Các tổ chức châu Âu kể từ năm 1972 trở đi đều hướng đến lĩnh vực bảo vệ môi trường. Hiệp ước Maastricht năm 1992 xác định trong mọi hoạt động của Cộng đồng đều quan tâm đến mục tiêu môi trường, với cùng mức độ như các mục tiêu kinh tế. Tuy nhiên, kinh nghiệm ở các nước cho thấy, các mục tiêu xây dựng môi trường thường khó dung hòa với mục tiêu quy hoạch đô thị và phát triển[1].
2.1. Nguy cơ từ phát triển đô thị
Môi trường đô thị tiềm ẩn bộ ba nguy cơ thường được coi là “thiên tai” gồm: nước (lụt lội), lửa (hỏa hoạn) và dịch bệnh. Ngày nay, các nguy cơ này còn có thêm: ô nhiễm (tiếng ồn động cơ), vệ sinh (khí bụi, rác thải đô thị) và biến đổi khí hậu (hiệu ứng nhà kính), được xác định là “nhân họa”, do tác động của con người.
Có thể phân loại hai nguy cơ từ phát triển đô thị là hủy hoại môi trường tự nhiên và phân lập môi trường xã hội.
Hủy hoại môi trường tự nhiên gồm các nguy cơ đối với không gian ngoại thị (extra-urbain) và nội thị (intra-urbain).
+ Nguy cơ ngoại thị: Không gian đô thị ngày càng mở rộng, nhiều cơ sở công nghiệp được xây dựng xa dần khu vực trung tâm hoặc dời ra khu vực ngoại thành. Tuy nhiên, với khoảng cách bán kính 20 km vẫn có thể tác động tạo nên các hiện tượng khói, khí, bụi làm ô nhiễm thành thị.
Trong các thập niên gần đây, cùng với sự phát triển thị trường và các ngành dịch vụ của khu vực kinh tế thứ ba ở các nước, vấn đề giải công nghiệp hóa (désindustrialisation) được đặt ra nhằm bảo đảm môi trường đô thị.
Bên cạnh đó còn có hai tác hại khác thuộc nguy cơ ngoại thị đối với môi trường là:
- Các vật liệu nguy hiểm được vận chuyển trực tiếp bằng đường bộ, đường sắt, hoặc gián tiếp như các nhà máy điện hạt nhân tạo nên các tia phóng xạ gây nguy hại trong nước và không khí;
- Nghiêm trọng hơn là tác hại của các hiện tượng tự nhiên như: nước lụt, triều cường, gió bão... tạo nên hiện tượng bất bình đẳng về môi trường sống ở đô thị, đòi hỏi thúc bách các chính quyền địa phương xây dựng chính sách đô thị.
+ Nguy cơ nội thị: Do chất lượng môi trường tự nhiên bị hủy hoại, hình thành ở đô thị các tiểu vùng khí hậu (micro-climat) đặc thù. Theo T. Chandler (1965), khí hậu ở khu vực trung tâm đô thị như ở Londres cao hơn từ 1 – 3 độ so với vùng ngoại vi.
Thành phố Londres, trong bối cảnh công nghiệp hóa thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sử dụng than đốt tạo nên chất dioxit lưu huỳnh gây ra ô nhiễm và nhiều căn bệnh thời đại như hen suyễn. Hiện tượng khói, bụi kết hợp sương mù dày đặc ở Los Angeles, Mexico đã cấu tạo nên từ mới smog = smoke + fog[2]. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1960, cư dân thành phố Los Angeles mới sửng sốt khi phát hiện smog không phải truyền ra từ các nhà máy mà do lưu thông xe hơi[3].
Từ những năm 1970, người ta nghiên cứu các tác hại khác nhau của tiếng ồn khi vượt ngưỡng 90 đexiben đối với các thành phần cư dân đô thị, tùy theo tuổi tác, tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa xã hội của họ, hoặc tùy theo các dãy nhà phố liên kế, hãng xưởng, phương tiện vận tải mặt đất, bến cảng. Song tác hại lớn nhất vẫn là các tai nạn giao thông, trong đó gần 1/3 số vụ tai nạn gây chết người.
Năm 2000, tình hình sử dụng năng lượng trên thế giới thải ra 20 tỷ tấn CO2, gây nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính làm trái đất ấm dần lên, trong đó các nước phát triển vốn chỉ chiếm 1/6 dân số thế giới đã thải ra khoảng 2/3 khối lượng.
