CÁC XU HƯỚNG CHỦ ĐẠO VỀ VĂN HÓA - TRUYỀN THÔNG QUY MÔ RỘNG TRÊN THẾ GIỚI
Trước hết trên thế giới, văn hóa đã và đang có sự thay đổi về tính chất: Văn hóa công nghiệp chuyển sang văn hóa tin học và truyền thông. Sự thành công của xã hội sẽ ngày càng phụ thuộc rất lớn vào việc thu nhận thông tin và khả năng truyền dẫn, xử lý thông tin. Trong truyền thông, có sự tương tác chặt chẽ giữa âm thanh, ngôn ngữ, video, hình ảnh (kể cả kỹ thuật hình ảnh 3 chiều), Internet... tức là truyền thông đa phương tiện (Multimedia) sẽ chiếm ưu thế trong đời sống. Còn đối với phương tiện truyền thông thì có sự phối hợp đồng bộ giữa truyền hình cùng các phương tiện nghe nhìn khác, điện thoại, máy tính...
Về chủ thể sẽ có thêm sự đa dạng ở tầm quy mô rộng, phổ quát cao trong các giá trị chung: Đó là tuy văn hóa trong mỗi quốc gia, khu vực vẫn phát triển; song có cả xu hướng chuyển sang văn hóa toàn cầu. Đó là kết quả của văn hóa tin học làm liên kết toàn cầu thành một hệ thống, một chỉnh thể tin học chặt chẽ với tính phổ biến cao, liên tục, chi phí thấp. Nhiều cá nhân, cộng đồng, dân tộc, quốc gia tham gia hợp tác quốc tế; ý thức vì nhân loại, vì toàn cầu ngày càng phát triển rộng rãi, thể hiện rõ nét nhất là trong đời sống văn hóa.
Về trạng thái: Từ văn hóa thời gian và không gian tách rời chuyển sang văn hóa đồng bộ. Ngồi trong nhà, qua Mass Media (Truyền thông đại chúng – TTĐC), qua máy tính nối với mạng quốc gia và quốc tế, qua các phương tiện truyền thông mới ta có thể biết mọi chuyện xảy ra trên thế giới. Không gian như hẹp lại, thời gian như ngắn hơn, thế giới phẳng hơn và con người có thể hướng suy nghĩ nhiều hơn về toàn cầu, về tương lai của nhân loại, về đời sống tâm linh, tinh thần và các vấn đề phức tạp đòi hỏi nhiều dữ kiện, nhiều thông tin.
Tính biến thiên, thay đổi để tương thích và phát triển: Từ văn hóa mang tính tương đối ổn định do nhiều nước trước đây thi hành chính sách đóng cửa, nay chuyển sang văn hóa động, tăng cường sự hợp tác, trao đổi, tiếp nhận những giá trị văn hóa tiến bộ, phù hợp với quốc gia và dân tộc mình.
Về quyền lực (chỉ tư cách sáng tạo, việc tiếp nhận, hưởng thụ và khả năng chi phối văn hóa…): Từ chỗ bị một số người của giai cấp cầm quyền và tầng lớp văn nhân cầm chịch, chủ xướng, chi phối ít nhiều nay chuyển sang sự bình đẳng hơn về nhiều mặt do tin học phát triển. Cơ cấu văn hóa thay đổi do mạng lưới tin học thống nhất hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ngôn ngữ... đã giúp đông đảo công chúng tham gia vào quyền lực nói trên.
Thay đổi tầng văn hóa: Từ giới tinh hoa và giới chuyên môn, phục vụ công chúng giới hạn chuyển sang đại chúng. Khi văn hóa lũng đoạn bị phá vỡ, thì văn hóa đại chúng sẽ nổi dần lên, có một vị trí hẳn hoi. Đại chúng ở đây không tiếp cận theo nghĩa là giá trị văn hóa dễ dãi, mà là văn hóa mang tính phổ cập, cùng sự phát triển dân trí sẽ làm khoảng cách giữa các nhà văn hóa và người không chuyên về văn hóa, giữa chuyên gia và người thường càng thu hẹp (Tuy nhiên, thẩm định của xã hội rộng hơn, dân chủ hơn, công bằng hơn).
