logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Tuesday, 27 March 2012 21:33

Trần Ngọc Thêm. Văn hóa biển đảo và văn hóa biển đảo Khánh Hòa

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

 

VĂN HÓA BIỂN ĐẢO
VÀ
VĂN HÓA BIỂN ĐẢO Ở KHÁNH HÒA
(cái nhìn Nha Trang 2011)

 

GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm

 

Báo cáo đề dẫn trình bày tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa” diễn ra tại Nha Trang ngày 15-6-2011 trong khuôn khổ Chương trình Festival Biển - 2011 “Nha Trang - Biển hẹn”.

 

Dẫn nhập

0.1. Vấn đề “văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa” được nêu ra lần đầu tiên trong khuôn khổ Festival biển Nha Trang 2011 là vừa đúng lúc, vừa đúng chỗ.

Đúng lúc là vì trong bối cảnh nguy cơ cạn kiện tài nguyên đất liền trên toàn cầu, các quốc gia có điều kiện tiếp xúc với biển đều có chiến lược tích cực tận dụng và khai thác biển, mà Việt Nam thì cho đến giờ vẫn chưa tận dụng và khai thác được nguồn tài nguyên này bao nhiêu.

Đúng chỗ là vì Khánh Hòa là một trong số ít các tỉnh thành ven biển Việt Nam có kinh nghiệm biển nhiều hơn cả, cũng là tỉnh đang đi đầu trong việc khai thác biển, là tỉnh có huyện đảo Trường Sa, một địa danh biểu tượng cho sức mạnh đại dương mà cả nước hướng tới và cả thế giới đều biết tới.

0.2. Để nghiên cứu “văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa” một cách hiệu quả, theo chúng tôi, cần tập trung giải quyết hai nhóm vấn đề:

Nhóm I là các vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn, bao gồm: (1) Văn hoá biển và phương pháp luận nghiên cứu văn hoá biển; (2) Văn hoá biển ở Việt Nam (nhìn từ chủ thể, nhìn trong thời gian, nhìn trong không gian trên hai phương diện định tính và định lượng); (3) Về khái niệm “văn hoá biển đảo”.

Nhóm II là các vấn đề về văn hoá biển đảo Khánh Hòa, có thể bao gồm: (4) Thực trạng văn hoá biển đảo Khánh Hòa; (5) Văn hoá biển đảo Trường Sa như một tiểu hệ đặc biệt của văn hoá biển đảo Khánh Hòa; (6) Vận dụng khai thác tiềm năng của văn hoá biển đảo Khánh Hòa phục vụ nhu cầu của cư dân Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung, đặc biệt là trên bình diện kinh tế và văn hoá du lịch.

Bài viết này chủ yếu tập trung bàn về nhóm I là cơ sở lý luận và thực tiễn về văn hoá biển đảo. Nhóm II là các vấn đề văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa sẽ chỉ đề cập những nét chung nhất trong khuôn khổ của “Thay lời kết”.

 

1. Văn hoá biển và phương pháp luận nghiên cứu
văn hoá biển

1.1. “Văn hoá biển đảo” có thể được xem là một khái niệm mới. Trong các tài liệu trong nước và nước ngoài lâu nay chủ yếu chỉ nói đến “quyền lực biển” và “văn hoá biển”.

Akifumi Iwabuchi [2007] dùng thuật ngữ “Sea powers” để chỉ những quốc gia có quyền lực biển, hoạt động nhiều trên biển, làm chủ đại dương (thường là chỉ trong những giai đoạn nhất định của lịch sử). Quốc gia biển đầu tiên được biết đến trong lịch sử là Phoenicia ở Tây Nam Á. Quốc gia biển tiếp theo là Hy Lạp cổ đại, sau đó là La Mã. Tiếp theo La Mã là người Viking ở Bắc Âu. Từ thời trung đại trở đi là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, hiện nay là Mỹ. Ở Châu Á, Nhật Bản từng là quốc gia biển trong giai đoạn từ sau chiến tranh Nhật-Nga đến 1945.

Quốc gia biển thì không nhiều, các dân tộc có văn hoá biển thì nhiều hơn. Nhưng khi nào thì có thể nói rằng một dân tộc có văn hoá biển? Nói cách khác, cần có tiêu chí phân biệt sự tồn tại của những yếu tố văn hoá biển với sự tồn tại của văn hoá biển như một thành tố của văn hoá dân tộc.

1.2. Văn hoá biển (tiếng Anh: marine culture, sea culture; tiếng Nga: морская культура; tiếng Hoa: 海洋文化 - hải dương văn hoá) là vấn đề gần đây bắt đầu được thế giới quan tâm nhiều. Về sách có thể kể làm ví dụ các cuốn như: Culture of Coldwater Marine Fish của Erlend Moksness, E. Kjorsvik và Y. Olsen (2004); Marine Fish Culture của John W. Tucker (1998); Flowing Water Fish Culture của Richard W. Soderberg (1994); Shrimp Culture: Principles and Practices của A.W. Fast và L.J. Lester (1992); Culture of Marine Invertebrates: Selected Readings của Carl J. Berg (1983), v.v. Tìm kiếm thuật ngữ “marine culture” bằng mạng Google.com vào tháng 6-2011, ta thu được khoảng 188 triệu kết quả Ở Úc có riêng một website về văn hoá biển (www.marineculture.com.au/). Ở Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Biển Tokyo (Tokyo University of Marine Science & Technology), có một chuyên ngành Nhân học biển (Maritime Anthropology) và Văn hoá học biển (Marine Culturology) do GS. Akifumi Iwabuchi đứng đầu [Akifumi Iwabuchi 2007, 2010] (x. hình 1).

Hình 1: GS. Akifumi Iwabuchi và một số công trình
về Nhân học biển và Văn hoá học biển

Văn hóa biển là khái niệm dùng để chỉ sản phẩm văn hoá phân loại theo điều kiện sinh thái, hay khái quát hơn là văn hoá xét theo không gian, bên cạnh những khái niệm như “văn hoá núi” - “văn hóa đồng bằng”; “văn hoá xứ nóng” - “văn hoá xứ lạnh”; “văn hoá gió mùa”, v.v. GS. Ngô Đức Thịnh [2005] coi văn hoá biển là một dạng thức thuộc nhóm “văn hoá sinh thái”.

Văn hóa biển được một số nhà nghiên cứu xem là một trong những cội nguồn của văn minh nhân loại; văn hoá Hy Lạp cổ đại và văn hoá Địa Trung Hải là những nền văn hoá biển điển hình và là cội nguồn của văn hóa phương Tây. Văn hóa biển là một bộ phận quan trọng thuộc sở hữu của con người do nền văn minh vật chất và tinh thần tạo nên. Văn hóa biển là một hiện tượng văn hoá hình thành dưới tác động của môi trường biển lên cuộc sống và lao động của con người, lên các giá trị, lên thực tiễn tinh thần và sức sản xuất vật chất của xã hội [Marine tourism 2006]. Văn hóa biển được định nghĩa là văn hóa có liên quan tới đại dương, bắt nguồn từ trong hoạt động sáng tạo văn hóa trong một thời gian dài của cư dân vùng duyên hải sống trong sự tương tác trực tiếp với biển, hình thành bởi tác động của các tục lệ biển, các giá trị và các biểu tượng văn hoá hữu hình và vô hình khác [Shanghai World Expo 2010].

Những cách hiểu và định nghĩa kiểu trên là rất phổ biến, chúng phần nhiều cung cấp một nhận thức cảm tính nhưng rất khó sử dụng do thiếu các tiêu chí, đặc trưng tường minh. Để làm việc, chúng tôi đề xuất một định nghĩa về văn hoá biển từ góc nhìn văn hoá học như sau: Văn hoá biển là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra và tích lũy được trong quá trình tồn tại lấy biển làm nguồn sống chính.

Với định nghĩa này, văn hoá biển trước hết phải là văn hoá, nó phải thỏa mãn bốn đặc trưng của văn hoá nói chung là tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh (“do con người sáng tạo ra”), và tính lịch sử (“...tích lũy được”). Ngoài bốn đặc trưng chung, có hai đặc trưng riêng làm nhiệm vụ khu biệt văn hoá biển với các dạng thức văn hoá khác: Thứ nhất là đặc trưng về không gian tồn tại: “lấy biển cả làm nguồn sống”. Thứ hai là đặc trưng định lượng về không gian tồn tại ấy: biển cả không chỉ là nguồn sống mà phải là “nguồn sống chính”.