Năng lượng tiêu thụ để di chuyển ở các đô thị lớn trên thế giới
|
Mỹ |
Tây Âu |
Châu Á |
Châu Á |
Mật độ (dân/km2 đô thị) |
1.400 |
5.000 |
15.300 |
16.600 |
Tỷ lệ việc làm ở vùng trung tâm đô thị |
11% |
20% |
18% |
26% |
Số mét đường/dân |
6,8 |
2,4 |
1,8 |
0,7 |
Số km xe vận chuyển tập thể hàng năm |
28 |
92 |
114 |
108 |
Bãi đậu xe 1000 chỗ ở vùng trung tâm đô thị |
468 |
230 |
80 |
192 |
Đi lại hàng năm của mỗi người bằng phương tiện vận chuyển tập thể |
63 |
318 |
496 |
334 |
Số km xe chạy trong thành thị /người |
11.200 |
4.500 |
1.500 |
1.700 |
Tiêu thụ năng lượng vận chuyển/người (MJ) |
56.000 |
17.000 |
7.300 |
6.800 |
Nguồn: Newman et Kenworthy, 1989[4]
Di chuyển hàng ngày trong tuần ở Pháp
Phương tiện |
Đi bộ |
2 bánh |
Vận tải công cộng |
Xe hơi |
Tỷ lệ di chuyển |
23% |
4% |
9% |
64% |
Khoảng cách đi lại |
2% |
2% |
14% |
82% |
Nguồn: INSEE, 1997[5]
Di chuyển hàng ngày theo mật độ dân số vùng Île-de-France
|
Phân theo khoảng cách đường đi |
|||||||
Mật độ |
Khoảng cách |
Tổng |
Tốc độ trung bình một ngày |
Xả khí |
% đi bộ và xe đạp |
% vận tải công cộng |
% xe khách |
% xe hơi tự lái |
Ít hơn 2.500 |
29,5 |
79 |
22,4 |
3.007 |
4 |
37 |
12 |
55 |
2.501-5.000 |
24,1 |
82 |
17,6 |
2.190 |
5 |
47 |
11 |
44 |
5.001-10.000 |
19,4 |
83 |
14,0 |
1.856 |
7 |
50 |
9 |
43 |
10.001-15.000 |
15,5 |
78 |
11,9 |
1.408 |
9 |
50 |
8 |
39 |
15.001-20.000 |
15,5 |
86 |
10,8 |
1.545 |
10 |
46 |
9 |
42 |
20.001-30.000 |
15,3 |
87 |
10,6 |
1.231 |
10 |
56 |
7 |
32 |
30.001 trở lên |
16,7 |
93 |
10,8 |
1.047 |
8 |
66 |
7 |
24 |
Nguồn: Gallez, 1995[6]
Phân lập môi trường xã hội: Henri Lefebvre (1972) cho rằng, xã hội tương lai không còn là xã hội công nghiệp mà là xã hội đô thị[7]. Theo thời gian, đô thị trở thành khung cảnh sống thiết yếu của nhiều tầng lớp thị dân. Tuy nhiên, đô thị phát triển không tránh khỏi tác động đối với người nghèo kém phương tiện. Quá trình tái cấu trúc tổng thể các đô thị lớn làm phát sinh hiện tượng tách biệt nơi ở giữa các tầng lớp người giàu và người nghèo, tạo nên nguy cơ phân lập môi trường xã hội.
- Hiện tượng tách biệt nơi ở của người giàu: Vào thế kỷ XIX, khi công nhân, đặc biệt là tầng lớp vô sản đổ xô về thành thị, người giàu ở trong các khu biệt lập, như khu biệt thự những năm 1860 quanh Berlin hoặc khép kín như khu biệt thự Montmorency ở Paris[8].
Nhà khu vực trung tâm đô thị được người giàu ưa thích, vì ở đó có môi trường thích hợp: là khu đô thị thực sự với khu vực quy hoạch dành cho người đi bộ, các điểm bán hàng cao cấp, di sản thành thị-lịch sử được khôi phục, các khu nhà ổ chuột đầy dẫy tệ nạn bị xóa sổ, loại bỏ tình trạng mất an ninh, đặc biệt có camera quan sát ghi hình về đêm... Tại Paris, khu phố Marais dành cho giới quý tộc cũ được khôi phục trở thành khu thương mại cao cấp, với nhiều cửa hàng sang trọng, tiệm ăn nổi tiếng, nhà ở sang trọng, tiện nghi. Giới thượng lưu giàu có lần lượt đến ở khu vực trung tâm này thay thế các gia đình nghèo cũ.
Không chỉ khu vực trung tâm các đô thị lớn mà cả ở vùng ngoại ô, các đô thị mới ở ngoại thành cũng hình thành các khu vực trung tâm, nơi tập trung trường học, trụ sở hành chính, cơ sở kinh tế - xã hội, văn hóa để giải tỏa dồn ứ ở các đô thị lớn. Chính ở khu vực này cũng tập trung giới giàu có, hình thành cộng đồng nhà có cổng và các hình thức tương tự, để bảo đảm cho họ có nơi ăn ở an ninh theo kiểu “tư sản”, đối lập với môi trường sống của người nghèo khổ.
Theo Ghorra-Gobin (2000), ở Chicago “người ta phân biệt khu phố người giàu với khu phố của các tầng lớp trung lưu và khu phố người nghèo bởi: chất lượng không gian xanh, có cây cối dọc lối đi; kích thước nhà ở và ô nhiễm không khí”. Trong các khu nhà nhiều cây cối, tỷ lệ bạo hành trong gia đình thấp hơn so với khu vực không có hoặc có ít bóng cây. “Người dân trong các ngôi nhà có cây cối bao quanh sử dụng các hình thức xây dựng và ít bạo lực hơn để giải quyết các bất đồng của họ” (Kuo và nhiều tác giả, 1998)[9].
Tại Mỹ, Mike Davis (1996) mô tả các khu phố giàu có xây dựng ở vùng ngoại vi Los Angeles giống như các “pháo đài”, có người canh gác, để người sống trong đó được an toàn[10]. Hiện tượng LosAngelization ở Nam California không phải cá biệt mà khá phổ biến trong nhiều vùng nước Mỹ như Arizona xung quanh Phoenix...