Truyền bá văn hóa: chuyển từ chiều sâu (trẻ học già), sang chiều rộng (học tập lẫn nhau về tri thức và thực nghiệm) và tồn tại cả xu hướng văn hóa ngược chiều ''già học trẻ''; có sự đa dạng hóa cách thức học hỏi, hình thức và mục tiêu học cũng phong phú, tương thích với thực tế và môi trường sống hiện đại (Học để biết, học để chuyên nghiệp, học để làm người, học để cùng nhau sống).
Về phương pháp: Từ phân tích chuyển sang tổng hợp và kết hợp. Mục tiêu của văn hóa tin học và TTĐC thời đại mới là xây dựng quan hệ giữa con người với nhau và với thiên nhiên thành thể thống nhất, hài hòa trên cơ sở phát triển cao. Ngày càng có nhiều tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia tham gia các chương trình có tính tổng hợp của khoa học liên ngành, liên khu vực, liên quốc gia để giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu (Xóa đói giảm nghèo, chống khủng bố, khắc phục biến đổi khí hậu trái đất, chống căn bệnh thế kỷ…).
Về cơ cấu: ảnh hưởng của văn hóa tinh thần ngày càng trực tiếp và quan trọng đối với con người do kinh tế tri thức ngày càng phát triển làm giá trị tinh thần càng được đề cao, tài sản vô hình của con người (Tư tưởng, tầm nhìn thế giới quan, tài năng, trí tuệ, tri thức, bí quyết sáng tạo, thương hiệu, danh tiếng, sự độc đáo...) có vị trí đặc biệt, do đó có sự chuyển đổi từ nhấn mạnh văn hóa vật chất sang văn hóa tinh thần.
Kết quả của sự tương tác, giao lưu văn hóa nhờ thành tựu và sức phổ biến của TTĐC thời hội nhập: là xuất hiện sự pha trộn-lai-ghép-cải-biến-hỗn dung trong văn hóa (Hybridization Culture) và giao thoa văn hóa (Cross Culture) cùng sự tương tác mạnh mẽ giữa các nền văn hóa và giữa văn hóa và các lĩnh vực khác;
Nhìn tổng thể với quan điểm hệ thống thì ngôi nhà văn hóa thế giới: vừa thống nhất trong các giá trị chủ đạo như tính chân, thiện, mỹ, tiến bộ, lại vừa thể hiện sự đa dạng, cạnh tranh và biểu hiện tính độc đáo của văn hóa từng quốc gia, địa phương, khu vực, vùng miền…
Về thái độ văn hóa: Có thời gian dài, con người tin tưởng ở cá tính, lý tính của mình là bẩm sinh, hợp lý, vĩnh hằng, cho rằng với sức mạnh lý tính là có thể chinh phục cả vũ trụ, đất đai, biển cả, bầu trời... Gần đây, đứng trước ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa tự sùng bái mình, do loài người tạo ra nhưng khó kiểm soát nổi như xử lý chất thải công nghiệp, sự cố nhà máy nguyên tử, sự dò rỉ phóng xạ của các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân, hiệu ứng nhà kính, thiên tai, sự nóng lên của khí hậu, khủng bố quốc tế, ô nhiễm môi trường sống2...v.v, nên nhiều nơi đang trỗi dậy ý thức tự phê phán và tự thức tỉnh rộng rãi để thay thế cho văn hóa trên. Đó là sự dịch chuyển văn hóa tự tin sang văn hóa tự thức tỉnh. Hãy luôn nhớ rằng: con người chỉ là một bộ phận của thiên nhiên, phải tỉnh táo, cẩn trọng khi ứng xử môi trường tự nhiên.
Sự chia tách lãnh thổ một số quốc gia bắt nguồn từ nguyên do văn hóa: Một số cộng đồng có văn hóa riêng (Có thể đã từng là quốc gia, công quốc nhỏ lẻ) dù nằm trong thiết chế quốc gia thống nhất, tới khi điều kiện chín muồi thường có xu hướng muốn tách rời thành quốc gia độc lập. Đây là nguyên nhân văn hóa, muốn giải quyết tối ưu, phải xem xét từ lăng kính văn hóa, có sự tham gia đặc biệt của các giải pháp văn hóa.
