logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa đô thị
Monday, 10 March 2008 21:13

Phan Đăng Long. Văn hóa đô thị với nếp sống người Hà Nội

Người post bài:  TT VHH

Văn hóa đô thị với nếp sống người Hà Nội

 

Phan Đăng Long

 

Đặc trưng của đô thị là sự tập trung, tích tụ cư dân phi nông nghiệp, từ đó, hình thành những quần thể kiến trúc kiểu các vòng tròn quy tâm hoặc ô bàn cờ. Quan hệ cư trú, ứng xử ở nông thôn theo kết cấu gia đình - họ mạc - xóm giềng - làng xã - xã hội còn đô thị lại có kết cấu gia đình - đường phố - xã hội. ở nông thôn, môi trường thiên nhiên sinh thái theo mối giao hòa nhà, vườn - luỹ tre làng - đồng lúa (rau, hoa) còn ở đô thị, môi trường thiên nhiên sinh thái theo kết cấu nhà (chung cư) - đường phố (ngõ, hẻm) - công sở (doanh nghiệp)...

Sự khác biệt trên, cho thấy quan hệ cư trú, ứng xử ở nông thôn qua nhiều tầng nấc trong nhà, ngoài ngõ mới ra đến xã hội; còn đô thị từ gia đình ra phố đã là xã hội. Môi trường thiên nhiên sinh thái ở nông thôn được khắc họa bằng các thể khối kiến trúc (nhà tranh, nhà ngói) ẩn mình giữa thiên nhiên (vườn, lũy tre làng, cánh đồng). Còn đô thị chủ yếu được đặc tả bởi các thể khối kiến trúc có điểm xuyết những hàng cây bên đường, công viên, hồ nước. Nghĩa là nông thôn môi trường tự nhiên thiên tạo tức thiên nhiên thứ nhất vẫn ngự trị, còn đô thị, môi trường tự nhiên nhân tạo tức thiên nhiên thứ hai do con người tạo dựng đã chi phối, quán xuyến sinh thái.

Từ cái nền đó, văn hóa đô thị có những nét đặc trưng riêng so với nông thôn

 Thứ nhất, văn hóa đô thị, nhất là đô thị hiện đại, mọi sinh hoạt gia đình và cá nhân (từ nhà ở, ăn uống, đi lại...) đều chủ yếu phụ thuộc vào các dịch vụ. Đối với nông thôn, thường mỗi gia đình có đời sống văn hóa vật chất riêng, vẫn nặng tính tự cung, tự cấp. Nhu cầu tiêu dùng của cư dân đô thị thường lớn, đa dạng và có xu hướng đổi mới nhanh. Do đó mạng lưới dịch vụ càng trở nên quan trọng, là một bộ phận hữu cơ của môi trường sống đô thị và là một phần cơ bản tạo nên văn hóa đô thị.

 Thứ hai, ở đô thị, hệ số sử dụng phương tiện giao thông lớn và tăng cùng với quá trình hiện đại hóa. Hệ thống giao thông nối liền nơi ở với nơi làm việc, học tập, giải trí, sinh hoạt khác... Trong giao thông, người dân đô thị phải sử dụng phương tiện (xe đạp, xe máy, ôtô...). Bởi đơn giản, không gian giao tiếp của đô thị rộng hơn, phức tạp hơn không gian giao tiếp trong xóm, ngoài làng. Đối với cư dân đô thị, đường phố, phương tiện giao thông có tầm quan trọng không kém nhà ở. Thành thử văn hóa ứng xử ở nơi công cộng có vị trí quan trọng chẳng kém trong gia đình.

Thứ ba, văn hóa đô thị có tính phân hóa cao và rõ nét. Quá trình đô thị hóa cơ bản là do quá trình gia tăng dân số phi nông nghiệp. Đô thị càng lớn, càng tụ cư mọi thành phần xã hội. Sự phân hóa thành phần xuất thân, phân hóa thu nhập hay địa vị kinh tế xã hội được thể hiện ngay trong phân hóa cách sống, sinh hoạt của từng thành phần xã hội. Sự phân hóa này không phải lúc nào cũng ở thế đối xứng, có thể nhận rõ qua cách thức tiêu dùng, hưởng thụ. Người giàu sang thường mua thực phẩm tại siêu thị, có chất lượng cao và hầu như được chế biến sẵn; đi xe máy đắt tiền hoặc ôtô. Người nghèo thường mua thực phẩm tại chợ cóc, chợ quê cốt vì số lượng và chủ yếu tự chế biến; đi xe đạp, xe máy rẻ tiền. Sự phân hóa đó đã mặc nhiên quy định tính hai mặt trong phát triển nhân cách người dân đô thị; tính cộng đồng dễ gắn liền tính vị kỷ; tính công dân dễ gắn liền tính phi công dân hay tính giống loài, tính xã hội; tính văn hóa dễ gắn liền tính phi văn hóa. Đô thị càng lớn thì tính hai mặt trên càng rõ hơn, sâu sắc hơn. Trong kinh tế thị trường, sự phân hóa nghề nghiệp, thu nhập nhanh chóng dẫn đến phân hóa tư tưởng, đạo đức, cách sống; tổng hòa những sự phân hóa ấy sẽ là sự phân tầng về văn hóa.

