang đậm một vùng văn hoá lúa nước của miền núi. Trong đó, hệ thống dẫn nước tưới tiêu là căn bản nhất. Lâu nay, nhiều người hay nhắc đến hệ thống tưới tiêu này: Mương, phai, lai, lin. Trong thực tế ở cánh đồng Mường Thanh không có đủ các yếu tố này. Cũng như các cánh đồng lớn vùng khác (đúng với nghĩa cánh đồng) thì tại đây chỉ có hai yếu tố phai và mương là chính, còn lại (mố lái) và lin (máng dẫn nước) chỉ dành cho các cánh đồng khô hạn, dùng nước trời (trời mưa). Đối với cánh đồng Mường Thanh và ba cánh đồng lớn khác ở Tây Bắc thường chỉ có phai (đập nước) và mương (dẫn nước) đổ trực tiếp vào các cánh đồng (chỉ có các thửa ruộng khô na hon ở cao mới cần mố lái và máng nước. Hai yếu tố "phai" và "mương" không đơn thuần chỉ là nguồn nước tưới tiêu mà từ đây tạo nên cả một hệ thống thiết chế bản mường Thái truyền thống. Tại các cánh đồng lớn bao giờ cũng có phai mường (đập nước ở đầu dòng suối chính) do cả mường chung sức xây dựng. Từ đó, có một con mương chính (người Thái gọi là Mương Lò) dẫn nước đến các xứ đồng. Từ con mương chính nước được phân phối cho các xứ đồng hay từng thửa ruộng theo thứ tự dòng chảy (trên trước, dưới sau).
Thứ tự này đã sinh ra quan hệ giữa các bản trong một mường. Xưa kia, thiết chế xã hội đầu tiên được tổ chức theo dòng chảy này để phân phối nước đều cho tất cả các xứ đồng trong mường. Nói khác đi, thiết chế xã hội đầu tiên của người Thái sinh ra và tồn tại, phát triển theo sự phân phối nước. Không hiểu được thực tế này không bao giờ hiểu đúng về xã hội Thái (cái cốt lõi của xã hội Thái). Nói văn hoá Thái là văn hoá lúa nước chính là nói đến một xã hội sinh ra từ sự phân phối nước. Đây cũng là đặc thù của một xã hội, canh tác ruộng nước ở miền núi rất khác xã hội lúa nước ở miền xuôi (không phụ thuộc vào nguồn nước của nhau, của bản trên bản dưới). Sự lệ thuộc vào nguồn nước này đồng thời tạo ra sự cần thiết phải thống nhất và cố kết cộng đồng. Vì cả cộng đồng này tuỳ thuộc vào dòng nước, cả cộng đồng phải bảo vệ và duy trì được dòng nước đó. Ở Mường Thanh, dòng Nặm Núa và các chi nhánh của nó là Nậm Rốm phân phối tới các xứ đồng trong Mường. Nếu vẽ sơ đồ thiết chế kinh tế - xã hội Thái, việc đầu tiên phải vẽ được dòng chảy chính, từ đó sẽ có các con mương nhánh dẫn nước tưới cho các xứ đồng. Có thể hình dung, dòng chảy chính như là thân con rết, các dòng mương dẫn nước tới các xứ đồng (thực ra là các bản cụ thể) ví như hai hàng chân rết. Do đó, sự thống nhất của cả một mường Thái (có nơi là một bản Thái) cũng có thể ví như sự đồng đều của hai hàng chân rết.