Phương châm ứng xử giữa các nền văn hóa khác nhau: Khi quá trình toàn cầu hóa càng mạnh mẽ, để tránh sự va chạm giữa các nền văn minh và sự mâu thuẫn trong cọ xát văn hóa mỗi dân tộc - quốc gia, cách tốt nhất là hãy đưa cái độc đáo, đẹp đẽ, nhân bản nhất của mình ra trưng bày cùng với những cái đặc trưng, cái làm nên bản chất cốt lõi văn hóa của dân tộc - quốc gia khác. Điều chính yếu là giữ cái “bản” vì là quốc hồn, quốc túy, là cái riêng; còn cái “sắc”- hình thức bề ngoài là những thứ mang tính “động”, dễ thay đổi thì có thể thu nhận, tiếp biến, nâng cao, bổ sung, hoàn thiện cho hợp điều kiện, hoàn cảnh, thời đại.
Vai trò văn hóa giải quyết các mâu thuẫn phức tạp, khó khắc phục: Văn hóa thời đương đại là một sức mạnh tổng hợp, vừa là mục tiêu, động lực lại vừa là con đường đúng đắn để hóa giải các mâu thuẫn xã hội. Mọi quốc gia muốn phát triển hài hòa, bền vững phải luôn hướng đến mục tiêu văn hóa, đầu tư giáo dục nâng cao dân trí không ngừng để ngày càng đông người sống có văn hóa, vì văn hóa và từ đó có thể khắc phục được tận gốc các nguy cơ nẩy sinh từ các vấn đề kinh tế- xã hội, môi trường.
Văn hóa hiện đại có thêm đặc trưng là: sự tham gia ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông mới mẻ, đa năng, có thể ảnh hưởng đến thói quen, lối sống không chỉ ảnh hưởng đến đông đảo mọi người (đại chúng) ví dụ tác động của các thiết bị truyền thông di động - Mobile Communication (điện thoại di động là một loại thiết bị đó), Internet, Blog mà còn mang tính “tiểu chúng” (văn hóa của nhóm người cùng sở thích, lợi ích, nhu cầu - ví dụ về phim ảnh, âm nhạc…).
Văn hóa - truyền thông và tiến trình toàn cầu hóa: Khi xu thế toàn cầu hóa tiếp tục sâu rộng hơn thì mâu thuẫn tầng sâu trong quá trình phát triển không ngừng nổi lên trên bình diện quốc tế; Trong việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, các khu vực thì hoạt động NGVH có vai trò quan trọng nhiều khi chẳng kém ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế. Văn hóa đối ngoại (có sự hợp lực của các phương tiện truyền thông truyền thống xưa nay và các loại mới mẻ) ngày càng có vị trí đặc biệt trong đối thoại, thương thuyết quốc tế (Ví dụ Trung Quốc tập trung cho Olimpics 2008 Bắc Kinh, Việt Nam đầu tư cho Festival Huế; Nhật Bản, Hàn Quốc tích cực biểu diễn âm nhạc ở khắp nơi, Mỹ đến Bĩnh Nhưỡng bằng nhạc cổ điển…). Có thể coi văn hóa – truyền thông đối ngoại là một mắt xích gắn chặt với chiến lược ngoại giao toàn diện của mỗi nước, góp phần tăng cường “thế lực và quyền lực mềm” cho đất nước; tăng yếu tố hòa bình, dân chủ, hợp tác, làm dịu tình hình quốc tế; định vị quốc gia vững chắc; đẩy mạnh các chính sách, phương châm, sách lược ngoại giao nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu chiến lược ngoại giao toàn diện.