 Trong điều kiện và môi trường đô thị, con người phát hiện thêm nhiều năng lực ứng xử của mình. Do đó có thể thúc đẩy sự phát triển văn hóa đô thị, song không phải lúc nào cũng theo hướng tiến bộ. Trong sự phát triển văn hóa đô thị không tránh được những chiều cạnh phát triển phi tiến bộ, phản tiến bộ. Vì thế trong cái gọi là văn hóa thị dân có cả những phản giá trị, phi giá trị, ví dụ thú tiêu khiển cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... Đây là kết quả và sự thể hiện tính hai mặt trong nhân cách người dân đô thị.

Thứ tư, ứng xử của cư dân đô thị hay nông thôn đều thể hiện trong quan hệ với thiên nhiên, xã hội và bản thân. Tuy nhiên, tại đô thị, các quan hệ ứng xử đa phương, đa dạng hơn và theo hướng ngày càng rộng mở. Ngoài quan hệ gia đình, xóm phố, bạn bè như nông thôn, cư dân đô thị còn nhiều mối quan hệ đồng nghiệp, đồng hương, đồng sở thích... Cư dân đô thị có nhiều quan hệ giao tiếp ẩn danh, ngẫu nhiên và giao tiếp công cộng hơn. Thí dụ các quan hệ tại nơi làm việc, quan hệ qua các loại dịch vụ, các quan hệ thoả mãn nhu cầu tinh thần văn hóa vào các kỳ nghỉ...

 Tính chất và cách thức ứng xử ở đô thị cũng khác nông thôn, vì thường thiên về quan hệ pháp luật, thị trường... và thường phát triển hơn ở nông thôn, do đó khả năng khách quan hóa các quan hệ ứng xử của cư dân đô thị thường cao hơn. Kết quả là văn hóa ứng xử ở đô thị thường lạnh lùng và ẩn danh hơn; cái tình người ẩn dưới những ứng xử mang tính khách quan, tính cưa đứt đục suốt.

Thứ năm, văn hóa đô thị là phức hợp văn hóa bác học (hàn lâm, chuyên nghiệp), văn hóa dân gian và văn hóa đại chúng. Tại đô thị tập trung các cơ quan văn hóa chuyên nghiệp, giới trí thức, vì thế văn hóa bác học phát triển (khoa học, giáo dục, nghệ thuật...). Đô thị tập trung các cộng đồng dân cư khác nhau nên mỗi cộng đồng lại có văn hóa dân gian của mình. Tại đô thị do tính giao lưu văn hóa cao, sống động và với sự tập trung của phương tiện thông tin đại chúng nên văn hóa đám đông (đại chúng) cũng phát triển. Sự tương tác của ba dạng văn hóa đó tạo nên đặc trưng của văn hóa đô thị, trong đó tính hai mặt (tích cực, tiêu cực) của văn hóa đại chúng khiến văn hóa đô thị diễn biến phức tạp. Văn hóa đô thị thường dễ chuyển và dễ gắn với văn minh hơn là văn hóa nông thôn. Văn minh là kết quả của văn hóa; nhưng khi văn hóa đã chuyển hóa thành văn minh cũng tức là các giá trị vật chất, tinh thần đều có sức biến đổi, sức phát triển năng động, nên rất dễ xảy ra tình trạng xô bồ, va đập giữa các giá trị, nhất là giữa giá trị vật chất và tinh thần. Văn minh đô thị chứng tỏ sức chuyển hóa, sức phát triển của văn hóa đô thị là mạnh hơn văn hóa nông thôn.

 Từ những đặc trưng trên, chúng ta có thể quan niệm văn hóa đô thị là tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần và cả các hoạt động văn hóa nhằm tôn vinh, làm sản sinh, truyền bá và thực hành các giá trị chân, thiện, mỹ, nhằm làm giàu tính người trong đời sống đô thị.

 Từ những đặc điểm riêng về điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa đô thị và văn hóa nông thôn có sự khác biệt, nếp sống, nếp ứng xử cũng có những biểu hiện riêng, khác nhau. Đặc trưng nổi bật khi so sánh với văn hóa nông thôn, cho thấy văn hóa đô thị là một thực thể văn hóa phức hợp có tính biến đổi cao, nhất là ở đô thị hiện đại. Là một đô thị lớn, lại có lịch sử hình thành sớm, là trung tâm, gắn với cả vùng nông thôn Bắc Bộ rộng lớn lại đang trên đà phát triển theo hướng hiện đại, nên Hà Nội còn ẩn chứa nhiều tiềm năng văn hóa đậm chất truyền thống nhưng cũng đang khơi nguồn, bắt mạch để hòa nhập, tiếp thu những tinh hoa, tiến bộ của văn hóa nhân loại.

 Đô thị Hà Nội có cội nguồn từ một làng Việt cổ ven sông Tô Lịch. Vài thế kỷ trước Công nguyên nơi đây đã là điểm cư trú khá đông đúc của người Việt Đông Sơn. ở ven Hồ Tây và làng Ngọc Hà đã tìm thấy trống đồng loại 1 và đồ đồng Đông Sơn có niên đại cách đây 2500 năm (1).

 Văn hóa đô thị Hà Nội đã có từ trước thế kỷ X. Nhưng phải từ khi trở thành quốc đô, văn hóa đô thị Hà Nội mới phát triển. Người Hà Nội lớp lớp kế tiếp nhau là dân tứ chiếng tụ về. Họ sống và hoạt động trong môi trường đô thị với những đặc trưng văn hóa đa quan hệ, đa phương tri thức, đa ngành nghề, đa phong cách văn hóa địa phương. Tuy nhiên, qua bao biến thiên lịch sử, Hà Nội vẫn định hình được những nếp sống thanh lịch trong văn hóa đô thị của mình.

 Nếp sống thanh lịch Hà Nội được hình thành không chỉ thông qua quá trình định hình, định tính của văn hóa đô thị mà đồng thời còn là kết quả của quá trình giáo hóa có chủ đích của các triều đình phong kiến, của các dòng họ và gia đình về đạo đức, về kỹ năng, kỹ thuật sống để làm rạng danh bản sắc văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa kinh kỳ, bản sắc người Tràng An. Nghĩa là nếp sống vừa phản ánh nhu cầu khách quan của đời sống, vừa thể hiện ý chí chủ quan của con người. Cộng đồng xã hội cũng như mỗi cá nhân, gia đình có thể từ nhận thức và ý chí của mình, tác động lại nếp sống xã hội, để hình thành nếp sống thích hợp nhất với lợi ích của mình.

 Nếp sống được coi là tổng hòa những dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nhất định và chịu sự quy định của các điều kiện sống. Nếp sống chính là mặt ổn định của văn hóa lối sống. Nó bao gồm những cách thức, những quy ước đã trở thành thói quen trong lao động, sinh hoạt và tổ chức đời sống xã hội như phong tục, lễ nghi, đạo đức... (2). Nó không chỉ là những cách thức, quy ước trong ứng xử với xã hội, với bản thân, mà cả trong ứng xử với tự nhiên. Nhờ có nếp sống mà xã hội và con người không phải đi đường vòng, không phải bắt đầu lại những quá trình lịch sử đã qua, và những kinh nghiệm, tri thức quý báu trong lối sống của xã hội và con người được giữ gìn và phát triển.

 Nếp sống thanh lịch của đô thị Hà Nội được thể hiện ở nhiều phương diện

Nếp nghĩ, nếp cảm: Nếu văn hóa đô thị ở Huế được đặc trưng ở nếp sống thiên về cân bằng - tĩnh, ở TP.HCM thiên về cân bằng - năng động, thì ở Hà Nội, thiên về cân bằng - linh hoạt. Nếp nghĩ, nếp cảm là phương diện ý thức của nếp sống; nó định hướng cách sống dần tạo thành thói quen, thành nếp trong hoạt động sống (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa) và cả trong sinh hoạt thường nhật khiến cách sống định hình, định tính thành cách thức, quy ước ổn định, trở thành nếp sống.