Theo định nghĩa trên, một dân tộc có thể được coi là có văn hoá biển khi và chỉ khi văn hoá biển là một thành tố hữu cơ không thể thiếu của vốn văn hoá dân tộc. Điều đó sẽ đạt được khi hội đủ bốn điều kiện:

(a) Về không gian, khu vực sinh tồn nhờ biển đủ lớn để cộng đồng biết đến và thừa nhận;

(b) Về chủ thể, cư dân sống bằng biển cả đủ đông để trở nên một trong những lực lượng quan trọng không thể xem thường của cộng đồng;

(c) Về hoạt động, đóng góp kinh tế - xã hội của nghề biển đủ nhiều để trở thành nguồn sống chính của cộng đồng;

(d) Cuối cùng, thời gian tồn tại của chủ thể ấy trong không gian ấy với những đóng góp ấy đủ dài để trở thành truyền thống và đi vào tâm thức chung của cộng đồng.

1.3. Định nghĩa trên hàm chứa hai sự khu biệt quan trọng: “Văn hoá biển” đối lập với “văn hoá đất liền (lục địa)” và không đồng nhất với “văn hoá sông nước”.

Một số định nghĩa về văn hoá biển coi biển là nơi con người sinh sống và hoạt động. Mới đọc qua thì thấy bình thường nhưng nghĩ kỹ sẽ thấy là đã có sự nhầm lẫn giữa “văn hoá đất liền” với “văn hoá biển”. Sự khác biệt cơ bản giữa chúng là ở quan hệ của con người với không gian: Con người có nguồn gốc gián tiếp từ loài cá đã từ bỏ đại dương vào khoảng 400 triệu năm trước bò vào đất liền rồi thích nghi dần với cuộc sống trên đất liền, phát triển thành động vật. Đối với con người, đất liền vừa là không gian sống, vừa là không gian để kiếm sống. Trong khi đó, đại dương đối với con người không phải là không gian sống, nó chỉ là không gian để kiếm sống mà thôi. Sự tồn tại của một số vạn chài lấy thuyền làm nhà (dĩ thuyền vi gia), sống lênh đênh trên mặt nước ở vùng biển tĩnh như Hạ Long hay ở cửa sông, ven biển như Cửa Sót (Hà Tĩnh) không phải là hình thức sinh tồn phổ biến. Vì vậy tiêu chí nhận diện chất biển trong định nghĩa của chúng tôi chỉ là việc “lấy biển làm nguồn sống”. Sự lẫn lộn giữa “văn hoá biển” với “văn hoá đất liền” đã khiến cho một số nhà nghiên cứu Việt Nam dẫn ra sự kiện trong truyện cổ tích Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang làm bằng chứng về văn hoá biển. Thực chất, việc Mai An Tiêm tồn tại được giữa đảo hoang bằng giống dưa hấu do mình phát minh ra là nhờ văn hoá đất liền chứ không phải văn hoá biển!

Mặt khác, một số định nghĩa về văn hoá biển lại ghi rằng không gian sống của chủ nhân văn hoá biển là vùng duyên hải (x., chẳng hạn, định nghĩa trong [Shanghai World Expo 2010] nêu trên) là quá hẹp. Chủ nhân văn hoá biển bao gồm ba nhóm: (a) số đông sống ở vùng duyên hải (vùng đất ven biển); (b) số ít hơn sống trên các đảo; (c) số không đáng kể sống du cư trên biển, nói đúng hơn là ở vùng biển cận duyên (vùng biển ven bờ). Do không gian sống của chủ nhân văn hoá biển tuy chủ yếu là vùng duyên hải nhưng không hoàn toàn giới hạn trong vùng duyên hải như vậy, cho nên chúng tôi không đưa tiêu chí này vào trong định nghĩa văn hoá biển.

Nhưng cho dù sống ở đâu, “chất biển” này chỉ có thể xem là nổi trội, là mang tính đại diện cho văn hoá của cư dân khi “lượng biển” trở thành nguồn sống CHÍNH của cộng đồng cư dân đó. Điều đó có nghĩa là văn hoá biển chỉ trở thành đại diện cho văn hoá của một cộng đồng cư dân khi biển chi phối ít nhất là phân nửa những suy nghĩ và hoạt động trong mọi lĩnh vực của con người, hoặc chi phối suy nghĩ và hoạt động trong mọi lĩnh vực của ít nhất là phân nửa số cư dân trong cộng đồng. Trừ nhóm chủ nhân văn hoá biển với số lượng không đáng kể sống du cư ở vùng biển cận duyên có thể xem là chuyên sống bằng khai thác biển, thì hai nhóm còn lại (sống ở vùng duyên hải và trên các đảo) đều có làm nông tùy theo diện tích đất trồng mà họ sở hữu. Tuy nhiên, dù sống ven biển hay trên đảo, họ chỉ là chủ nhân văn hoá biển khi đất gieo trồng của họ không đủ nuôi sống con người, “lượng biển” so với “lượng đất liền” ít nhất phải chiếm tỷ lệ phân nửa, cộng đồng của họ ít nhất phải mang tính bán ngư bán nông.

Tiêu chí định lượng này cũng đã được các nhà nghiên cứu Nhật Bản sử dụng khi định nghĩa “làng chài”. Sakurada Katsunori (1953) định nghĩa làng chài là “làng cư trú của những người theo ngư nghiệp..., hoặc là làng cư trú bao gồm cả những người theo ngư nghiệp và những người sinh sống trong mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với những người theo ngư nghiệp”. Takeuchi Toshimi (1958) định nghĩa làng chài là “xã hội làng xóm được tạo nên bởi những người sinh sống chủ yếu bằng nghề thủy sản” [dẫn theo Chu Xuân Giao 2008: 401]. Theo hướng này, Yabuuchi Yoshihiko (1958) và Takakuwa Morihumi (1976) đưa ra tiêu chuẩn là một làng sẽ được coi là làng chài nếu tổng số nhân khẩu lao động theo ngư nghiệp trong làng là 20% (trở lên) [dẫn theo Chu Xuân Giao 2008: 402]. Cần chú ý là tỷ lệ 20% lao động ngư nghiệp này chắc là phải cộng thêm với số nhân khẩu phụ thuộc (cha mẹ, vợ con) mà họ nuôi sống nữa mới đạt đến tiêu chuẩn “sinh sống chủ yếu bằng nghề thủy sản”.

“Văn hoá biển” còn cần phân biệt với “văn hoá sông nước”. Sự khác biệt cơ bản giữa “văn hoá biển” với “văn hoá sông nước” là ở chỗ sông nước nằm trên đất liền, thuộc về lục địa, còn biển cả thì không. Ở trên mặt nước, con người có thể thực hiện mọi hoạt động sinh tồn từ A đến Z, nhưng ở trên biển cả thì không. Tình trạng các nhà nghiên cứu sử dụng những dấu hiệu của văn hoá sông nước để gán cho văn hoá biển, lẫn lộn “văn hoá biển” với “văn hoá sông nước” là rất phổ biến. Dẫn chứng kinh viện của nhiều nhà nghiên cứu khi nói đến văn hoá biển ở Việt Nam là câu của Hoài Nam Vương Lưu An (怀南王刘安) đời Hán: “Người Việt thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xăm mình, đóng khố để tiện bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền”; hoặc hình ảnh những con thuyền thân dài, dùng mái chèo chạm khắc trên các trống đồng Đông Sơn vốn là thuyền đi sông nước. Sự đậm đặc của văn hoá sông nước ở Việt Nam và Đông Nam Á là điều khẳng định hiển nhiên [Trần Ngọc Thêm 1998, 2006; Hội VNDG VN 2006], trong khi việc có hay không văn hoá biển ở Việt Nam lại là vấn đề tranh luận đến nay chưa ngã ngũ.

1.4. Cách hiểu về khái niệm “văn hoá biển” như trên có thể giúp ta có cơ sở để giải quyết được cuộc tranh luận này.

Mọi cuộc tranh luận đều có nguồn gốc từ quan niệm, tức là từ cách nhìn nhận và lý giải thực tại.