Thế kỷ XX là thế kỷ mà TTĐC có những bước hoàn thiện, tiến triển mạnh làm tiền đề cho thế kỷ XXI - có nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ. Nhân loại chứng kiến sự ra đời của các loại hình báo chí tương hợp - tương tác - liên thông và hội thông với dòng chảy dữ liệu siêu tốc, sự kết nối truyền thông đa năng, các mạng lưới chằng chịt nhưng dễ khai thác, các dịch vụ đa thành phần... Nhiệm vụ các ban biên tập có sự thay đổi, khuynh hướng các tờ báo rất khó tô đậm, tác giả và công chúng có thể cùng viết và tranh luận tức thời trên một tờ báo mạng. Ngày càng nhiều người có học vấn cao sử dụng các loại hình báo chí tương thích với nhu cầu cá nhân riêng và đưa ra những thông điệp phản hồi. Sự phân biệt rạch ròi nhà sản xuất và người tiêu dùng, hoặc độc giả, khán giả, thính giả có khi không cần thiết, bởi có công đoạn, có thời gian nhiều người đóng chung vai trò, hoặc xen kẽ, hoặc tương tác. Thông qua hệ thống Internet, độc giả vừa là người tiêu dùng, vừa có thể tự sản xuất và phổ biến tin tức trong khi nhà sản xuất chuyên nghiệp ngày càng phải tìm mọi cách để khai thác thông tin phản hồi từ phía khách hàng của mình. Như vậy, các loại hình báo chí đã phát triển cùng với những giai đoạn biến đổi văn hoá chính trị: từ văn hoá nói đến văn hoá viết, từ văn hoá viết đến văn hoá dùng bản thảo, từ văn hoá dùng bản thảo sang văn hoá in ấn và từ văn hoá in ấn đến văn hoá xuất bản điện tử. Song hành với sự phát triển các nền văn hóa cụ thể đó là sự phát triển từ thấp lên cao các hình thái kinh tế - xã hội cùng các thể chế chính trị khác nhau. Thế giới chứng kiến sự đa dạng và phức hợp chưa từng có trong cách thức con người truyền thông, sản xuất và kinh doanh các sản phẩm truyền thông - văn hóa. Bạn đọc với tư cách là người tiêu dùng các sản phẩm tin tức đã trở nên chủ động hơn, đặc biệt với sự hỗ trợ của những thành lựu công nghệ mới; thông tin về mặt số lượng không còn quan trọng nữa, mà yếu tố chất lượng cao của thông tin và cách trình bày hấp dẫn (cả nội dung lẫn hình thức), sự tiện lợi trong đọc, nghe, nhìn, phản hồi… đã trở thành mối quan tâm hàng đầu.
Lĩnh vực truyền thông đa năng cùng các dịch vụ đa dạng đã, đang và sẽ là những ngành nghề hấp dẫn hàng đầu, có thể mang lại lợi nhuận cực lớn, hội đủ nhiều yếu tố: sự sáng tạo, môi trường doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội, quyền lực mềm, sự năng động mang nhiều hơi thở cuộc sống khắp nơi, từ cả trong, ngoài một quốc gia.
Quan hệ giữa Văn hóa - truyền thông và quản lý vĩ mô, niềm tin nhân dân: Thông tin trong xã hội hiện đại ảnh hưởng rất lớn đến điều hành vĩ mô của Nhà nước, đến niềm tin của công chúng (cả trong, ngoài nước), vì thế nhà nước nhiều quốc gia đề cao các giá trị văn hóa quốc tế của nền dân chủ thực sự vì cộng đồng như tính công khai, minh bạch, trung thực, bao dung… Nhà truyền thông, hãng thông tin cần cẩn trọng hơn trong tính toán hậu quả khi công chúng tiếp nhận thông tin. Hàng loạt vấn đề nhạy cảm được giới truyền thông quốc tế khuyến cáo nhà báo cần lường trước hệ lụy (Ví dụ, Chính phủ Trung Quốc chậm đưa tin về dịch SART năm 2003, khiến nạn dịch bùng phát rộng, nhà nước bị giảm lòng tin trước nhân dân và các nhà đầu tư; Chính phủ Mỹ đưa tin không đúng về Irak để tiến hành cuộc chiến, khiến uy tín Tổng thống Bush và nội các tụt thấp trong giai đoạn nửa cuối nhiệm kỳ 2; trường hợp nhà báo Đan Mạch vẽ tranh biếm họa nhà tiên tri Mohamet đã vi phạm văn hóa tín ngưỡng làm cả thế giới Hồi giáo nổi giận năm 2007, làm chính phủ Đan Mạch rất khó xử…v.v). Nhìn chung, việc thông tin, phản hồi thông tin từ chính sách nhà nước của truyền thông ngày nay vẫn đòi hỏi sự nhạy bén, tính chuyên nghiệp báo chí, trách nhiệm xã hội cao và mặt khác, xét về phương diện văn hóa quốc tế của thế giới văn minh cũng đòi hỏi nhà nước các quốc gia nâng cao năng lực quản lý vĩ mô, trình độ văn hóa chính trị, văn hóa tổ chức, văn hóa cùng chung sống (giữa các dân tộc, quốc gia) cao hơn bao giờ hết.