Lối sống Mỹ (American Way of Life) phát triển dựa trên hai điều kiện: nhà ở cá nhân và di chuyển tự do bằng ô tô, làm cho không gian đô thị hóa bành trướng nhanh chóng về diện tích, dẫn đến hệ quả hình thành các cộng đồng khép kín trong các khu nhà có cổng (gated communities). Theo Smith (1996), sự hình thành các cộng đồng nhà có cổng phản ánh nỗi lo sợ của giới giàu có về tình trạng mất an ninh. Tiền thân của các cộng đồng này là các khu biệt thự có vườn tược xung quanh trong thời kỳ phát triển công nghiệp ở vùng ngoại ô Londres. Họ lánh xa triệt để các khu phố nghèo, cả khoảng cách không gian, thời gian cũng như hoàn cảnh xã hội, tạo nên hiện tượng phân lập môi trường xã hội rõ rệt. Theo R. Lopez, có 4 triệu người Mỹ ở trong thế giới khép kín và riêng tư này, hầu như biệt lập và tự trị[11].
Áp lực không gian đô thị của các thành phần được ưu đãi trong dân chúng còn làm gia tăng các hoạt động đầu cơ, làm tăng giá điền thổ và bất động sản, gây khó khăn cho hoạt động xây dựng nhà ở có giá cả hợp lý. Cơn lốc giá cả còn để lại nhiều hậu quả tai hại cho không gian đô thị: bất động sản bề mặt diện tích nhỏ lại trị giá quá mức; nhà ở nhỏ được tranh mua trên thị trường. Tại khu phố Notting Hill (Londres), chỗ ở chỉ 6m2 có giá thuê hàng tháng gần 900€; hoặc đến ở trong khu nhà cổ hàng trăm năm có giá trên 143.000€. Các hãng bất động sản tán dương: “nhỏ mà thời thượng”, “nhà tôi ở trong lâu đài”; hoặc gọi đó là “nơi ở lý tưởng dành cho người có hoạt động xã hội tích cực” ngoài nhà ở...
- Hiện tượng tách biệt nơi ở của tầng lớp dưới: Trong quá trình phát triển đô thị, nhất là các đô thị lớn, các khu phố quy hoạch cho người giàu hoặc người có điều kiện ngày càng đối lập gay gắt với các khu phố có nhà ở bị mất giá và điều kiện sống tồi tệ.
Các mô hình cư trú phổ biến sống bên lề xã hội thường được nhắc đến như: bidonvilles là nơi dân nghèo thành thị ăn ở tạm bợ trong các căn nhà làm bằng vật liệu thu nhặt được; slum là các khu nhà ổ chuột xuất hiện từ kỷ nguyên công nghiệp[12]; nhà phúng dụ (habitation allégorique) là các công trình được Nhà nước phân lô xây dựng tạm bợ, kể cả các lều, trại, ghe xuồng và các ki-ốt, vừa làm việc vừa dùng để ở của những người khốn cùng[13]; các ghetto chủ yếu dành cho các cộng đồng thiểu số. Ở Bắc Mỹ, tỷ lệ này là 2/3 dân số, trong khi ở châu Âu gồm các cộng đồng ít hơn, chiếm không quá 1/5 dân cư.
Hiện tượng tách biệt nơi ở gắn với phân bố không gian đô thị, do phân tầng không gian xã hội ở khu vực trung tâm đô thị cũng như ở các vùng ngoại vi, đã gây nên hệ quả về giới hạn của không gian đô thị hóa. Từ thế kỷ XIX, vùng ngoại ô các nước châu Mỹ Latinh xuất hiện các khu nhà ở tách biệt của công nhân và nhân viên các xí nghiệp hầm mỏ và công nghiệp, gọi là phố công ty. Có nơi còn có tường bao quanh, hai bên lối ra vào có hàng rào mà trước đó chưa từng thấy trong các khu nhà thợ mỏ và các phố công nhân khác ở Tây Âu. Cuối thế kỷ XIX, còn xuất hiện các khu nhà dành cho dân nhập cư đến từ nông thôn, gọi là barrios cerrados, trong đó một số vốn là nhà một hộ bỏ hoang phế của tầng lớp trên, nhiều hộ đến chiếm dụng thành khu nhà ở. Ở Mêhicô, loại nhà này được gọi là vecindades (“khu nhà tế bần”); ở Chi Lê lúc đầu gọi là conventillos (“chung cư nhỏ”), đến những năm 1920 và 1930 quy hoạch lại thành “khu phố thị” (cité).
Ngoài ra, ở các nước phát triển, hiện tượng “melting pot” đồng hóa văn hóa đối với các dân tộc thiểu số trong xã hội đa tộc người cũng góp phần làm tăng thêm phân hóa xã hội.
2.2. Yêu cầu mở rộng không gian quy hoạch đô thị
Angelus Eisinger, trong công trình Xây dựng đô thị (2004, Construire des villes – “Städte bauen”), đã dựa trên các điển hình thành công của Thụy Sĩ như việc phân lô vùng Sus Mont Goulin ở Prilly; trường hợp quản lý quy hoạch đô thị tại Otelfingen... để vạch ra viễn ảnh của thời kỳ quá độ và tiếp cận về nguồn gốc lý thuyết quy hoạch đô thị. Ông cho rằng đó là vấn đề biến đổi của thành thị khi chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang thời kỳ hậu công nghiệp kể từ những năm 1940.