Như vậy, hệ thống dẫn nước còn là hệ thống tổ chức xã hội Thái. Bởi vì có nước mới có ruộng, có ruộng mới nên bản mường "Mí nặm chắng pên ná, mí ná chắng pên bản pên mướng". Sau này, khi xã hội Thái đã định hình, thiết chế xã hội ổn định, xã hội đó quan tâm ngay đến người chuyên trách về ruộng nước: "Quan nà" (quan ruộng). Nhưng, trong thực tế nhiệm vụ chính của vị quan này là trông coi hệ thống thuỷ lợi "Nặm na ta tạng" (nghĩa đen là nước ruộng và ống máng). Xã hội Thái Mường Thanh là xã hội điển hình về vấn đề này. Với nguồn nước chính là Nặm Núa (sông Núa) chảy từ sông Nặm U (Lào) vào Tây Trang qua hồ Uva rồi rẽ hai ngả gọi là Pác Nặm (cửa suối). Một ngả ra sông Mã, còn một ngả qua Pom Lót, Nong Hẹt về Bản Phủ, Chiềng Lè, xuôi về Hồng Cúm, Nong Nhai về Nặm Cô đi về Mường Pồn... Từ cửa suối Pác Nặm nhánh sông Nặm Núa này được gọi là Nặm Rôm (con suối Lát Hoa) và chảy giữa và xuyên suốt cánh đồng Mường Thanh, là nguồn nước chính của thung lũng Mường Thanh. Xưa kia, nước còn nhiều, nhìn từ trên cao, con sông nặm Rốm như một rải lụa uốn lượn giữa thảm lúa xanh, đem lại sức sống cho cả lòng chảo Mường Thanh. Đây cũng chính là cột xương sống kiến tạo ra thiết chế bản, mường của xã hội Mường Thanh truyền thống. Đó là xã hội của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước lâu đời và đây cũng chính là sức hút của cư dân bốn phương hội tụ về đây, tạo nên một Mường Thanh sầm uất, tấp lập từ lâu đời.
Hiện nay khi hồ Uva trong huyền thoại xưa kia đã được xây đắp thành hồ du lịch, nguồn nước được tích tụ lại trong hồ không chỉ làm nên thắng cảnh hút cả các cô tiên trên trời xuống tắm mà còn là sức sống, là nguồn nước tưới tiêu cho cả cánh đồng Mường Thanh thơ mộng. Ai đã từng xuôi dòng nặm Rốm từ Pác Nặm - Uva mới thấy hết vẻ đẹp đôi bờ của con sông Lát Hoa vừa kiến tạo, vừa tô điểm cho cánh đồng Mường Thanh đã giàu đẹp sẽ ngày càng hấp dẫn hơn.
Sức hấp dẫn của cánh đồng Mường Thanh ngày nay không chỉ là vẻ đẹp mờ ảo của một vùng huyền thoại thơ mộng, không chỉ là những chiến công của thủ lĩnh chống giặc Cờ vàng Hoàng Công Chất và đặc biệt là chiến thắng lẫy lừng chấn động 5 châu của Điện Biên Phủ vĩnh viễn phá tan chế độ thực dân cũ... Mường Thanh hôm nay đã thay da đổi thịt, là Mường Thanh đô thị hoá với Mường Thanh của cơ chế thị trường và sức sống mới của sự hội nhập bốn phương. Mường Thanh hôm nay đã thực sự là một bản "tình ca Tây bắc"6 vút lên giữa núi rừng trùng điệp. Không cần đợi đến ngày mai mà từ hôm nay "Hòn ngọc Tây bắc"7 đã sáng lên lấp lánh "vùng văn hoá Mường Thanh - Điện Biên Phủ".
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục (bản dịch của Phạm Trọng Điền) NXB. Sử học - Hà Nội - 1962 (Trích theo cuốn: Điện Biên trong lịch sử- tr 16)
2. Ngô Đức Thịnh: Văn hoá, văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam, NXB. KHXH. Hà Nội, 2006.
3. Đặng Nghiêm Vạn - Đinh Xuân Lâm: Điện Biên trong Lịch sử NXB. KHXH- Hà Nội, 1979.
4. Hoàng Minh Thảo (chủ biên): Điện Biên Phủ trận thắng thế kỷ. NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2004.
5. Lê Bá Thảo: Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý. NXB thế giới- Hà Nội, 1998.
Nguồn: Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008.