Để giải quyết tận gốc vấn đề này thì, theo chúng tôi, về mặt phương pháp luận cần đặc biệt chú ý hai nguyên tắc sau:

Thứ nhất là nguyên tắc hệ thống. Phải mổ xẻ vấn đề dưới một cái nhìn hệ thống và luôn chú ý đúng mức đến yêu cầu về tính hệ thống của văn hoá và văn hoá biển trên cả hai mặt định tính và định lượng.

Dưới cái nhìn hệ thống về mặt định tính, cần dựa vào định nghĩa để xét khái niệm “văn hoá biển ở Việt Nam” về ba phương diện: từ chủ thể, trong thời gian, và trong không gian.

Dưới cái nhìn hệ thống về mặt định lượng, cần rà soát xem về tất cả các phương diện và các thành tố, mức độ của việc lấy biển cả làm nguồn sống đã trở thành CHÍNH (chủ yếu) hay chưa?

Thứ hai là nguyên tắc lựa chọn dựa trên luật cung cầu và luật tiết kiệm của văn hoá. Không phải cứ sống cạnh biển thì đương nhiên sẽ có văn hoá biển. Giá trị văn hoá là kết quả của sự lựa chọn xuất phát từ nhu cầu của con người và những khả năng mà môi trường có thể cung cấp; nếu có nhiều lựa chọn, con người sẽ chọn cái hợp lý nhất, tiết kiệm nhất đối với mình.

 

2. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn từ chủ thể và trong thời gian

2.1. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn từ chủ thể

Suốt dọc bờ biển dài 3.260 km của Việt Nam hiện nay về cơ bản chỉ có một tộc người cư trú là người Việt. Người Việt ven biển có những giá trị tích lũy được về biển trong quá trình tồn tại, nhưng không thể nói là những giá trị ấy là phần chủ yếu trong vốn văn hoá của họ. Cũng không thể nói là những người Việt đó đều lấy biển làm nguồn sống chính. Và không thể nói rằng những người Việt lấy biển làm nguồn sống chính đó là số đông.

2.2. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn trong thời gian

Nếu kết hợp phương diện chủ thể với thời gian thì vấn đề văn hoá biển ở Việt Nam sẽ trở nên phức tạp hơn.

2.2.1. Lâu nay nhiều sách vở của các nhà nghiên cứu khác nhau trên thế giới, từ Trung Quốc đến phương Tây, đã đi đến kết luận rằng người Đông Sơn (hay người Việt cổ) là những cư dân thạo sông nước, biển khơi [Viện Đông Nam Á 1996: 8-13].

Hình 2: Bản đồ thế giới của Claudius Ptolemy vẽ trong cuốn
“
Geographia” khoảng năm 150 sCN và được phục dựng lại vào tk. XV

Claudius Ptolemy (90-168 sCN) – nhà toán học kiêm thiên văn học, địa lý học, chiêm tinh học La Mã sống ở Ai-cập – trên tấm bản đồ thế giới nổi tiếng vẽ trong cuốn Geographia vào khoảng năm 150 sCN (được phục dựng lại vào tk. XV, x. hình 2) đã ghi ở tận cùng phía Đông Nam địa danh “Cattigara” [x. Ptolemy's world map; Ptolemy's Geography].

Mặc dù các vị trí trên bản đồ Ptolemy đều khác rất xa so với thực tế (x. hình 3), nhưng các nhà nghiên cứu sống vào tk. XV-XVI (khi bản đồ này được phục dựng lại), đã xác định rằng Cattigara là một hải cảng gần Kẻ Chợ (Kẻ Chợ là tên gọi dân gian kinh thành Thăng Long vào thời Lê) [Facts on File 2001]. Vì là điểm tận cùng của con đường gia vị (Spice route) nên Cattigara trở thành một địa danh được giới hàng hải châu Âu hết sức quan tâm (x. hình 4).

 

Hình 3: Địa danh “Cattigara” trên bản đồ Ptolemy (được khoanh lại)

Hình 4: Cattigara trên con đường hồ tiêu nối với Hy Lạp - La Mã
(phần Đông Nam Á)

Gần đây, địa danh Cattigara trong bản đồ Ptolemy đã được Hà Hữu Nga nghiên cứu khá kỹ. Sau khi phân tiết thành [Kat-tiga-ra], tác giả đã chứng minh rằng đó là một cụm từ Việt cổ hoàn toàn, trong đó kat = quặt (ss. vật (Việt Trì), quật, quặt), tira = ba (ss. tba); ra = sông, cửa sông (ss. rào). Kattigara nghĩa là “(vùng) ba sông quặt lại”, chỉ vùng ngã ba sông ở Việt Trì (nơi sông Đà đến đây chảy vòng ngược lại). Đó chính là Phong Châu - kinh đô nước Việt - lúc ấy nằm sát cửa biển, trên tuyến đường hàng hải Á-Âu [Hà Hữu Nga 2012].

Gần đây, một học giả gốc Hoa là Wang Gungwu trong cuốn sách nghiên cứu về cổ sử thương mại trên biển “Nam Hải” (tức là biển Đông của Việt Nam) đã thấy rằng cho đến hết thời Bắc thuộc, mọi hoạt động hàng hải trên vùng biển này chủ yếu vẫn tiếp tục do người Giao Chỉ thực hiện, Quảng Châu chỉ nắm một phần nhỏ. Giao dịch biển của Trung Quốc thời còn cai trị Việt Nam chủ yếu thực hiện qua Giao Chỉ, từ nội địa đến Giao Chỉ thì đi bằng đường bộ. Chỉ từ sau khi Việt Nam giành được độc lập (đầu tk. X, thời Tống) trở đi, Trung Quốc mới tự lập trong lĩnh vực giao thương biển, những thương nhân người Hoa gốc Việt (Chinese-Yueh) mới bắt đầu phát huy mạnh ảnh hưởng của mình trên biển [Wang Gungwu 2003; Vũ Hữu San 2009]. Những lập luận này của Wang Gungwu dường như đúng với nguyên tắc lựa chọn dựa trên luật tiết kiệm và luật cung cầu.

Nghiên cứu quan niệm về biển cả của người Trung Hoa dưới hai triều đại Minh-Thanh của Nguyễn Duy Chính cũng tiếp tục góp phần làm sáng tỏ nhận định về cái nhìn lục địa đối với biển của người Hoa và tầm nhìn biển kém của các vương triều Trung Hoa ngay cả trong giai đoạn Minh-Thanh này [Nguyễn Duy Chính 2009]. Những tộc người giỏi về sông nước ở vùng Nam Trung Hoa thì đều là những tộc gốc Bách Việt: Theo các cuốn Trang Tử và Mặc Địch (墨翟), Ngô và Việt là hai nước có trình độ đóng thuyền cao nhất, kể cả thuyền chiến và thuyền đi biển [Eberhard W. 1968: 397] thì cả hai đều chính là những tộc người Bách Việt. Người Đản gia (蜑家, Dànjiā, Tan-ka) đến nay vẫn chuyên sống bằng nghề sông nước ở Nam Trung Hoa cũng là một tộc Bách Việt chưa bị Hán hóa [Wikipedia: Tanka people].

Những tư liệu mới về cái nhìn về biển duyên hải Bắc và Trung Việt Nam từ thời Lý-Trần đến thời Nguyễn mới đây cũng được Li Tana đề cập đến [Li Tana 2010]. Bách khoa thư Britannica viết: “Người Đông Sơn là dân đi biển, họ đã đi lại và buôn bán xuyên khắp vùng Đông Nam Á”[1] [Encyclopædia Britannica 2011]. Những đóng góp của người Việt trên lĩnh vực hàng hải qua cái nhìn của người phương Tây được đúc kết khá kỹ trong cuốn “Contribution à l'histoire de la nation vietnamienne” của Jean Chesneaux in năm 1955 và dịch ra tiếng Anh năm 1966 [x. Chesneaux Jean 1966: 17-30]. Giao dịch hàng hải của Việt Nam với thế giới Hồi giáo cũng được Shahab Setudeh-Nejad khảo cứu [1996]. Gần đây nhất, cuốn “Địa đàng ở phương Đông” của Stephen Oppenheimer xuất bản ở London năm 1999 lại một lần nữa khuấy động đề tài này [bản tiếng Việt: Oppenheimer Stephen 2005].