Theo Eisinger, cần thay thế sự đơn điệu và buồn chán của quy hoạch đô thị cũ, đưa vào mục tiêu quản lý quy hoạch đô thị các đòi hỏi cấp bách về môi trường và tìm kiếm hạnh phúc cho con người. Ông đối chiếu các biểu hiện giữa kế hoạch hóa và thực tiễn xã hội trong khi diễn ra các quá trình xã hội kỹ thuật. Eisinger muốn kết hợp chặt chẽ lý thuyết và thực tiễn “các hoạt động làm biến đổi thế giới” (praxis) của quy hoạch đô thị với bối cảnh xã hội. Đô thị hóa không chống lại xã hội, mang lại bất ổn cho con người, mà cần đổi mới hơn nữa quan hệ giữa quy hoạch đô thị và xã hội, với sự tham gia chặt chẽ của kiến trúc[14].
Số người tử vong vì bệnh lao ở Paris giảm theo tỷ lệ mở rộng không gian đô thị: hệ số thay đổi từ 104 cho 10.000 dân đối với các khu phố đông dân đến 11 cho 10.000 dân ở vùng Champs-Élysées. Có thể hình dung bộ mặt đô thị trong quá trình quy hoạch mở rộng không gian đô thị hóa bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau:
- Một, không gian đô thị và nông thôn có thể bù đắp cho nhau. Không gian nông thôn không tách rời môi trường đô thị mà đó là bộ phận không gian bù thêm vào, cấu thành môi trường đô thị.
Ở Lausanne, các không gian nông nghiệp và lâm nghiệp hòa nhập vào dải đô thị trong khuôn khổ dự án văn hóa kết hợp di sản và cảnh quan. Thành phố bố trí một cánh đồng nho rộng quy hoạch theo bậc thềm đối diện với hồ Léman; một trang trại chăn nuôi sữa hiện đại gợi lại hình ảnh truyền thống về chăn nuôi của Thụy Sĩ.
- Hai, quy hoạch xây dựng môi trường đô thị không tách rời cũng không triệt tiêu môi trường nông thôn. Làng mạc bị tác động của đô thị hóa nông thôn vẫn giữ lại một số đặc trưng nông thôn về nhà ở, không gian công cộng... Trung tâm làng không còn là không gian sản xuất mà chức năng chỗ ở giữ địa vị chủ đạo.
Năm 2005, cuộc thăm dò tiến hành tại các đô thị lớn của Pháp cho thấy: 42% người dân Pháp cho rằng họ sẽ đến ở vùng nông thôn nếu có điều kiện - tất nhiên họ vẫn không từ bỏ các hoạt động của mình ở thành thị.
Khoảng giữa những năm 2000 – 2005, hơn 20 ngàn dân thành phố Bâle (Thụy Sĩ) đã tự giải đô thị hóa để đến ở trong 149 khu đô thị vùng tây bắc. Họ muốn có khung cảnh sống tốt hơn, gần gũi thiên nhiên, đóng thuế ít hơn, mà vẫn đi lại thành phố Bâle dễ dàng nhờ mạng vận tải công cộng dành cho người di chuyển con lắc vào thành phố làm việc.
- Ba, văn minh đô thị không xóa bỏ mà trái lại ngày càng tăng cường các đặc trưng có xuất xứ từ nông thôn. Việc quy hoạch phát triển công viên và các mảng xanh được coi là công cụ quản lý không gian nông thôn và bảo vệ nông thôn trước quá trình đô thị hóa, nhất là ở các thành phố mới.
Người Anh gọi các công viên của họ là “lá phổi của Londres”. Phong trào xây dựng các không gian xanh phát triển với các công viên nhỏ (squares), các loại công viên (parcs), công trình “vườn công nhân” cùng với việc hình thành các “thành phố vườn” (cités jardins) rất phổ biến ở Anh và nhất là ở Mỹ.
Ở Paris, chính sách vườn có từ thế kỷ XIX vào thời Haussmann. Công viên nhỏ và vườn công được quy hoạch xây dựng gần nơi ở của người dân để họ có thể đi bộ đến ít hơn một canh (¼) giờ. Cũng vậy, đối với các công viên lớn ở vùng ngoại vi, người dân cũng có thể đến nhanh chóng bằng xe bus, tramways hoặc đường sắt ngoại ô.
2.3. Yêu cầu xây dựng môi trường đô thị bền vững
Kể từ cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, người ta mới đặt ra vấn đề có hay không có văn hóa nhân văn (culture humaine) hoặc văn hóa môi trường (culture de l’environnement). Trong vòng 20 năm, từ hội nghị Stockholm (1972) về môi trường nhân văn đến hội nghị Rio de Janeiro (1992) về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc, đã có sự biến đổi quan niệm về môi trường: từ phát triển sinh thái thời kỳ đầu (Ignacy Sachs, 1980, Stratégies de l’écodéveloppement) đến phát triển lâu dài (durable) hoặc bền vững (sustainable; soutenable) các thời kỳ về sau.