 Tổ chức đời sống cộng đồng: Cân bằng giữa biểu tượng và bản sắc quốc gia với biểu tượng và bản sắc kinh kỳ (Thủ đô)

 Tổ chức đời sống cá nhân: thể hiện ở tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nghệ thuật ngôn từ, sinh hoạt, giao tiếp và ứng xử. Trong đó nổi bật là nét hào hoa, tinh tế, nhẹ nhàng, sáng tạo và nhạy cảm; lịch sự, xã giao mà không khó gần, sang trọng mà không cầu kỳ và đặc biệt có ngôn ngữ thuộc loại chuẩn cho tiếng Việt cả nước.

 Nếp ứng xử với môi trường tự nhiên: Từ ăn, mặc, ở, đi lại cho đến cách thức sản xuất, kinh doanh thể hiện sự thanh đạm, hào hoa, khéo léo, chuyên cần và giàu óc sáng tạo. Nét hào hoa và tao nhã nhuốm sang cả cách thức làm ăn, như làm giấy dó, trồng hoa, cây cảnh, rau thơm và các nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo...

 Nếp ứng xử với môi trường xã hội: Thể hiện ở tính dung hợp, tính khoan dung văn hóa trong giao tiếp, ứng xử với phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ từ các địa phương trong nước cũng như khu vực và thế giới.

 Nếp sống thanh lịch Hà Nội nhìn chung không chỉ giới hạn ở giao tiếp, ứng xử và ở sinh hoạt cá nhân, cộng đồng mà hơn thế, nó thể hiện một văn hóa lối sống mang đậm chất văn hiến Việt Nam. Nó thể hiện trong nhận thức và cả trong lao động, sản xuất, kinh doanh cũng như trong các hoạt động xã hội khác, như văn hóa, văn nghệ, tổ chức đời sống cá nhân và xã hội. Nó không chỉ là sản phẩm thụ động và cơ giới của quá trình sàng lọc lối sống tứ chiếng, để định hình, định tính nếp sống thanh lịch Kinh kỳ (Thủ đô) mà đồng thời còn là kết quả của quá trình giáo dục và quản lý của địa phương Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội và của chính quyền Trung ương nhằm định hình một biểu trưng của sự hội tụ và chắt lọc cái tốt, cái hay, cái đẹp về lối sống của một quốc gia có chủ quyền và có nền văn hiến lâu đời.

 Văn hóa đô thị Hà Nội được đặc trưng ở nếp sống thanh lịch. Tuy nhiên, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và bước đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm sắc nét và mở rộng phạm vi biến đổi và biến động của lối sống Thủ đô, trong đó có nếp sống thanh lịch. Trong lịch sử và hiện tại, tính biến đổi của nếp sống Thủ đô luôn là một vấn đề có tính quy luật phổ biến không chỉ riêng ở Việt Nam.

 Bởi lẽ, Thủ đô là nơi tập trung các hoạt động chủ yếu của các cộng đồng xã hội, nơi hội tụ hầu hết các giá trị thuộc loại tiêu biểu của quốc gia, dân tộc hoặc của khu vực rộng lớn xung quanh. Quy mô đô thị càng lớn thì càng kết tụ đậm đặc các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và giao dịch quốc tế, nhất là trong kinh tế thị trường hội nhập quốc tế. Không gian đô thị với những đại lộ mới, cao ốc, công viên và các đô thị vệ tinh làm giãn nở tầm nhìn con người. Còn nhịp sống bươn trải thị trường và nhịp sống công nghiệp thì dồn nén thời gian trong mọi hơi thở, sinh hoạt thường nhật và hoạt động sống gấp gáp. Sự đi nhanh của thời gian đô thị đang từng bước nhân lên nhịp sống con người nơi đây.

 Là trung tâm chính trị, đời sống Thủ đô đã tác động đến thế giới tinh thần, làm phát triển nhanh ý thức chính trị, ý thức dân chủ và công dân. Là trung tâm khoa học, văn hóa và giao dịch quốc tế, đời sống Thủ đô có nhiều khả năng bồi dưỡng tri thức và năng lực sinh hoạt công cộng, nhờ đó có thể phát triển thế giới quan, nhân sinh quan và xã hội quan của từng người. Là trung tâm kinh tế lớn, Thủ đô có nhiều điều kiện nâng cao mức sống cho đại bộ phận thành viên xã hội.

 Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh đã và đang diễn ra sự phân hóa giàu nghèo, phân hóa xã hội ngày càng gay gắt. Trong đời sống văn hóa của Thủ đô Hà Nội hiện nay, sự phân hóa giàu nghèo đã và đang dẫn đến sự phân hóa trong quan hệ đối với tư liệu sản xuất, vai trò tổ chức và quản lý lao động, và phân hóa trong tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Nhìn chung cơ cấu xã hội đô thị, nhất là Thủ đô, thường rất đa dạng về cư dân, sắc tộc, tôn giáo, học vấn, nghề nghiệp... Người trí thức nói chung, sống đan xen với giới công chức, doanh nhân, người buôn bán nhỏ hoặc người thất nghiệp tại khắp các quận nội, ngoại thành.

 Bên cạnh việc tiếp thu cái hay, văn hóa Thủ đô cũng tiếp thu cả những cái dở từ nhiều địa phương khác nhau. Các dòng di cư tự do và sự dịch chuyển nhân lực của các cơ quan, doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội đã tiếp thêm nhiều nguồn lực cho Thủ đô, song cũng làm cho nếp sống thanh lịch của đất Tràng An không còn ổn định trước nếp sống tứ chiếng. Các dòng du lịch và giao dịch quốc tế, các phương tiện thông tin đại chúng từng ngày, từng giờ truyền bá lối sống tiêu dùng mang tính đại chúng đã làm văn hóa khởi sắc song cũng hàm chứa nguy cơ đồng dạng hóa văn hóa trước lối sống đại chúng mang tính toàn cầu.

 Những chuyển động về nhân lực và văn hóa kể trên phản ánh những xu hướng mới của quá trình đô thị hóa Hà Nội. Cho đến gần đây, tiến trình đô thị hóa Hà Nội (và các thành phố khác của Việt Nam) về cơ bản gắn với chức năng thương mại và hành chính. Nếp sống thanh lịch nói riêng và văn hóa đô thị Hà Nội nói chung cơ bản được định hình trên những đặc điểm này của tiến trình đô thị hóa. Tuy nhiên, từ khoảng giữa thập niên 90 đến nay, tiến trình đô thị hóa ở nước ta, trong đó có Thủ đô, đã bắt nhịp với quy luật chung của quá trình đô thị hóa trong thế giới hiện đại và gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

 Ở Hà Nội, xu hướng hình thành các vành đai 1,2,3 (và có thể là 4), xu hướng hình thành các tuyến giao thông - dịch vụ - dân cư theo các tuyến đường 1, 5, 31 và xu hướng xác lập nhiều trung tâm với kết cấu đô thị vệ tinh mở, đang làm biến đổi văn hóa đô thị trên nhiều phương diện, từ cái ăn, cái mặc, cái ở (và cả cái chết) đến học hành, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí... Chỉ riêng việc mở rộng địa bàn tới các vùng vốn trước đây thuộc xứ Đoài, xứ Bắc cũng đòi hỏi phải mở rộng nội hàm khái niệm nếp sống thanh lịch của người Hà Nội. Tiến trình đô thị hóa giờ đây gắn kết chặt chẽ với công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đặt ra vấn đề không chỉ giới hạn nếp sống thanh lịch ở lời ăn tiếng nói, quần chùng áo dài, ở ứng xử thường nhật giữa người với người, mà còn ở cách làm ăn trong điều kiện cơ chế thị trường.

 Nghĩa là nếp sống thanh lịch nói riêng và văn hóa đô thị Hà Nội hiện nay cần phải tiếp nhận những nội dung mới và phải lược bỏ được những nét tiêu cực trong văn hóa đô thị cổ truyền.

 

_______________________

 1. Trần Quốc Vượng, Giữ gìn di sản của lịch sử văn hóa ở Hà Nội, Báo Khoa học và Đời sống,số44(4/11/1993).
2. Nguyễn Viết Chức (chủ biên), Nếp sống người Hà Nội, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.23.

 Nguồn: www.vae.org.vn

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Minh Trí. Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh

  • Hiền Trang. Từ James Joyce đến Nguyễn Công Hoan: Lịch sử của thị dân

  • Nguyễn Thị Hậu. Di sản văn hóa đô thị Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh quan điểm, công cụ bảo tồn và phát huy giá trị

  • Lê Thị Trúc Anh. Một số vấn đề về văn minh đô thị ở Tp.HCM

  • Trịnh Duy Luân. Văn hóa và môi trường xây dựng của khu 36 phố phường Hà Nội với những mối đe doạ trước sức ép của sự phát triển

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 76
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 1 4 7
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa đô thị