2.2.2. Nếu sự thừa nhận quốc tế này về vai trò của người Việt Nam xưa trên đại dương là đúng thì có thể có hai tình huống xảy ra:

Một là từ tk. X đến nay năng lực văn hoá biển đó của người Việt đã trở nên suy thoái. Theo nguyên lý lựa chọn thì lý do suy thoái có thể là do đất liền đủ nuôi sống nên con người không cần đến biển. Nhưng như vậy thì sẽ không giải thích được tại sao vẫn đất ấy, người ấy, biển ấy mà người Việt trước đó lại thạo biển?

Tình huống thứ hai là người Việt Nam thạo biển trước tk. X và người Việt ngại biển sau tk. X là những nhóm cư dân khác nhau. Có vẻ phù hợp với giả thuyết này là sư kiện vào thời tiền sử, từng có các cuộc di dân lớn của cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesia) từ khu vực nay là Đài Loan và đông nam Trung Quốc (vùng cư trú của người Bách Việt: Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông) xuống vùng nay là Việt Nam (với cư dân bản địa là người nói ngôn ngữ Nam Á), và Đông Nam Á hải đảo. Mà người Nam Đảo thì là chủ nhân có tiếng của đại dương (có những bộ lạc được mệnh danh là “hải du” - Sea nomads). Mặt khác, sau đó có những nhóm người Nam Đảo nói ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo (Malayo-Polynesia) mang theo văn hóa biển đặc trưng tiếp tục thâm nhập từ hướng biển vào đất liền và sống cộng cư với cư dân Nam Á bản địa trên suốt một dải ven biển từ vùng nay là Quảng Bình đến Nam Bộ Việt Nam [Lương Ninh 2004]. Như thế, phải chăng cư dân Đông Sơn thạo biển chính là các tộc người Nam Đảo, còn cư dân ngại biển là người Nam Á?

Tuy nhiên lập luận đó cũng chứa đựng những vấn đề chưa giải quyết hết: Thứ nhất, nó mâu thuẫn với các kết quả nghiên cứu về ưu thế biển của người Việt trước người Hoa trong lịch sử. Thứ hai, thực tế cho thấy đến nay, phần lớn các tộc người thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam như Êđê, Jarai, Churu, Raglai đều sống trên vùng núi và cao nguyên, văn hóa biển của họ đến nay chỉ còn là những tàn tích trong các truyền thuyết, tín ngưỡng, điêu khắc, kiến trúc... mà thôi. Trên suốt dọc bờ biển Việt Nam dài hơn ba nghìn cây số, duy nhất chỉ còn một tộc người thuộc ngữ hệ Nam Đảo cư trú là tộc Chăm. Nhưng ngay người Chăm thì cũng chỉ là chủ nhân của biển khơi trong lịch sử (với các hoạt động khai thác, buôn bán, cướp biển và chinh chiến), còn hiện nay thì đã chuyển thành cư dân nông nghiệp lục địa.

Vấn đề người Đông Sơn thạo biển về cơ bản đến nay vẫn còn để ngỏ.

2.2.3. Nói về văn hoá biển ở Việt Nam nhìn trong thời gian, còn cần phải chú ý đến việc nhiều người hay sử dụng một số sự kiện mà không đặt trong tính hệ thống, khiến chúng bị nhận nhầm là bằng chứng về văn hoá biển.

Thứ nhất là các “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ Quỳnh Văn, Bàu Tró, Hạ Long… thường được xem là dấu tích chứng minh rằng biển khơi là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cư dân tiền sử ven biển. Song nếu tư duy theo hệ thống thì sẽ thấy một điều đơn giản là khi sống trên một vùng “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”, người tiền sử ven biển chắc chắn đã không chỉ thu lượm sò điệp mà đồng thời còn đánh bắt cá ven biển, hái lượm cây cỏ hoa trái trên đất liền. Chỉ có điều là vỏ sò điệp thì còn lại, còn xương cá, cuống rau, vỏ trái cây thì đều đã bị tiêu hủy cùng thời gian. Cho nên sự tồn tại của các “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” chưa thể coi là bằng chứng đủ để kết luận rằng cư dân ven biển Việt Nam xưa ăn sò điệp nhiều hơn ăn cỏ cây hoa trái, rằng biển cả là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho họ.

Thứ hai là việc coi các hình thuyền chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn là thuyền đi biển của người Việt cổ. Các tác giả “Quân thủy Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm” đã có lý khi chỉ ra rằng thuyền Đông Sơn với hai đặc điểm là thân dài (tỷ lệ chiều dài chia cho chiều rộng bằng khoảng 5-6) và động lực chính là mái chèo đều là những đặc điểm của thuyền đi sông chứ không phải là thuyền đi biển – thuyền đi biển châu Âu và Trung Quốc tk. 16-17 có tỷ lệ dài/rộng chỉ gần bằng 4 và động lực chính phải là buồm [Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng 1983: 425-427].

Thứ ba, truyền thuyết Rồng-Tiên với việc Lạc Long Quân đem năm mươi con về biển cũng hay được dẫn ra như bằng chứng cho văn hoá biển của người Việt cổ. Nhưng nếu nhớ thêm rằng 50 con theo cha về biển đều mất hút không để lại dấu vết đóng góp gì, chỉ có 50 con theo mẹ lên rừng mới đời đời nối nhau làm thủ lĩnh, gọi là Hùng Vương, thì sẽ thấy truyền thuyết này đã chứng minh cho điều ngược lại là ở người Việt, văn hoá đất liền (trong đó có văn hoá sông nước trên đất liền) vượt trội hơn hẳn văn hoá biển.

Thứ tư, lại có những người dẫn ra truyền thuyết về quả dưa hấu của Mai An Tiêm như một chứng tích về văn hoá biển. Trong khi thực ra thì truyền thuyết Mai An Tiêm là một bằng chứng rất mạnh mẽ về điều ngược lại là sức sống của văn hoá đất liền: Dù bị đày ra sống ở đảo xa, Mai An Tiêm vẫn sống với tâm thức của một người nông dân suốt đời trồng trọt. Anh ta không hề muốn chuyển sang học nghề đánh cá để thích ứng với cuộc sống giữa biển khơi mà tiếp tục phát huy sở trường trồng trọt của mình để rồi thành công với việc phát minh ra cây dưa hấu như một giống cây trồng mới và kết thúc thắng lợi bằng việc được trở về sống trong đất liền!

 

3. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn trong không gian

3.1. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn theo trục Bắc-Nam

Nhìn trong không gian theo trục Bắc-Nam, bờ biển ở Việt Nam có thể chia thành 5 khu vực với mức độ văn hoá biển khác nhau rõ rệt.

3.1.1. Khu vực I ở Bắc Bộ (từ Móng Cái tới Thanh Hóa) có văn hoá biển ở mức mờ nhạt nhất. Nơi đây có hai đặc điểm quan trọng về địa hình: (a) bên trong đất liền là một vùng đồng bằng rộng lớn do châu thổ các con sông lớn tạo nên; (b) bên ngoài là vịnh Bắc Bộ với đáy biển nông.

Theo nguyên tắc lựa chọn dựa trên luật tiết kiệm và luật cung cầu, thì khi sống ở vùng đồng bằng rộng lớn phì nhiêu đủ nuôi sống con người, người Việt gần như không cần tới cả rừng lẫn biển (“xa rừng nhạt biển”), nhất là khi biển cả chứa đựng quá nhiều hiểm nguy. Do vậy, dễ hiểu là tại sao họ chăm chăm phát huy tối đa thế mạnh của nghề trồng lúa, nên sinh ra tâm thức quay lưng lại với biển, chỉ tìm cách “quai đê, lấn biển”, “thau chua, rửa mặn” để trồng lúa mà thôi.

Mặt khác, do bên trong là đồng bằng với các con sông lớn nên độ dốc ra biển rất yếu và độ bồi đắp phù sa thì rất cao, thiếu các bãi biển thuận tiện cho việc ra khơi. Trong khi đó thì vịnh Bắc Bộ lại rất nông (vào thời biển thoái nơi đây từng là đất liền), các dòng hải lưu không ghé vào đây, cá tôm không tụ tập nhiều, khiến việc khai thác biển nếu có thì cũng rất ít hiệu quả, càng khiến tâm thức quay lưng lại với biển có điều kiện phát triển.