Trong ba nhân tố phát triển bền vững của môi trường, kinh tế và xã hội, mỗi nhân tố đều có các yêu cầu thực tiễn ở các phạm vi khác nhau. Đối với môi trường tự nhiên là quản lý không khí, nước, đất khỏi sự tận diệt hoặc xâm hại đa dạng sinh học, bên cạnh việc quản lý tiêu dùng của con người về năng lượng, nước, thực phẩm, nguyên liệu, chất độc hại và rác thải; đối với môi trường xã hội là là các vấn đề về hòa bình, an ninh, công bằng xã hội hoặc quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên.
Riêng đối với môi trường đô thị, khái niệm phát triển bền vững chỉ được phổ biến và ứng dụng từng bước cho đến đầu thế kỷ XXI. Ngoài các lĩnh vực vận chuyển, năng lượng gắn với thực tiễn phát triển đô thị, còn có các yêu cầu xây dựng môi trường đô thị bền vững bao gồm việc quản lý, quy hoạch đô thị về phía chính quyền địa phương, hoặc việc bảo đảm các nguyên tắc tham dự, quyền thông tin của công dân, kể cả việc tạo chuyển biến nhận thức về môi trường đối với người dân.
2.3.1. Quản lý đô thị
Thời đại nào cũng đặt ra vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên. So với nền kinh tế nông thôn và nông nghiệp, các yêu cầu về sinh thái cần đạt đến và các thứ ô nhiễm của nền kinh tế công nghiệp và đô thị xem ra còn khó khăn hơn rất nhiều. Nó tùy thuộc ứng xử của con người có là nhà quy hoạch tốt hay không trên vùng đất của mình, vì qua đó có thể cải thiện hoặc làm hỏng khung cảnh sống hiện tại của họ và của các thế hệ tương lai.
Trước các vấn đề môi trường ở đô thị, các nhân tố thiết chế, phương thức điều hành của chính sách đô thị tỏ ra quan trọng hơn phương diện dân số. Các chính sách, quy hoạch và các quy tắc đô thị đóng vai trò chủ yếu trong chiến lược thúc đẩy phát triển bền vững. Các mục tiêu quản lý đô thị trong quan hệ tương tác giữa đô thị và môi trường là:
+ Mang lại cho cư dân một khung cảnh sống và làm việc trong lành;
+ Bảo đảm cho cư dân nguồn nước cung cấp, lắp đặt các thiết bị vệ sinh và thu gom rác thải thích hợp;
+ Quy hoạch đường sá và đường bộ cũng như các trang bị cần thiết khác để bảo đảm tốt sức khỏe của cư dân;
+ Tạo nên sự cân bằng hợp lý giữa các đòi hỏi của người tiêu dùng hoặc của doanh nghiệp đối với các nguồn tài nguyên, môi trường phát sinh ô nhiễm và hệ sinh thái.
Trong bối cảnh môi trường đô thị ngày càng mở rộng, việc quản lý đô thị bao gồm các nguyên tắc và các chính sách chủ yếu sau:
* 4 nguyên tắc:
- Quản lý đô thị về sinh thái, chính trị - xã hội và kinh tế;
- Tích hợp các chính sách theo chiều ngang và chiều dọc;
- Đảm bảo sự cân bằng của hệ thống sinh thái;
- Đảm bảo sự hợp tác và các nhóm cộng đồng ở đô thị.
* Các chính sách chủ yếu:
- Về tài nguyên tự nhiên, năng lượng và chất thải;
- Phát triển kinh tế - xã hội;
- Chất lượng môi trường: môi trường, sức khỏe, đời sống xã hội, giao thông, kinh tế;
- Kế hoạch hóa không gian đô thị;
- Đổi mới đô thị;
- Di sản văn hóa đô thị, giải trí và du lịch.
Theo thiết chế quốc tế, các chủ đề hoạt động chính được các chính quyền đô thị vận dụng vào quản lý đô thị gồm có:
1. Nguyên tắc thận trọng (précaution): Các chiến lược tăng trưởng chứa đựng nhiều nguy cơ, không chắc chắn và khó lòng quay lại trong một số quyết định chọn lựa về môi trường.
2. Quản lý (gestion): Trong hai thập niên, khái niệm quản lý đã thay thế hoàn toàn khái niệm chính sách (chính sách công, chính sách xã hội, chính sách đô thị, v.v.). Vấn đề là cần bàn thảo sự chọn lựa của xã hội hoặc các chiến lược kinh tế - xã hội ưu tiên; bên cạnh việc hoạch định mô hình tăng trưởng tối ưu có thể chấp nhận được.
3. Quản trị (gouvernance): là khái niệm đa nghĩa, gồm hai chặng đường. Thứ nhất, chuyển từ xí nghiệp tư về phạm vi công (tạo lại các phương thức hoạt động công và các quan hệ giữa thị trường, Nhà nước và xã hội dân sự); thứ hai, chuyển từ sự tập trung giữa các nhà “điều hành giỏi” khuyến khích quản lý công minh bạch ra khỏi gánh nặng của Nhà nước di sản, Nhà nước chăm sóc và “ăn xổi”, bên cạnh sự phát triển tư nhân hóa và các đối tác công/tư.