Ngày nay, người ta không chỉ nghiên cứu các quan hệ lớn như Truyền thông, TTĐC, giao lưu văn hóa mà còn đi sâu vào các khía cạnh mới của thời đại mới - thời đại mà sức mạnh mềm của NGVH (cũng gắn chặt với truyền thông, TTĐC…) đang ngày càng phát huy ưu thế. NGVH có nội hàm cơ bản là: Sự tổng hòa các mối quan hệ văn hóa phục vụ cho mục tiêu, nhiệm vụ ngoại giao nằm trong một hệ thống, chỉnh thể văn hóa đối ngoại của nhà nước hợp hiến. Các mối quan hệ văn hóa đó mang đầy đủ tính hội thông, liên thông và tương thông mà nhà nước một quốc gia đứng ra định hướng, chủ trì, điều hành, tham gia hoặc bảo trợ. Đó là mối quan hệ văn hóa chính thức (Official Cultural Relations) và không chính thức (Unofficial Cultural Relations), lấy lợi ích quốc gia, dân tộc (kể cả lợi ích văn hóa quốc gia, dân tộc) làm chủ thể để tiến hành mọi chiến lược, sách lược ngoại giao với công cụ chủ yếu, con đường chính, cách thức bao trùm là văn hóa, truyền thông quốc tế về văn hóa (Lê Thanh Bình, 2008).
NGVH trong thời đại kinh tế tri thức ngày càng có ý nghĩa quan trọng, đem lại nhiều hiệu quả to lớn lâu dài, nên nhiều quốc gia đặc biệt chú trọng. Mỹ thường dùng văn hóa đại chúng, phim ảnh, các chương trình trao đổi giáo dục, báo chí; Trung Quốc phát huy vai trò dạy tiếng Trung tại các Viện Khổng Tử ở nước ngoài, khuếch trương hình ảnh võ Kungfu, các hình thức ngoại giao thể thao, ngoại giao “bóng bàn”; Nhật Bản thúc đẩy chiến lược NGVH “truyền bá sự độc đáo hấp dẫn văn hóa Nhật”, “hấp thụ tinh hoa văn hóa thế giới để sáng tạo cái riêng và nâng cao”, “cộng sinh cùng các nền văn hóa đa dạng khác”3…v.v. Đó là những thứ thuộc “quyền lực mềm” dễ đi vào lòng người, dễ tiếp nhận.
NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CHO TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM
i) Nhận biết, xác định rõ các xu hướng phát triển của Truyền thông và Văn hóa thế giới sẽ giúp mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam chủ động, vững bước, tự tin, sáng tạo trong việc hoạch định chiến lược phát triển quốc gia, bao gồm cả chính sách, chiến lược xây dựng nền văn hóa dân tộc; hoạt động TTĐC và cả những hoạt động có vai trò đặc biệt trong thế kỷ này - đó là NGVH.