Tất nhiên là những đặc điểm trên không giống nhau hoàn toàn trên suốt khu vực. Dễ thấy là đặc tính “xa rừng nhạt biển” đậm nét nhất là ở quãng giữa, ở vùng trung tâm đồng bằng châu thổ (Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình) và nhạt hơn ở hai đầu của khu vực này (Quảng Ninh - Hải Phòng ở phía Bắc và Thanh Hóa ở phía Nam).

Ở khu vực Bắc Bộ này người Việt truyền thống quen ăn cá đồng nên ít có thói quen ăn cá biển, ưa chấm rau cà bằng tương nên không có bất cứ một cơ sở làm nước mắm truyền thống nào[2], tín ngưỡng thờ cá voi hoàn toàn vắng bóng. Hình dáng các con thuyền trên trống đồng Đông Sơn ở Thanh Hóa đều là dạng thuyền thúng, thân ngắn, đan bằng tre nứa, trát nhựa cây [Đỗ Như Chung 2003: 189-190], không thể ra xa bờ.

3.1.2. Khu vực II ở bắc Trung Bộ (từ Nghệ An đến Thừa Thiên - Huế), bắt đầu hiện rõ hơn những yếu tố của văn hoá biển. Đặc điểm địa hình của khu vực này là: (a) bên trong thì đồng bằng thu hẹp và khô cằn, núi gần, độ dốc cao hơn; (b) bên ngoài thì biển bớt nông hơn, giao thông biển đã thuận tiện hơn, gần bờ đã xuất hiện các dòng hải lưu.

Dễ hiểu là ở khu vực này văn hoá biển đã mạnh hơn: người Việt đã quen ăn cá biển, chấm nước mắm, tín ngưỡng thờ cá voi bắt đầu xuất hiện. Nói về cá voi và tục thờ cá voi, trong dân gian có câu “Tại Nam vi thần, tại Bắc vi ngư” (ở Nam là thần, ở Bắc là cá). Còn Trịnh Hoài Đức trong sách “Gia Định thành thông chí” thì viết rằng “Chỉ nước Nam ta từ Linh Giang [= sông Gianh, Quảng Bình] đến Hà Tiên mới có việc ấy [tục thờ cá voi] và rất linh nghiệm, còn các biển khác thì không có” [3].

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà tương truyền khi thua trận, Vua An Dương Vương đã lên ngựa đưa Mỵ Châu chạy về phương Nam đến chân núi Mộ Dạ (thuộc huyện Diễn Châu, Nghệ An) thì mới ra biển để trầm mình ở cửa Đại Nha.

Trong kháng chiến chống Mỹ, ngành giao thông vận tải nước ta đã lợi dụng dòng hải lưu chảy trên bề mặt để thả các bao gạo bọc nilon màu nước biển xuất phát từ các đảo Hòn Ngư, Hòn Mê ở Nghệ An cho trôi dọc bờ biển đến Quảng Bình cung cấp lương thực phục vụ chiến trường B [Ứng dụng hải lưu 2009]

Khu vực II này là vùng chuyển tiếp giữa nơi có văn hoá biển kém nhất (khu vực I) và nơi có văn hoá biển khá nhất (khu vực III). Ở nơi có văn hoá biển kém nhất, con người dựa hẳn vào đồng ruộng; ở nơi có văn hoá biển khá nhất, con người dựa được nhiều vào biển. Còn ở khu vực chuyển tiếp này thì thế mạnh nông nghiệp của đất liền đã hết trong khi vai trò biển thì chưa đủ thay thế. Trong bối cảnh không có lựa chọn nào khác, khu vực này trở thành nơi mà cuộc sống con người là khó khăn nhất trong số tất cả năm khu vực ven biển.

3.1.3. Khu vực III từ trung Trung Bộ đến đông Nam Bộ (từ Đà Nẵng đến Bà Rịa - Vũng Tàu), là nơi có văn hoá biển mạnh nhất. Đặc điểm địa hình của khu vực này là: (a) bên trong thì đồng bằng rất hẹp và tương đối khô cằn (cá biệt cũng có chỗ có đồng bằng tương đối phì nhiêu như Phú Yên), núi rất gần, độ dốc lớn; (b) bên ngoài thì biển sâu, giao thông biển thuận tiện, các dòng hải lưu đi sát ven bờ, tài nguyên biển phong phú. Cũng do sự kết hợp của núi và biển mà ở khu vực này có nhiều đầm phá, nhiều vịnh biển, nhiều cảng biển, nhiều bãi biển đẹp nhất Việt Nam.

Do sức ép của điều kiện tự nhiên, con người ở đây, dù là người Chăm khi xưa hay người Việt sau này, đều ở trong tình thế bắt buộc phải lựa chọn phương án tăng cường nguồn sống từ biển. Đó là lý do chính giải thích độ đậm của văn hoá biển ở đây, còn việc do giao lưu văn hóa mà người Việt tiếp thu truyền thống khai thác biển của người Chăm thì đây chỉ là yếu tố rất phụ, không mang tính quyết định.

3.1.4. Khu vực IV ở phía đông của miền Tây Nam Bộ (từ Cần Giờ đến Cà Mau), là nơi văn hoá biển lại suy giảm mạnh, gần như ngang với khu vực I. Đặc điểm địa hình của khu vực này khá giống với khu vực I: (a) bên trong là đồng bằng châu thổ màu mỡ nhất nước với mạng lưới kênh rạch và hệ thống sông Cửu Long lớn nhất nước, độ dốc rất yếu; (b) bên ngoài là cửa sông phù sa bồi đắp, biển nông, giao thông biển không thuận tiện.

3.1.5. Khu vực V ở phía tây của miền Tây Nam Bộ (từ Cà Mau đến Hà Tiên), là nơi văn hoá biển có khá lên, có lẽ tương đương với khu vực II ở bắc Trung Bộ. Đặc điểm địa hình của khu vực này là: (a) bên trong là đồng bằng châu thổ màu mỡ với mạng lưới kênh rạch dày đặc nhưng không có sông lớn chảy qua; (b) bên ngoài biển khá sâu, có đảo Phú Quốc lớn nhất nước, giao thông biển thuận tiện.

3.1.6. Năm khu vực trên (hình 5) có thể xếp thành ba nhóm theo mức độ đậm nhạt của văn hoá biển giảm dần: Nhóm thứ nhất có văn hoá biển ở mức độ đậm nhất là khu vực III (từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu). Nhóm thứ hai có văn hoá biển ở mức độ nhạt hơn bao gồm khu vực II (từ Nghệ An đến Thừa Thiên - Huế) và khu vực V (từ Cà Mau đến Hà Tiên). Nhóm thứ ba với văn hoá biển mờ nhạt hơn nữa bao gồm khu vực I (ở Bắc Bộ) và khu vực IV (từ từ Cần Giờ đến Cà Mau). Hình 6-7 dưới đây cho thấy sự tương đồng của hai khu vực I và IV.

3.2. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn theo trục Đông-Tây

3.2.1. Tuy nhiên, ngay cả khu vực III (từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu) là nơi có văn hoá biển ở mức độ đậm nhất thì văn hoá biển ấy cũng chưa đạt mức đáng tự hào (nếu so với văn hoá biển của các quốc gia biển).

Ngô Đức Thịnh nói tương đối đúng rằng Việt Nam chỉ có truyền thống “văn hoá biển cận duyên” chứ không có “văn hoá biển đại dương” [Ngô Đức Thịnh 2010]. “Tương đối đúng” là vì hai lẽ: Thứ nhất là nhận định đó chỉ đúng trong chiều kích không gian thuần túy Đông-Tây. Thứ hai là ngay trong một chiều kích Đông-Tây, văn hoá biển cận duyên của người Việt vẫn là yếu lắm.

3.2.2. Như trên đã nói, trong truyền thuyết thì 50 con theo cha Lạc Long Quân xuống biển không thấy đóng góp được gì. Trong toàn bộ lịch sử thì chỉ có hai triều đại có nguồn gốc dân chài là triều Trần và triều Mạc, nhưng tính chất chài lưới của cả hai triều đại đều là chài lưới trên sông nước chứ không phải ở biển cận duyên.