4. Tham dự (participation): Trong hệ thống đại diện quyền công dân thông qua nhiệm kỳ các đại biểu được bầu, cần kích thích công dân tham gia tích cực – dù chỉ để tham khảo – trong quá trình quyết định dựa vào sự bàn bạc thống nhất. Vấn đề trung tâm lúc đó là tính đại diện và tính hợp thức của các nhóm tạo nên áp lực.
5. Nhân tố (acteurs) và bổ trợ (subsidiarité): Khái niệm cương vị và tác động của các nhân tố là điều không thể lẩn tránh được. Tuy nhiên, mọi cấp trên nên từ bỏ việc đưa ra sáng kiến trong các lĩnh vực thuộc khả năng và phạm vi hoạt động của các cấp dưới. Nguyên tắc này có phần ngược lại với nguyên tắc ủy nhiệm hoặc phân cấp, qua đó cấp cao chuyển giao thẩm quyền xuống cho cấp dưới.
6. Đồ án xã hội (ingénierie sociale): Trong khuôn khổ cấu trúc xã hội, có thể thay đổi bền vững các ứng xử tập thể ở cấp độ địa phương bằng cách khích động, thi đua và gây nhạy cảm. Mục tiêu là dự kiến đáp ứng các vấn đề thuộc về cấp độ cụ thể và theo sáng kiến địa phương. Công thức này cho thấy cấu trúc có thể vận hành theo đồ án xã hội.
7. Huy động các nguồn lực địa phương (mobilisation de ressources locales): Dựa trên đồ án xã hội, các dự án phát triển địa phương có thể đưa vào mục tiêu đóng góp tài chính của người dân thụ hưởng dự án. Nguyên tắc miễn phí được bãi bỏ. Phương pháp này quy định theo nguyên tắc thực tế rằng: mọi dịch vụ đô thị đều có giá cả kinh tế mà người sử dụng phải đảm nhận trực tiếp để có trách nhiệm về dịch vụ đó. Người tiêu thụ hoặc mọi khách hàng đều phải trả tiền, coi như xác định lựa chọn thông qua việc đồng ý trả tiền, với mức giá tương ứng được tiên liệu theo kinh nghiệm.
Quan niệm này có thể chấp nhận nếu bản thân nó trung thành với nguyên tắc thực tế. Nhưng khi có yêu cầu phổ biến, đặc biệt đến các tầng lớp đô thị chịu bất lợi, nó sẽ đụng chạm đến thực trạng không đủ khả năng chi trả, nên cần đưa ra ngoài hệ thống thương mại hóa các dịch vụ đô thị[15].
2.3.2. Quản lý quy hoạch đô thị theo phân khu chức năng (zonage), để xác định các đặc điểm – tích cực và tiêu cực – của vùng đất theo cách thức phù hợp, cũng như các phương tiện làm tăng giá trị của vùng đất trong thời gian ngắn hoặc dài. Zonage là sự chuyên môn hóa chức năng của không gian, là công cụ ban đầu để quản lý vùng đất quy hoạch và để bảo vệ tự nhiên, đồng thời là một trong các công cụ chủ yếu để lãnh thổ hóa các chính sách công ở địa phương.
Các phương pháp mới quản lý vùng đất quy hoạch ngày càng thuận lợi do tiếp tục quá trình giải trung ương hóa, dẫn đến cơ hội chuyển dần các phân khu chức năng này sang các hình thức dự án dành cho việc thương thảo hợp đồng giữa các nhân tố có trách nhiệm của vùng đất.
Hai vấn đề môi trường thu hút sự chú ý các nhà quản lý quy hoạch đô thị là tính chất tập trung (centralité) và vấn đề du lịch đô thị[16].
- Quản lý các di sản đô thị - lịch sử và phục hồi các khu vực trung tâm thành thị: Mỗi thời đại đều có thành thị của thời đại mình[17]. Cho nên mỗi đô thị đều phải quản lý các di sản gồm: kiến trúc, quy hoạch đô thị, văn hóa xã hội và kinh tế của các thời kỳ trước đó, trong các điều kiện ít khi được thuận lợi.
Trong bối cảnh hậu công nghiệp, mô hình đô thị đã phát triển, các lực ly tâm làm cho quá trình đô thị hóa các hoạt động ở ngoại thành (exurbanisation) trở nên thuận lợi, trong đó thấy rõ nhất là các hoạt động tái phân phối thương mại. Tuy nhiên, cùng với nó là số lượng các hoạt động văn phòng trong dân cư cũng được đô thị hóa ra vùng ven, ở các khu vực trung tâm, kể cả các trụ sở hội buôn... Xu hướng chung của quá trình đô thị hóa là tính đa trung tâm, cho nên các trung tâm thành thị sớm bộc lộ tình hình năng động trở lại.
Quá trình năng động trở lại này còn là việc khôi phục lại một khu dân cư cổ, vốn không có nhiều tiện nghi khiến tầng lớp trung lưu bỏ đi nơi khác. Công việc của các nhà quy hoạch và ra quyết định khó khăn ở chỗ làm thế nào dung hòa giữa cơ chế đã được xác nhận của tầng lớp giàu có và những mục tiêu ưu tiên của chính sách công, kể cả áp đặt các nguyên tắc hỗn hợp về mặt xã hội và chức năng.
Các đô thị lớn đều có những khu phố văn hóa như: South Bank nằm bên bờ nam Tamise ở trung tâm Londres, Museumquartier ở Vienne, Le Marais ở Paris. Do đó, trong hầu hết các đô thị lớn nhỏ, việc khôi phục lại các khu phố trung tâm là một trong những ưu tiên của nhà chức trách như: quy hoạch, mở rộng không gian công cộng, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản, kể cả các di chỉ khảo cổ.
Các khu vực trung tâm thành thị cũng có khả năng thu hút về mình các trung tâm lịch sử được khôi phục, các hồi ức, các di sản kiến trúc có giá trị, các địa điểm văn hóa cao cấp, các phòng biểu diễn, các nhân tố quảng cáo cũng được coi là góp phần tạo nên danh tiếng cho các doanh nghiệp lựa chọn địa bàn này.
- Quản lý quy hoạch du lịch, giải trí, hệ thống khách sạn và dịch vụ bán hàng: Trong các thành thị phương Tây, nếu kể thêm dịch vụ bán hàng các loại thì có khoảng 80% hoạt động thuộc về lĩnh vực kinh tế thứ ba. Đây vốn là lĩnh vực đang phát triển trong môi trường đô thị, góp khoảng 10% PIB ở thành thị, tạo ra hiện tượng “du lịch hóa” (touristification)[18].
Trong các thập niên vừa qua, hệ thống khách sạn phát triển đáng kể như là “hạt nhân cứng” của nền kinh tế mới ở đô thị, đặc biệt ở những vùng đô thị lớn, nơi có chức năng và các hoạt động gặp gỡ, trao đổi, giao dịch ngày càng đa dạng. Đó là dịch vụ bán hàng đặc biệt, vì một mặt tùy thuộc nhu cầu của khách hàng đến từ bên ngoài và mặt khác là sáng kiến của khu vực tư nhân cũng từ bên ngoài của những tập đoàn tài chính. Tuy nhiên, họ cũng tuân thủ những quy định khắc nghiệt khi nộp đơn xin phép ở chính quyền địa phương, làm cho khu phố trở nên sôi động trở lại, đổi mới hình ảnh, môi trường.
2.3.3. Bảo đảm nguyên tắc tham dự và quyền thông tin của công dân: thuộc về yêu cầu phát triển hướng đến nền dân chủ có sự tham dự của người dân và sự minh bạch trong các quyết định có liên quan đến chính sách đô thị; vận dụng tính năng động của các dự án để kích thích người dân tham gia[19].
Quyền thông tin được tuyên bố ở Điều 7 Hiến chương Môi trường năm 2005: “Mọi người đều có quyền trong các điều kiện và giới hạn theo quy định của luật pháp được tiếp cận những thông tin có liên quan đến môi trường và được tham gia xây dựng các quyết định công có tác động đến môi trường”. Điều đó có nghĩa, trước một dự án hoặc văn bản quy hoạch đô thị, chính quyền phải dự kiến các trình tự tư vấn cụ thể. Riêng về điều tra dư luận, các cuộc điều tra nhằm để cho công chúng biết người nắm dự án và các quyết định hành chính. Song tiến trình này bị nhiều chỉ trích vì không tạo điều kiện thuận lợi cho việc đối thoại thực sự với người dân.
Do đó, các cải cách liên tiếp chẳng hạn như ở Pháp qua các năm 1976, 1983 rồi 1995 đều hướng đến quyền được thông tin và tham gia thực sự của người dân, nhất là khi một dự án có nguy cơ đối với môi trường... Song đáng tiếc, vì quyền quyết định vẫn là thứ của riêng độc quyền của nền hành chính; điều tra dư luận chỉ tiến hành khi một dự án đã thực hiện rồi, trong khi người dân muốn việc tham gia phải bắt đầu ngay trong quá trình tiến hành.
Đạo luật mang tên Barnier ra đời năm 1995 cho phép các hiệp hội trên bình diện cả nước được đưa lên Ủy ban quốc gia về thảo luận công. Ủy ban bắt buộc phải nắm mọi dự án quy hoạch hoặc trang bị ngay từ khi các đặc điểm kỹ thuật, giá cả dự kiến của dự án vượt ngưỡng quy định theo sắc lệnh của Hội đồng Nhà nước. Ủy ban cũng chịu trách nhiệm giám sát việc tôn trọng quyền tham gia của công chúng vào quá trình tiến hành các dự án quy hoạch vì lợi ích quốc gia, địa phương hoặc tư nhân.
2.3.4. Tạo chuyển biến nhận thức về môi trường:
Thực ra, đến cuối thế kỷ XX, loài người đã nhận thức các biến đổi mạnh mẽ của môi trường trên nhiều lĩnh vực thuộc về xã hội, sinh thái, chính trị, văn hóa và ý thức. Môi trường mang chiều kích của thế giới toàn cầu hóa ngày càng được nhiều giới quan tâm, nhất là kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh Trái đất tổ chức tại Rio de Janeiro tháng 6/1992. Nhiều hiệp ước bảo vệ môi trường được ký kết dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc hoặc chính quyền nhiều khu vực, song thực tế cho đến nay mới chỉ giảm bớt cấp độ tăng trưởng ở các nước công nghiệp phát triển.
Ở EU, 79% tổng dân số sinh sống ở các vùng đô thị, do đó họ nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của chất lượng sống và những yếu tố môi trường trong các hoạt động kinh tế, đồng thời nhận biết vai trò của các thành thị trong việc thực thi các chính sách nhằm đảm bảo môi trường sinh thái.
Ở các nước công nghiệp phát triển, đa số người dân có ý thức hơn về môi trường vì:
. Môi trường sống ít yếu tố sinh thái tự nhiên, hoặc nông thôn ngày càng ít đi do đô thị xây dựng ngày càng nhiều;
. Môi trường được kiểm soát bởi tập thể, kể cả được tư nhân hóa, nhưng mức độ tác động đối với từng cá thể ngày càng ít đi và cá thể phải chịu đựng nhiều hơn trong môi trường nhân tạo;
. Môi trường không còn là đối tượng tự nhiên được nhận biết và khai thác (thế kỷ XVIII, 85% dân số khai thác trực tiếp môi trường – nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp… song đến đầu thế kỷ XXI tỷ lệ này còn lại ít hơn 15%);
. Môi trường ngày càng được nhận thức là nguồn tài nguyên có giới hạn, không phải không cạn kiệt hoặc là có thể tái tạo bất tận;
. Môi trường là tài sản chung, chúng ta có bổn phận để dành lại cho các thế hệ mai sau.
Nghị định thư Kyoto ngày 16-2-2005 trở thành hình thức pháp lý ràng buộc với hình phạt, lần đầu tiên tất cả các nước công nghiệp bị buộc phải bảo vệ khí hậu, bảo vệ tầng ozone, trong đó tác hại đến môi trường đô thị được nhắm đến hàng đầu[20]. (còn tiếp)
Nguồn: Tác giả
CHÚ THÍCH
[1] Joselyne Dubois-Maury, L’environnement urbain et son arsenal juridique, Dossier No.3, trong Ville et Environnement, Gabriel Wackermann chủ biên, Éd. Ellipses, 2005, tr.154-175.
[2] Yvette Veyret, Ville et “nature” dans le monde occidental, trong Ville et Environnement, Elisabeth Dorier-Apprill chủ biên, Sedes, Paris, 2006, tr.65.
[3] Theo Xavier Godard, hệ thống vận chuyển ở đô thị gồm ba loại ô nhiễm: xe xăng, chất gây ô nhiễm chính là CO và các hạt mảnh, kể cả chì trong thành phần xăng chưa bị loại bỏ; xe động cơ điezen là các hạt mảnh và Nox; và xe hai bánh có động cơ hai thì, vận hành bằng hỗn hợp xăng và dầu, chất gây ô nhiễm là CO, các thể hạt khác nhau và nhất là HC (chất hiđrocacbua không đốt cháy). (Les polluants liés aux transports urbains, trong Ville et Environnement, E. Dorier-Apprill chủ biên, ibid, tr.144-145).
[4] Jean-Pierre Orfeuil, Déplacements automobiles urbains et environnement, trong Ville et Environnement, E. Dorier-Apprill chủ biên, ibid, tr.165.
[5] Jean-Pierre Orfeuil, ibid, tr.159.
[6] Jean-Pierre Orfeuil, ibid, tr.164.
[7] Henri Lefebvre, Les institutions de la société “post-technologique”, Espaces et Sociétés, Revue critique internationale de l’aménagement de l’architecture et de l’urbanisation, No.5, 4/1972, tr.3-20.
[8] Khu biệt thự Montmorency thuộc sở hữu của Công ty đường sắt Paris, được quy hoạch trong một công viên lâu đài vào giữa thế kỷ XIX gồm năm chục căn, cho đến nay vẫn còn rào kín và do hiệp hội sở hữu thành lập năm 1853 giám sát.
[9] E. Dorier Apprill, La géographie, les villes et l’environnement: débats épistémologiques et enjeux contemporains, trong Ville et Environnement, ibid, tr.46.
[10] Jean-Pierre Paulet, Géographie urbaine, chapitre 6: Le quartier – quelles théories?, Armand Colin, Paris, 2000, tr.111-137.
[11] R. Lopez, Un nouvel apartheid social. Hautes murailles pour villes de riche”, Le Monde diplomatique, 1996. Dẫn theo Jean-Pierre Paulet, ibid. tr.113.
[12] Gabriel Wackermann (chủ biên), Villes et environnement: de l’ère industrielle à la tertiairisation, trong Ville et Environnement, Carrefours – Les Dossiers, Éd. Ellipses, 2005, tr.65.
[13] Các thành thị ở Ai Cập phân biệt 2 kiểu nhà phúng dụ: công trình xây dựng tức thời, rất sơ xài, dành cho người không nơi lưu ngụ và nhà-mồ ở các nghĩa địa.
[14] Gabriel Wackermann (chủ biên), ibid, tr.25-27.
[15] C. de Miras, ibid, tr. 95-96.
[16] G. Wackermann, ibid, tr.141-142.
[17] G. Wackermann, ibid, tr.11.
[18] G. Wackermann, ibid, tr.144.
[19] Dominique Lancrenon, Quel urbanisme pour demain? Éd. du Papyrus, Paris 1996, tr.60.
[20] G. Wackermann, ibid, tr.84.