ii) Về quan điểm văn hóa đối ngoại tầm vĩ mô, cần xem xét cả xu hướng chung nằm trong bối cảnh toàn cầu hóa đã nêu trên của quốc tế, nhưng chú trọng nghiên cứu thêm cả chính sách về Truyền thông- Văn hóa của các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, nhất là chính sách liên quan đến lĩnh vực văn hóa, thông tin của Việt Nam. Bởi vì các chính sách đối ngoại (kể cả Truyền thông- văn hóa đối ngoại) của hai quốc gia này sẽ tác động đến nước ta nhiều hơn so với các quốc gia khác. Đồng thời quan tâm đến văn hóa thông tin khu vực ASEAN, xác định rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm của Việt Nam trong việc tham gia xây dựng cộng đồng văn hóa tại khối ASEAN như tinh thần hiến chương ASEAN đã nêu.
iii) Muốn hội nhập vững chắc, vừa phát huy vai trò NGVH, vừa thúc đẩy, nâng cao nội lực văn hóa nước nhà, theo quan điểm chúng tôi cần có những chính sách đồng bộ như sau:
Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bằng các hoạt động cụ thể nhằm tích hợp được các giá trị văn hóa tinh hoa của nhân loại và dân tộc ta; làm sao để một thời gian nữa dân tộc ta phải tự tin, bản lĩnh, hiệu quả trong việc chứng tỏ những cái độc đáo riêng của văn hóa mình và vẫn mang được phong cách, tầm vóc văn hóa quốc tế;
Giữ gìn, phát triển hệ giá trị văn hóa Việt Nam đã được đúc kết, chọn lọc, thử thách qua các thời kỳ, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa đang gia tăng mạnh với nhiều đột biến phức tạp;
iv) Thấm nhuần cao độ các giá trị văn hóa, thiết kế - tổ chức NGVH bằng con đường văn hóa thật bài bản, chuyên nghiệp, có chiến lược, lộ trình để tạo nên hiệu quả to lớn, lâu dài cho ngoại giao nước ta; cần tăng tính chuyên nghiệp đối với việc truyền thông, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Phát huy việc đa dạng hóa quan hệ đối ngoại - nhất là ngoại giao nhân dân, để tạo thành sức mạnh toàn diện, rộng khắp quốc gia, thành nhiều làn sóng liên tục, kết nối nhau tiếp sức cho ngoại giao chính thức;
Mọi ngành, mọi địa phương cần sử dụng hiệu quả TTĐC làm PR (quan hệ công chúng) thật tốt để rút kinh nghiệm cho những hoạt động tương tự sau này và cho các lĩnh vực hoạt động tầm quốc gia khác, nhất là đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm 2010 sắp đến. Nhân dịp tổ chức các hoạt động trong năm, nên chú ý việc in sách, băng đĩa, phim quảng cáo nhằm giới thiệu, quảng bá mọi mặt về Việt Nam với năm châu bốn biển.
KẾT LUẬN
Tóm lại trong thiên niên kỷ này, văn hóa- truyền thông càng liên kết với nhau chặt chẽ, hữu cơ. Dòng chảy lớn của văn hóa- truyền thông thế giới có nhiều điểm phổ quát chung mang tính quốc tế mà các dòng chảy văn hóa- truyền thông thành phần từ mọi quốc gia có thể tham chiếu để chủ động trong quá trình hội nhập, phát triển - đó là cũng là một quy luật mang tính biện chứng. Việt Nam đang tích cực hội nhập với giới nên các hoạt động truyền thông quốc tế, giao lưu văn hóa quốc tế, ngoại giao văn hóa… sẽ ngày càng đi vào chiều sâu, bài bản, phát huy tính độc đáo sáng tạo của truyền thống văn hiến hàng nghìn năm với sức mạnh thời đại để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước mình phát triển trong hòa bình, hợp tác, bền vững, giao lưu hữu hảo với các quốc gia khác.
Tài liệu tham khảo
[1]. Xem: Phạm Gia Khiêm “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới” (Bài đăng trên Tạp chí Thông tin Đối ngoại số 5/2008).
[2]. Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa, NXB Khoa học xã hội
[3]. Nguyễn Nguyên (2007), Những sự kiện trong lịch sử nhân loại, NXB Văn hóa thông tin
[4]. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, NXB Chính trị Quốc gia
[5]. James Wilson, Stan Le Roy Wilson (1998), Mass Media, Mass Culture, McGraw-Hill,Inc
Nguồn: www.tapchibcvt.gov.vn