Thủy quân Việt Nam có đóng góp rất lớn trong các cuộc chiến tranh giữ nước, nhưng các trận thủy chiến được biết đến trong lịch sử đều là thủy chiến ở trong sông, đồng chứ không phải là ở trên biển, dù là biển cận duyên. Các trận Bạch Đằng năm 938 (Ngô Quyền chống quân Nam Hán), năm 981 (nhà Tiền Lê chống quân Tống) và năm 1288 (nhà Trần chống quân Nguyên) đều là thủy quân ta dụ địch vào cửa sông rồi mới đánh. Thủy quân Tây Sơn nổi tiếng với trận Rạch Gầm - Xoài Mút cũng là chiến thắng trên sông (Tiền) chứ không phải là trên biển, dù là biển cận duyên.

Người Việt, quân thủy Việt có dùng biển làm đường giao thông vận tải, nhưng chỉ là để hỗ trợ cho đường bộ, đường sông hoặc dùng khi không có đường bộ, đường sông. Những cuộc chinh phục các vùng đất miền Trung, miền Nam phần nhiều đi theo con đường biển vì các dãy núi cao đâm ra biển đã làm đứt đoạn các con đường bộ trên đất liền mà thời đó còn hiểm trở chưa khai phá. Đường biển luôn chỉ là phương án bất đắc dĩ khi không còn lựa chọn nào khác.

 

4. Văn hoá biển ở Việt Nam nhìn về định lượng

4.1. Về định lượng, ta thấy Việt Nam có tiềm năng biển rất lớn: Vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng gần gấp ba lần so với đất liền. Có hơn 4.000 hòn đảo và bãi đá ngầm lớn nhỏ. Tỷ lệ tiếp giáp với biển là 110/1 (cứ khoảng 110 km2 diện tích đất liền thì có 1 km đường bờ biển). Cả nước có 136 quận huyện ven biển và 12 huyện đảo thuộc 28 tỉnh thành với dân số khoảng 29,2 triệu người[4], bằng 34,6% dân số cả nước.

Tuy nhiên, chúng ta không có số liệu về việc có bao nhiêu làng ven biển và trên các đảo thực sự là làng biển; có bao nhiêu nghìn dân sống ven biển và trên các đảo thực sự chủ yếu là sống dựa vào nguồn tài nguyên biển. Chắc chắn là con số này sẽ ít hơn rất nhiều so với những con số tiềm năng nêu trên.

Song ta biết rằng 29,2 triệu người sống ven biển và trên các đảo ấy chỉ sở hữu có hơn 115.000 tàu thuyền khai thác hải sản, trong đó tàu công suất lớn (trên 90 mã lực) chỉ có khoảng 16.000 chiếc[5], tức tới 86% tàu thuyền là phương tiện đánh bắt gần bờ có công suất nhỏ, sản lượng thấp.

4.2. Nhiều người nói rằng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam yếu tố biển chiếm một tỷ lệ khá nhiều. Thực ra, thống kê nghiêm túc cho thấy nếu loại bỏ yếu tố sông nước ra thì con số đó cũng chẳng có bao nhiêu. Trong bộ “Kho tàng tục ngữ người Việt” hai tập do Nguyễn Xuân Kính chủ biên [2002] dày 3.238 trang với tổng cộng 16.097 câu tục ngữ, chỉ có tất cả 65 câu tục ngữ có chứa từ “biển” hoặc “bể” (chiếm 0,4%).

Trong 65 câu này thì chỉ có 18 câu (chiếm 28%) thể hiện tri thức dân gian về biển (kiểu như: Cò bay ngược nước vô nhà, cò bay xuôi nước lui ra biển; Chớp bể chớ mừng, chớp rừng chớ lo; Đi bể nhớ phường, đi đường nhớ lối...). Điều thú vị là tất cả 47 câu còn lại (chiếm 72%) đều nói lên điều ngược lại là tâm lý sợ biển của người Việt:

21 câu dùng biển làm hình tượng so sánh để nói lên ý nghĩa “lớn, rộng, nhiều, khó”, kiểu như: Cao như núi, rộng như bể; Chở củi vào rừng, đem muối bỏ bể; Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày, v.v.

17 câu dùng biển làm hình tượng so sánh để nói lên ý nghĩa “việc phi lý, không thể thực hiện được”, kiểu như: Lấy gầu tát biển; Dã tràng xe cát biển Đông; Bắt chấy cho mẹ chồng như bồ nông mò bể; Giăng dây ngang bể, bắc cầu qua sông, v.v.

7 câu dùng biển làm hình tượng so sánh đòn bẩy để nhấn mạnh vào một phẩm chất trong tính cách con người (Việt?) còn đáng sợ hơn cả biển, đó là sự nham hiểm của lòng người: Dò sông dò biển còn dò, Nào ai bẻ thước mà đo lòng người; Dạ sâu hơn bể, bụng kín hơn buồng; Dò sông, dò bể, dò nguồn, Biết sao được bụng lái buôn mà dò, v.v.

Và 1 câu nói về kẻ khoác lác cho thấy cái nhìn của người dân nội địa chưa bao giờ tới biển: Cây đa kẻ Chối thiếu một đầu gối đến trời, con ngòi kẻ Xe bắc một cái que tới biển.

 

5. Tóm lại, Việt Nam có hay không một nền văn hoá biển?

5.1. Theo bốn điều kiện để một dân tộc có thể được coi là có văn hoá biển đã nêu ở mục 1.3, có thể nói rằng trong lịch sử, Việt Nam đã từng có một giai đoạn (thời Đông Sơn và sau đó, rất có thể là đến hết thời chống Bắc thuộc) có văn hoá biển, thậm chí là một quốc gia (dân tộc) biển ở quy mô khu vực.

Nhưng từ tk. X trở lại đây thì Việt Nam chỉ có văn hoá sông nước và những yếu tố của văn hoá biển chứ không còn văn hoá biển như một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong đời sống văn hoá của dân tộc.

5.2. Trong toàn cõi Việt Nam, duy nhất chỉ có một khu vực từ Đà Nẵng đến Bà Rịa - Vũng Tàu là thực sự có văn hoá biển, mà chủ yếu cũng chỉ là văn hoá biển cận duyên.

Cái chất “cận duyên” ấy thể hiện ở chỗ tuy sống cạnh biển và nhờ biển rất nhiều, nhưng người dân miền Trung cũng không thoát khỏi tâm lý “sợ biển” chung của cả dân tộc. Ca dao Khánh Hòa có câu: Thuyền xuôi ra cửa Khánh Hòa / Buồm giăng hai cánh dạ em đà héo hon. Mới chỉ là “ra cửa Khánh Hòa” để vào vùng biển cận duyên thôi mà đã “dạ đà héo hon” rồi. Ca dao Quảng Ngãi thì nói: Hoàng Sa trời nước mênh mông / Người đi thì có mà không thấy về. Lính của đội Hoàng Sa do Chúa Nguyễn thành lập vào tk. XVII xem việc đi biển như một nghĩa cử đón nhận nhiệm vụ hy sinh vì Tổ quốc. Trước khi ra đi, mỗi người đều chuẩn bị cho mình một đôi chiếu là vật dùng để quấn xác khi phải chết, 7 đòn tre là vật để nẹp quanh thân, và 7 sợi dây mây dùng để bó xác; thi thể người xấu số sẽ được đồng đội thả xuống biển cả mênh mông [Nguyễn Ðăng Vũ 2004]. Lễ khao lề thế lính gần như một nghi lễ tế sống những con người cảm tử.

Cái chất “cận duyên” ấy còn thể hiện ở chỗ hệ thống các thương cảng của Việt Nam (như Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Sài Gòn, Óc Eo, v.v.) đều chủ yếu là nổi tiếng như nơi đón nhận, như điểm dừng chân của các thương thuyền quốc tế hơn là nơi xuất phát của những hải đoàn Việt Nam ra nước ngoài.

Không chỉ “cận duyên”, mà văn hoá biển miền Trung còn luôn bị đất liền chi phối. Nghi lễ cúng và dùng chày đâm ba cái vào Lỗ Lường của ngư dân lưới đăng Sở đầm Hòn Đỏ (Khánh Hòa) [Trần Ngọc Thêm 1996/2004: 237; Nguyễn Văn Thích 2010] chính là biểu hiện của việc đưa tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp đất liền ra áp dụng vào nghề khai thác biển.

5.3. Việc không có văn hoá biển còn thể hiện ngay trong cái nhìn mang tầm quốc gia về biển:

Dự báo thời tiết của Tổng cục Khí tượng - Thủy văn chỉ quan tâm dự báo những tai họa mà bão biển có thể gây ra cho đất liền chứ không tính đến những tai họa mà bão biển có thể gây ra cho người đang hoạt động ngay trên biển. Cơn bão Chanchu năm 2006 là một bài học đau đớn về khiếm khuyết này.

Website của Tổng cục Thống kê Việt Nam có 76 bảng biểu về mảng nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, trong đó thủy sản chỉ có vỏn vẹn 2 bảng biểu[6] mà thôi. Hải sản thì hoàn toàn không có số liệu.

Biển chỉ mới được thực sự chú ý từ Hội nghị IV của BCH TƯ Đảng khóa X (tháng 2-2007) với Nghị quyết về “Chiến lược biển đến năm 2020” mà mục tiêu là “vươn ra biển lớn”.

Vấn đề “văn hóa biển đảo” nêu ra tại nơi có văn hoá biển vào loại mạnh nhất là Khánh Hòa, trong khuôn khổ Festival biển Nha Trang lần này chính là một cố gắng góp phần khắc phục chỗ khiếm khuyết về văn hoá biển của Việt Nam, góp phần xây dựng tỉnh nhà và góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị IV của BCH TƯ về Chiến lược biển.

 

6. Liệu có cần hay không khái niệm “văn hoá biển đảo”?

6.1. Đảo là phần đất liền được hoàn toàn bao quanh bởi nước mà không phải là lục địa. Tuy trong khoa học không có một kích thước chuẩn nào để phân biệt đảo với lục địa nhưng, theo chúng tôi, mức độ gắn liền với biển hay, ngược lại, mức độ phụ thuộc vào đất liền có thể xem là một tiêu chí khu biệt như thế.

Ở một hòn đảo lớn mà từ trung tâm ra biển không thể đi bộ trong một ngày, người dân trung tâm do vậy sẽ sống chủ yếu bằng nông nghiệp, ở đảo có các dịch vụ đáp ứng mọi nhu cầu thông thường của con người không cần lệ thuộc vào đất liền thì đảo đó có thể xem như lục địa, như một loại đất liền ven biển.

6.2. Ở Việt Nam chỉ có đảo Phú Quốc dài 49 km, nơi rộng nhất 25 km với nghề trồng hồ tiêu là có thể tạm xem như thuộc loại đó. Những hòn đảo có người ở còn lại thuộc loại vừa và nhỏ, cư dân sống chủ yếu bằng nghề biển. Do vậy phần lớn đảo Việt Nam nói chung và đảo ở Khánh Hòa nói riêng mang văn hoá biển là chính.

Nói cách khác, nói đến “văn hoá biển” cũng là đã bao gồm “văn hoá đảo” rồi. Khái niệm “biển đảo” (không có dấu phảy ngăn cách) tuy không hoàn toàn cần thiết nhưng cũng có thể sử dụng: nó sẽ có tác dụng để nhấn mạnh vào vai trò của yếu tố đảo, phân biệt với yếu tố ven bờ (duyên hải) trong văn hoá biển.

 

7. Thay lời kết: Văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa

7.1. Trên nền những cơ sở lý luận và thực tiễn về văn hoá biển đảo trình bày ở trên, có thể thấy tính chất chính của văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa là văn hoá biển cận duyên.

Khánh Hòa có thể xem là nơi đi đầu về văn hoá biển đảo vì đây là nơi khai thác yến sào hiệu quả nhất; là nơi có Khu du lịch và giải trí trên đảo nổi tiếng Vinpearl Land với đường cáp treo vượt biển dài nhất thế giới; là nơi duy nhất tổ chức liên tục các cuộc thi Hoa hậu hoàn vũ, Hoa hậu Việt Nam, Duyên dáng Việt Nam; là tỉnh được chọn giao quản lý quần đảo Trường Sa đầy sóng gió, v.v.

Vì vậy nghiên cứu về văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa là phải tìm hiểu các thành tố văn hoá trên cơ sở sợi chỉ đỏ xuyên suốt là chất cận duyên đó để làm sao thể hiện được cái tính trung gian giữa đất liền và đại dương của cư dân ven biển và trên các đảo.

7.2. Xu hướng phát triển của chiến lược biển ở Việt Nam nói riêng và Khánh Hòa nói chung là từ tính chất biển cận duyên hướng ra biển đại dương, từ mức độ văn hoá biển nhiều so với Việt Nam hướng tới mức độ văn hoá biển nhiều so với quốc tế. Do vậy nghiên cứu văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa phải chỉ ra được những hạn chế / yếu kém / khiếm khuyết / mâu thuẫn đang tồn tại hiện nay trên các bình diện, các thành tố để rồi từ đó mà đề xuất các giải pháp, định hướng cho chiến lược biển của Tỉnh.

7.3. Mọi giải pháp, định hướng cho chiến lược biển của Tỉnh chỉ thành công khi xuất phát từ những nhu cầu văn hoá (theo nghĩa rộng, bao gồm cả văn hoá vật chất lẫn tinh thần, có nghĩa là bao gồm cả kinh tế và xã hội) của người dân, trên cơ sở những lựa chọn văn hoá mà người dân có, hướng đến đáp ứng ở mức cao nhất những giá trị văn hoá mà người dân mong mỏi (có lẽ không ngoài sáu chữ “hạnh phúc – an khang – thịnh vượng”). Như Nguyễn Duy Thiệu trên cơ sở nghiên cứu nghề cá đã đúc kết, “trọng tâm chính của quản lý nghề cá (cũng như quản lý biển – TNT) phải nhằm vào người đánh cá chứ không phải chỉ nhằm vào con cá” [Nguyễn Duy Thiệu 2002: 30].

7.4. Trong chiến lược biển chung của Tỉnh Khánh Hòa, chiến lược văn hoá biển cho cư dân và bộ đội trên quần đảo Trường Sa là bộ phận vô cùng quan trọng. Văn hoá biển Trường Sa là văn hoá biển rất đặc thù, không thể chỉ ra nghị quyết và hô khẩu hiệu là xong mà phải dựa trên những nghiên cứu hết sức nghiêm túc và công phu mới có thể có được.

7.5. Cũng trong chiến lược biển chung của Tỉnh Khánh Hòa, chiến lược văn hoá du lịch biển là một bộ phận đặc thù khác đòi hỏi đầu tư trí tuệ, công sức, tiền của, sự lãnh đạo của Đảng và Chính quyền địa phương cùng sự hợp tác chặt chẽ của nhiều ngành. Ở đây có rất nhiều việc phải làm nhưng chúng tôi cho rằng một việc mà ngành văn hoá tỉnh phải bắt tay vào làm ngay là xây dựng một Bảo tàng Văn hoá Biển, đồng thời nên bắt đầu nghĩ đến xây dựng một Viện Nghiên cứu Văn hoá Biển.

Cùng với việc phát triển ngành kinh tế du lịch biển, nâng cấp Bảo tàng Sinh vật Biển ở Viện Hải dương học, việc xây dựng một Bảo tàng Văn hoá Biển và một Viện Nghiên cứu Văn hoá Biển chắc chắn sẽ nhanh chóng biến Khánh Hòa trở thành thủ đô văn hoá biển trong một quốc gia biển có tầm cỡ ở khu vực Đông Nam Á (x. hình 8).

Hình 8: Mô hình xây dựng Khánh Hòa thành "thủ đô" Biển

 

Tài liệu tham khảo

 

  1. 1.Akifumi Iwabuchi 2007: Nhân học biển (Maritime Anthropology). - http://203.162.147.169/USSH/NewsEventAnnouncement/ViewNewsEvent.aspx?p0=0&;p1=1081&p2=0&p4=1624&p7=&p8=1
  2. 2.Akifumi Iwabuchi 2010: Marine culturology. - Tokyo University of Marine Science & Technology, http://www.soi.wide.ad.jp/ class/20090061/ materials _for_student/03/ 20090061-03-2in1.pdf
  3. 3.Chesneaux Jean 1966: The Vietnamise Nation: Contribution to a Histoire. – Sydney: Current Book Distributors PTY. LTD.
  4. 4.Chu Xuân Giao 2008: Mấy vấn đề làng chài và nghiên cứu làng chài ở Nhật Bản từ góc nhìn văn hoá dân gian. - In trong: Văn hóa biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ. - H.: NXB Từ điển Bách khoa, 2008, tr. 390-428.
  5. 5.Đỗ Như Chung 2003: Nghệ thuật trống đồng Thanh Hóa. - H.: NXB KHXH.
  6. 6.Eberhard W. 1968: The local cultures of South and East China, translated from German by Alide Eberhard, Leiden E.J. Brill.
  7. 7.Encyclopædia Britannica 2011: Dong Son culture. - http://www>. britannica.com/EBchecked/topic/169108/Dong-Son-culture
  8. 8.Facts on File 2001: The Spice Route in Greco-Roman times. -http://www.flickr.com/photos/doremon360/3730040616/sizes/o/in/photostream/
  9. 9.Hà Hữu Nga 2012: Kattigara − Kinh đô Huyền thoại Việt. - http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&;task=view&id=2145&Itemid=71
  10. 10.Hội VNDG VN 2006: Văn hóa sông nước miền Trung. – H.: NXB KHXH.
  11. 11.Hội VNDG VN và các tổ chức khác 2008: Văn hóa biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ. – H.: NXB Từ điển Bách khoa.
  12. 12.Jean Chesneaux 1966: The Vietnamese nation: contribution to a history. - Current Book Distributors, 231 pages. Nguyên bản t. Pháp: Jean Chesneaux 1955: Contribution à l'histoire de la nation viètnamienne. - Éditions sociales.
  13. 13.Li Tana 2010: Nhìn từ biển: những quan điểm về duyên hải Bắc và Trung Việt Nam. – In trong: Nghiên cứu Huế. – Huế: NXB Thuận Hóa và TTNC Huế, tr. 19-35.
  14. 14.Lương Ninh 2004: Người Nam Á, Nam Đảo và sự hình thành các quốc gia cổ ở Việt Nam. - www.hids.hochiminhcity.gov.vn/Hoithao/VNHOC/ TB1/ninh.pdf
  15. 15.Ngô Đức Thịnh 2005: Các dạng thức văn hoá Việt Nam. – T/c Văn hoá dân gian, số 4. In lại trong: “Văn hoá, văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam”. Nxb. KHXH. H., 2006, tr. 19-35.
  16. 16.Ngô Đức Thịnh 2010: Truyền thống văn hóa biển cận duyên của người Việt. - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 317, tháng 11/2010.
  17. 17.Nguyễn Duy Chính 2009: Quan niệm về biển cả của người Trung Hoa dưới hai triều đại Minh-Thanh. – In trong: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở KH&CN Thừa Thiên – Huế, tr. 129-144.
  18. 18.Nguyễn Ðăng Vũ 2004: Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa. - http://www. quangngai.gov.vn/quangngai/tiengviet/Tongquan/2168103_465/
  19. 19.Nguyễn Xuân Kính (cb) 2002: Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân. Kho tàng tục ngữ người Việt, tập I-II. – H.: NXB Văn hoá - Thông tin.
  20. 20.Nguyễn Văn Thích 2010: Miếu bà Lường - hang Lỗ Lường và tục thờ cúng Lỗ Lường của ngư dân lưới đăng sở đầm Hòn Đỏ (Ninh Hòa). - In trong: “Văn nghệ dân gian Khánh Hòa tuyển tập 2005-2010”. – Nha Trang: Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa.
  21. 21.Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng 1983: Quân thủy Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm. – H.: NXB QĐND.
  22. 22.Oppenheimer Stephen 2005: Địa đàng ở phương Đông: lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm (người dịch: Lê Sỹ Giang, Hoàng Thị Hà; hiệu đính: Cao Xuân Phỏ̂).-H.: NXB Lao động (bản tiếng Anh: Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia, London: 1999).
  23. 23.Marine tourism 2006: Promote the cultural development of marine tourism economy. - http://eng.hi138.com/?i29351
  24. 24.Ptolemy's world map. http://en.wikipedia.org/wiki/Ptolemy's_world_map
  25. 25.Ptolemy's Geography: The Science of the Earth's Surface. – http://www.ibiblio.org/expo/vatican.exhibit/exhibit/d-mathematics/ Ptolemy_geo.html
  26. 26.Shahab Setudeh-Nejad 1996: Cultural and Cosmological Impact of Iranian Civilization in Vietnam and Peninsular Areas of Southeast Asia. - http://www.iranchamber.com/culture/articles/iranian_cultural_impact_southeastasia.php
  27. 27.Shanghai World Expo 2010: On the Shanghai World Expo in the cultural characteristics of marine. - http://eng.hi138.com/?i219766_On_the_Shanghai_World_Expo_in_the_cultural_characteristics_of_marine
  28. 28.Trần Ngọc Thêm 1996/2004: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam (tái bản lần 4). - NXB Tp.HCM.
  29. 29.Trần Ngọc Thêm 1998: Vai trò của nước trong truyền thống văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á. – Tạp chí văn hóa – nghệ thuật, số 8, tr. 66-72.
  30. 30.Trần Ngọc Thêm 2006: Văn hoá nước của người Việt. – In trong: Văn hóa sông nước miền Trung. – H.: Hội văn nghệ dân gian Việt Nam & NXB KHXH, tr. 425-444.
  31. 31.Trịnh Hoài Đức 2004: Gia Định Thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch, Huỳnh Văn Tới hiệu đính, giới thiệu). – NXB Tổng hợp Đồng Nai.
  32. 32.Ứng dụng hải lưu 2009: Ứng dụng dòng hải lưu tầng mặt để vận chuyển gạo trong kháng chiến chống Mỹ. - http://kinhtebien.vn/index.php?option=com_content&;view=article&id=131:ng-dng-dong-hi-lu-tng-mt--vn-chuyn-go-trong-khang-chin-chng-m-&catid=36:quy-luat-boi-lap-bo-bien-dong-vn-&Itemid=27
  33. 33.Viện Đông Nam Á 1996: Biển với người Việt cổ. – H.: NXB Văn hoá Thông tin.
  34. 34.Võ Văn Hoàng 2009: Cù Lao Chàm, điểm dừng chân của thương thuyền quốc tế. – In trong: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở KH&CN Thừa Thiên – Huế, tr. 123-128.
  35. 35.Vũ Hữu San 2009: Hàng hải nước Việt xưa (phần 1-4). - http://www.lyhocdongphuong.org.vn/van-hien-lac-viet/chi-tiet/hang-hai-nuoc-viet-xua-phan-1-319/, ~ phan-2-320/, ~ phan-3-321/, ~ phan-4-322/
  36. 36.Wang Gungwu 2003: The Nanhai Trade: The Early History of Chinese Trade in the South China Sea. – Singapore: Eastern Universities Press.
  37. 37.Wikipedia: Tanka people. - http://en.wikipedia.org/wiki/ Tanka_people.

 

Nguồn: Tác giả



[1] “The Dong Son were a seafaring people who apparently traveled and traded throughout Southeast Asia”.

[2] Một số cơ sở làm nước mắm ở Hải Phòng, Thanh Hóa đều là mới hình thành sau này (cũng vì vậy ở đây hay có tình trạng làm nước mắm giả, nhái các thương hiệu nước mắm phía Nam).

[3] [Trịnh Hoài Đức 2004], Quyển VI: Thành trì chí, mục “Trấn Biên Hòa”, tiểu mục “Đền Nam Hải Tướng quân”.

[4] Số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2006.

[5] Số liệu của Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tính đến tháng 9-2009. http://tintuc.xalo.vn/001644665914/Lenh_denh_day_nghe_cho_ngu_dan.html

[6] Đó là 2 bảng biểu về Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản phân theo địa phương.

X. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=430&;idmid=3

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Phạm Thị Thanh Thuỷ. Sinh thái nhân văn trong văn xuôi Trần Bảo Định

  • Lê Hoàng Quốc. Các di tích “Baudi” ở Việt Nam

  • Phan Anh Tú. Di tích khảo cổ Cát Tiên nhìn từ thuyết vũ trụ luận Ấn Độ giáo

  • Kiều Nga. Nước mắm xứ Nghệ

  • Trang Tuệ. Bảo vệ môi trường biển từ góc nhìn sinh thái học nhân văn

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 114
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 8 9 2
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên