logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa đại chúng
Sunday, 05 July 2009 17:04

Trần Ngọc Khánh. Xây dựng môi trường văn hóa đô thị - kinh nghiệm nước ngoài

Người post bài:  TT VHH

XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA ĐÔ THỊ

- KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI

 

Trần Ngọc Khánh

ĐH KHXH&NV TP.HCM

Môi trường là nơi hình thành các điều kiện cho hoạt động sinh sản và tái tạo theo chu kỳ đời sống sinh học. Con người và các giống loài khác đều không thể tồn tại nếu không có môi trường bảo bọc, nuôi dưỡng. Ý thức về môi trường được gọi là “tự nhiên” đã hình thành từ rất sớm ở loài người. Con người sùng bái tự nhiên, tôn xưng là người mẹ có chức năng sinh sản và nuôi dưỡng; hoặc gọi là “ông trời”, vị chúa tể quyền năng, sáng tạo và cai quản muôn loài trên trời đất. Tự nhiên hiện diện trong đời sống con người dưới hai khuôn mặt: vừa cưu mang, bao dung, nhân ái vừa nghiêm khắc, trừng phạt...

 

 

Tuy nhiên, khi xã hội chuyển từ hình thái nông nghiệp sang công nghiệp, con người ngày càng thỏa mãn với nhu cầu hưởng thụ vật chất, dần dần có không ít các biểu hiện lệch lạc. Người ta quá bận tâm về các vấn đề xã hội, mà quên lãng hoặc đánh mất tính quân bình trong quan hệ với tự nhiên. Con người luôn muốn khai thác, chiếm đoạt, chinh phục hoặc đối xử “thù nghịch” với tự nhiên. Không biết bao lần, trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, qua nhiều câu chuyện huyền thoại hoặc thực tế, con người đã bị trừng phạt bằng chính những “tội lỗi” tai ác, tác hại do mình gây nên đối với môi trường.

Môi trường tự nhiên trong thời đại ngày nay vẫn đóng vai trò “bà đỡ”, là điều kiện “sống còn” bảo đảm đời sống cho các cộng đồng quốc gia, dân tộc, ở các nước phát triển cũng như đang phát triển. Môi trường, trong quá trình đô thị hóa, không chỉ là nguồn tài nguyên để khai thác, mà còn là điều kiện không thể thiếu để tạo dựng nên khung cảnh sống và chất lượng sống. Bù lại, trong các môi trường xã hội, con người muốn xây dựng lối sống văn minh không chỉ bao gồm các ứng xử bình đẳng, tiến bộ trong quan hệ lẫn nhau, giữa con người với con người, mà cần bảo đảm tạo ra môi trường phát triển bền vững như là một yêu cầu tiên quyết.

Song thế nào là môi trường phát triển bền vững? Quan hệ tương tác giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo trên thực tế đã diễn ra như thế nào? Xung quanh khái niệm môi trường và môi trường văn hóa hoặc môi trường tự nhiên và môi trường xã hội cho đến gần đây vẫn còn ý kiến khác nhau, tùy theo quan điểm hoặc góc độ nghiên cứu. Trong phạm vi bài này, chúng tôi đề cập về môi trường văn hóa trong quá trình đô thị hóa, giới hạn ở việc tìm hiểu một số phương diện và kinh nghiệm xây dựng môi trường văn hóa đô thị ở nước ngoài, gồm có bốn nhóm chủ đề sau:

- Một, các vấn đề lý thuyết về môi trường văn hóa đô thị;

- Hai, các vấn đề thực tiễn xây dựng môi trường văn hóa đô thị;

- Ba, kinh nghiệm xây dựng ý thức bảo tồn môi trường tự nhiên, xây dựng không gian đô thị và xây dựng môi trường đô thị phát triển bền vững ở các nước trên thế giới;

- Bốn, kinh nghiệm tổ chức các hoạt động cụ thể xây dựng môi trường văn hóa đô thị.

Với các tài liệu khá cập nhật, được chắp nhặt từ nhiều nguồn khác nhau, song vấn đề được đặt ra vẫn còn tương đối mới mẻ, nên không tránh khỏi những chỗ sơ hở, giản lược hoặc các chi tiết thừa thiếu. Hy vọng sau này sẽ có điều kiện sửa chữa thêm dần và rất mong người đọc góp ý, bổ sung cho hoàn chỉnh.

oOo

Trong quan hệ với môi trường tự nhiên, con người nói chung và văn hóa của các xã hội loài người nói riêng là sản phẩm, bộ phận của tự nhiên, đồng thời là chủ thể đối tác không ngoài mục đích làm cho môi trường tự nhiên càng thêm kỳ vĩ, phong phú. Con người tạo lập ra thế giới của mình, song thế giới ấy vẫn là bộ phận không tách rời, không thể đứng ngoài các quy luật vận động, chi phối của tự nhiên. Do đó, có thể nói “ý Trời” vẫn mãi ngự trị. Con người buộc phải sống “thuận thiên”, tức là biết sống nhờ, sống với và sống cùng tự nhiên.

Chính quan hệ tương tác này làm cho các khái niệm môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa, kể cả môi trường xã hội không phải là các thực thể biệt lập. Tự nhiên và nhân tạo, môi trường và văn hóa, hay tự nhiên và xã hội đều là một tổng thể toàn vẹn, thống nhất, ở đó tập đại thành môi trường sống khác nhau của các xã hội loài người, trải qua các thời kỳ phát triển văn minh ở các vùng đất khác nhau.

Tuy nhiên, các quan niệm phổ biến gần đây vẫn phân biệt môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, thực chất là tách rời không gian và thời gian, từ đó đề cao môi trường văn hóa như là cái riêng có của xã hội loài người. Môi trường được hiểu giản đơn là thế giới tự nhiên tác động một chiều từ bên ngoài vào, trên phạm vi một lãnh thổ, kể cả phương diện toàn cầu; còn môi trường văn hóa bị khu biệt trong các quan hệ ứng xử giữa người và người, không hiếm khi lẫn lộn giữa các giá trị truyền thống và đương đại, trong đời sống xã hội của một quốc gia, dân tộc.

Sự tách biệt này vô hình trung làm cho môi trường bị cô lập, đứng bên ngoài các cuộc vận động phát triển xã hội, trở thành đối tượng chinh phục, khai thác hoặc tàn phá vô tội vạ. Trong khi đó, văn hóa bị tách khỏi môi trường tự nhiên dù hào nhoáng đến đâu vẫn chỉ là vật trang sức tầm thường, ít giá trị vì chỉ là tấm gương phản ánh đơn thuần các hoạt động của đời sống xã hội qua các thời đại, bị nhạt nhòa bản sắc do không kết hợp hai yếu tố không gian và thời gian, hoặc bị thu hẹp lẩn quẫn trong các giá trị “tinh thần” ngày càng xuống cấp theo thời gian vì thiếu hơi thở của cuộc sống.

Cũng như văn hóa, thuật ngữ môi trường xuất hiện khá muộn, kể từ cột mốc đầu thế kỷ XX, được nhắc đến ngày càng thúc bách và cũng giống như thuật ngữ văn hóa, đã sớm trở thành một khái niệm mang ý nghĩa trừu tượng hóa. Theo nghĩa hẹp, văn hóa bắt nguồn từ năng lực bên trong (nội sinh) của con người tác động vào tự nhiên (trồng trọt), trong khi môi trường ngược lại chính là toàn bộ các tác nhân từ bên ngoài (đất, nước, không khí...) ảnh hưởng đến đời sống của con người trong quá trình hình thành và phát triển, trước khi có các hiện tượng giao lưu văn hóa (ngoại sinh).

Qua thực tế cho thấy, không hẳn nhờ lao động cũng không phải do năng lực nhận thức, mà chính nhờ sự kết hợp hài hòa hai nhân tố bên ngoài và bên trong này mới chính là tác nhân và động lực chủ yếu giúp con người phát triển nhận thức, xây dựng lối sống phù hợp với môi trường, hình thành các không gian văn hóa tộc người, bản sắc dân tộc độc đáo phân biệt với các cộng đồng xung quanh.

Trong khi đó, theo nghĩa rộng, môi trường và văn hóa đều không bất biến, cố hữu, riêng có của một đối tượng cụ thể nào, mà luôn vận động, tạo nên sự tương tác giữa môi trường với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của con người trong đời sống xã hội, hình thành các giá trị tinh thần và vật chất. Con người vừa là tác nhân đồng thời là hệ quả, chịu tác động cùng lúc của môi trường và văn hóa. Nếu các giá trị văn hóa biến đổi chủ yếu theo thời gian, không thể so sánh vì gắn với các môi trường đời sống khác nhau, thì các điều kiện địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình của môi trường cũng thay đổi theo phạm vi không gian, do tác động của con người, tạo nên các đặc trưng của bản sắc văn hóa, sự phát triển đa dạng, không đồng nhất giữa các vùng miền.

Ở các nước phương Tây, quá trình đô thị hóa đi vào chiều sâu kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại nhiều kinh nghiệm về xây dựng môi trường sống ở đô thị. Môi trường đô thị ngoài không gian xanh – sạch – đẹp, bảo đảm các điều kiện vệ sinh cho con người cư trú, còn phải kết hợp các tiêu chí lành mạnh, sinh thái và bền vững. Các công trình văn hóa đô thị được phục dựng, bảo tồn hoặc làm mới, không chỉ đảm bảo chất lượng sống cho người đời nay hưởng dụng, mà còn tính chuyện để dành cho con cháu đời sau. Đô thị, nhờ đó, đã có những biến đổi, cải thiện đáng kể so với các thời kỳ trước đó, trở thành môi trường sống nhân văn của các xã hội hiện đại.

Đô thị hóa ngoài các vấn đề phát triển kinh tế, xã hội và tổ chức các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân, còn là quá trình xây dựng môi trường sống, môi trường văn hóa đô thị, nhằm biến đổi, thích nghi với các điều kiện địa lý tự nhiên (site → situation) của vùng miền hoặc lãnh thổ.

Phần I. Các vấn đề lý thuyết về môi trường văn hóa đô thị                                

Năm 1912, Vidal de La Blache được coi là người đầu tiên đề cập đến môi trường (environnement). Ông quan niệm môi trường đồng nghĩa với môi sinh (milieu)[1]. Nửa thế kỷ sau, qua công trình A Glossary of Geographical Terms (1961) của D. Stamp, một trong những nhà sáng lập địa lý học ở Anh, từ môi trường mới mang ý nghĩa tổng thể hơn. Stamp định nghĩa môi trường là “toàn thể các yếu tố ảnh hưởng đến tiến trình cùng với các hoạt động của đời sống, và ở hình thái cực đại có thể dẫn đến quyết định luận về môi trường”[2].

Đô thị được coi là “phản tự nhiên”, vì đó là công trình do con người xây dựng, là một sản phẩm văn hóa, thành quả nhân tạo[3]. Đô thị công nghiệp và hậu công nghiệp có xu hướng dựa vào phát triển kỹ thuật để xóa bỏ tự nhiên. Tuy nhiên, các nền văn minh đô thị trước đây không phân biệt tự nhiên và văn hóa. Tự nhiên bao nhiêu thì văn hóa bấy nhiêu[4]. Người Hy Lạp cổ đại gọi tự nhiên là phusis, người La Mã về sau gọi là natura (N. Loraux, 1996). Thành thị trung đại mang vào trong vòng thành vườn tược và gia súc; thành thị cận hiện đại có các mô hình “đô thị-vườn”, đô thị “không tưởng”...

Ở đô thị, tự nhiên vừa cần thiết cho con người, vừa dùng để vận hành hệ sinh thái. Muốn duy trì sự cân bằng sinh thái và bảo tồn tài nguyên (nước, không khí, đất đai), vấn đề cấp bách cần tính đến là cách thức tiến hành đô thị hóa và cải thiện chất lượng sinh thái đô thị nhằm hướng đến một đô thị bền vững cho mọi người[5].

1.1. Môi trường tự nhiên và nhân tạo

Cho đến những năm 1970, ở phương Tây vẫn quan niệm môi trường là thế giới tự nhiên gồm các loài động vật, thực vật và “tương đương” về mặt sinh học, cùng với các tài nguyên tự nhiên như nước, không khí, đất đai, hầm mỏ, cũng như phong cảnh và cảnh quan.

Đến năm 1973, một năm sau Hội nghị môi trường ở Stockholm, Cộng đồng châu Âu đã đưa ra định nghĩa đồng nhất môi trường tự nhiên và nhân tạo, coi môi trường là “tập hợp các yếu tố trong các mối quan hệ phức hợp tạo nên khung cảnh (cadre), môi sinh (milieu) và các điều kiện sống cho con người”[6]. Ở Pháp, Hiến chương môi trường mới ra đời năm 2004 có điều khoản tuyên bố về quyền và nghĩa vụ của con người. Điều 1: “Mỗi người đều có quyền sống trong một môi trường cân bằng và tôn trọng sức khỏe”[7].

Tuy nhiên, R. Granier và J.P. Giran (1984) quan niệm: tăng trưởng kinh tế nhanh ở các nước đang phát triển khuyến khích “các hoạt động làm tổn hại môi trường do ô nhiễm, làm mất cân bằng sinh thái và làm cạn kiệt nhanh tài nguyên tự nhiên không tái tạo được”[8]. Còn theo A. Berque (2000), tự nhiên là một bộ phận tổ chức không gian-xã hội, được coi là thành phần chủ yếu của văn hóa đô thị. Ông quan niệm tự nhiên và thành thị không phải tự mình hiện hữu mà được cấu thành, đó là “tính tự nhiên của thành thị và tính đô thị của tự nhiên[...], trong quan hệ đối lập và cần thiết bổ sung cho nhau”[9].

Không gian đô thị phát triển theo cấp số nhân. Hoạt động của con người đã làm biến đổi không gian tự nhiên thành không gian nhân tạo, tạo nên khung cảnh sống (cadre de vie), với các công trình kiến trúc xây dựng hạ tầng về nhà ở, công trình công cộng, giao thông, viễn thông... bên cạnh các hoạt động thương mại, dịch vụ và phát triển kinh tế ở đô thị. Quá trình nhân tạo hóa trên phạm vi một lãnh thổ là đặc trưng chủ yếu của quá trình đô thị hóa, tiến đến nền văn minh dịch vụ, dựa trên các tiến bộ to lớn không chỉ về tiện nghi vật chất mà còn về nhận thức và các kỹ năng sống.

Nguy cơ làm biến đổi khí hậu được xác định không phải do tác nhân từ bên ngoài, mà do hệ quả hoạt động của con người từ bên trong, cho nên điều tất yếu là con người phải tìm cách khắc phục. Nhiều nỗ lực nhằm hạn chế ô nhiễm và chất gây hại (đặc biệt là tiếng ồn), giảm phí phạm năng lượng, cải tiến xử lý chất thải, v.v. Tuy nhiên, những cố gắng này không ít khi vẫn còn khá mập mờ, bị đóng khung trong quan niệm hoặc phong trào bảo vệ môi trường (environnementalisme).

Sự hiểu biết về đất đai, các tầng đất và quần hệ thực vật đã góp phần định nghĩa môi trường tự nhiên, các phương diện định vị không gian và phát triển của đô thị. Ngành Địa lý học đô thị đưa ra một cặp đôi nổi tiếng của thành thị là site – situation (tạm dịch là địa thế và địa lợi).

Site là vị trí ban đầu của thành thị so với các yếu tố tự nhiên tại địa phương. Chẳng hạn, địa thế mang tính phòng thủ trên một mô đất cao (thành Athènes), hòn đảo (Paris); địa thế cảng biển có vịnh (New York, Osaka) hoặc phá (Lagos) bảo vệ. Nhiều thành thị ở cạnh dòng sông, trong đó sông đóng vai trò là vật cản, biên giới, hoặc có nơi trở thành biên giới chính trị; bên cạnh các thành thị nằm dọc hai bên sông như Beaucaire và Tarascon (Rhône). Các bình nguyên cũng là nơi thuận lợi để xây dựng thành thị như Rotterdam, Leningrad. Khi thành thị đông đúc lên, các địa thế đặt ra vấn đề quy hoạch và quản lý đô thị. Chẳng hạn, trường hợp Mexico với vấn đề nguồn nước và không khí ô nhiễm; Douala với vấn đề vệ sinh sạch sẽ và giải quyết các hậu quả vệ sinh. Cho nên, nếu chỉ có địa thế thì khó định vị lịch sử các thành thị mà cần kết hợp địa thế với địa lợi.

Situation là địa lợi của thành thị so với phạm vi vùng miền, quốc gia, kể cả quốc tế. Thông số chủ yếu là dễ dàng thông thương, cho nên hầu hết các thành phố lớn trên thế giới đều nằm ở vị trí ven biển hoặc ven sông để dễ dàng trao đổi, hoặc ở ngã tư có nhiều đường giao thông đường thủy, đường bộ (Paris) hoặc vị trí cảng biển có cửa sông (Londres) [E. Dorier-Apprill, 2001].

Tóm lại, môi trường là khái niệm mang ý nghĩa còn tương đối, vì giới hạn vật lý giữa một cá thể với môi trường “bao quanh nó” rất khó xác định, và nhất là giữa chúng còn bao hàm mối quan hệ tương tác hữu cơ. Cho nên, ranh giới giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo cũng không thực sự rõ ràng, song quan hệ tương tác giữa chúng với nhau ngày càng gắn bó, nhờ đó để lộ ra vai trò tác nhân của con người trong quá trình hoạt động tạo nên các môi trường nhân văn thích ứng, trong đó có môi trường đô thị.

1.2. Đô thị và môi trường đô thị

Trong tiếng Đức, thành thị được gọi là Urstadt. Từ căn ur vốn là tên gọi của một đô thị cổ ở vùng Lưỡng Hà. Người ta phân biệt đô thị hóa về lượng gọi là Verstädterung khác với đô thị hóa về chất là Urbanisierung (Fassmann, 2004).

Từ các thành thị cổ của người Sumérie ở vùng Lưỡng Hà, người Assyrie và Babylon đến thành thị hiện đại; từ các “polis” của Hy Lạp đến “mégapolis” ngày nay đều có các quan hệ biện chứng. Đó là quan hệ giữa chức năng đô thị và môi trường đô thị; giữa đô thị là vật được chứa (contenu) và môi trường đô thị là vật chứa (contenants); rồi giữa triều đình và vườn tược; giữa giới giàu có và những người bị loại trừ; giữa năng lực sản xuất và đạo đức (Helbrecht, 2001) đã liên tiếp xảy ra (Delfante, 1999)[10].

Pierre George (1974), trong công trình “Thành thị và các điều kiện tự nhiên” cho rằng: việc mô tả các điều kiện hoặc môi trường tự nhiên có vị trí quan trọng khi nghiên cứu đô thị. Môi trường tự nhiên thường được đặt trong mối quan hệ để tìm lời giải cho sự phát triển và lựa chọn các hoạt động.

Đô thị ngay từ khi xuất hiện đã làm biến đổi môi trường tự nhiên và không ngừng tạo ra môi trường phù hợp với nó qua từng thời kỳ. Thời kỳ đầu, cảnh quan đô thị còn ít khác biệt so với làng mạc, thị trấn; nhưng càng về sau sự cách biệt càng lớn do chức năng đô thị được mở rộng và các yêu cầu về trang bị, quy hoạch ngày càng nhiều và phức tạp. Ngoài ra, vị trí địa hình của thành thị còn đặt ra mối quan hệ giữa đô thị với đất đai và vùng lãnh thổ; giữa đô thị và vùng miền; giữa cảnh quan đô thị và cảnh quan nông thôn ở xung quanh. Khoảng cách giữa các thành thị làm phát sinh nhu cầu tiêu hao năng lượng. Để rút ngắn khoảng cách, việc mở rộng hệ thống đường bộ đắt gấp 8 lần so với đường sắt và đòi hỏi tiêu thụ nhiều không gian.

Từ thế kỷ XVII, vấn đề môi trường đô thị lần đầu tiên được ngành địa lý học phân tích. Đến những thế kỷ sau, sự quan tâm tìm hiểu nếp sống và quản lý di sản môi trường phong phú ở đô thị là đối tượng cho nhiều quyết định và hoạt động cụ thể.

Ở thế kỷ XVIII, David Hume cho rằng không bao giờ có đô thị nào vượt quá 700 nghìn dân; đến cuối thế kỷ XIX, Jules Verne hình dung đến năm 2889 mới có các đô thị vượt quá 10 triệu dân. Song đến nay đã có khoảng 15 đô thị trên 10 triệu dân. Do vậy, cần gấp rút xây dựng các chiến lược quản lý không gian đô thị, xây dựng môi trường đô thị nhằm tạo nên sự cân bằng giữa quy hoạch, nông nghiệp, vận chuyển và đa dạng sinh học.

Dân số các đô thị lớn trên thế giới

ĐVT: triệu dân

STT

Các đô thị lớn

Nước

Năm 1995

Năm 2015 (dự kiến)

1

Tokyo

Nhật Bản

26,8

28,7

2

Sao Paulo

Braxin

16,4

27,4

3

New York

Mỹ

16,3

24,4

4

Mexico

Mêhicô

15,6

23,4

5

Bombay

Ấn Độ

15,1

21,2

6

Shangai

Trung Quốc

15,1

20,8

7

Los Angeles

Mỹ

12,4

20,6

8

Bắc Kinh

Trung Quốc

12,4

19,4

9

Calcutta

Ấn Độ

11,7

19

10

Séoul

Nam Triều Tiên

11,6

18,8

(Nguồn: ONU 1996)[11]

François-Xavier Roussel (1995) phân biệt hiện tượng đô thị ở Tây Âu qua các thời kỳ sau:

- Trước 1970: đô thị hóa giản đơn, thuần nhất và mở rộng hàng loạt ra các vùng ngoại vi để tránh khủng hoảng về lượng;

- Đầu thập niên 1970: khủng hoảng về chất do các nguyên nhân mâu thuẫn nhau giữa mỹ quan và văn hóa, xã hội đô thị, kinh tế (nghiên cứu quản lý kinh tế) và sinh thái.

Ông cho rằng thành thị (hoặc đô thị lớn) có nhiều tốc độ, trong đó sự tách biệt “định lượng” và cách biệt xã hội ngày càng lớn, nếu để kéo dài sẽ không thể chịu đựng được. Theo ông, di sản mang tính chất không đều và khác biệt qua nhiều thế kỷ do tổ chức cấu trúc và không gian xã hội, môi trường cảnh quan và xã hội dựa trên những phát minh, phát kiến, kỹ thuật và phương pháp lao động phản ánh năng lực tập thể và cá nhân của các cộng đồng liên quan.

Theo Heineberg (2001), việc tiếp cận lý thuyết quan hệ giữa đô thị hóa và môi trường đã chỉ ra sự quan tâm về tấm thảm xanh (grüne wiese) quý giá, vốn là cảnh quan thường gọi là “tự nhiên”, đã góp phần đặt lại các vấn đề đô thị hiện đại.

Quan hệ giữa đô thị và không gian đô thị, khác với môi trường vật chất và kinh tế-xã hội, biểu hiện sự tiến hóa của giới thị dân, vị trí và vai trò của thị dân trong xã hội, về biểu trưng và những đột biến mạnh mẽ của nó hiện nay, kể từ khi công nghiệp hóa cho đến kỷ nguyên khu vực kinh tế thứ ba, các động lực mới trong khuôn khổ toàn cầu hóa; nhưng đồng thời cũng xuất hiện sự phá vỡ sâu sắc về cảnh quan và sinh thái, cũng như tạo ra sự phân tầng văn hóa - xã hội rộng lớn[12].

Gérard-François Dumont cho rằng vấn đề môi trường đô thị trước tiên là vấn đề dân số[13]. Ông định nghĩa, môi trường là một tập hợp mang tính tương tác giữa một bên là môi sinh (milieux) và tài nguyên tự nhiên (không khí, nước, đất đai, hệ động vật, hệ thực vật, v.v.), còn bên kia là con người với các tổ chức xã hội và không gian ở các cấp độ khác nhau[14]. Từ đó, ông đặt ra vấn đề quan hệ tương tác giữa dân số đô thị trong quá trình đô thị hóa và môi trường sống đô thị, làm thế nào để việc tập trung dân số trên một lãnh thổ nhỏ hẹp không làm hại đến môi trường sống của con người.

Trong thập niên 1980, việc tiếp cận từ môi trường đô thị là sự biến cách đầu tiên một vấn đề mang tính hệ thống được lãnh thổ (vùng) hóa, nhấn mạnh tăng trưởng đô thị và phát triển cần quan tâm đến môi trường[15]. Sự quan tâm của quốc tế về môi trường đô thị đã nêu lên thực trạng và nhu cầu của các khu vực bị Nhà nước bỏ rơi khi quản lý đô thị.

Trong thời kỳ đầu của thập niên 1980, sau các kế hoạch điều chỉnh cấu trúc - đặc biệt ở các nước đang phát triển, nơi Nhà nước áp dụng theo các quy định của thiết chế thế giới - khái niệm môi trường đô thị trở thành bệ đỡ vận hành các biến thái phát triển mới mà trước đây hiếm khi đạt được các mục tiêu được quy định cho các dịch vụ công đô thị.

Một số chức năng Nhà nước về quản lý đô thị (đường sá, phân phối điện nước, vận tải đô thị) lùi lại, đã làm xuất hiện các tác nhân mới của xã hội dân sự: “từ... một không gian địa phương “thụ động”, phụ thuộc vào ý chí quyết định của các trung tâm từ bên ngoài, đến một không gian địa phương được nhận thức là có thể sản sinh ra động lực phát triển bằng cách lấy từ khả năng sáng kiến và tổ chức của mình” [Bernard Husson, 2001]. Các tác nhân mới, hiệp hội xuất hiện dưới sự thúc đẩy của các định chế quốc tế gồm các tổ chức phi chính phủ và các nhóm lợi ích kinh tế trong các lĩnh vực: thu gom rác, dọn dẹp vệ sinh, các máy quay nước và các nhà vệ sinh có thu phí.

Sau cùng, khái niệm môi trường đô thị trong các chiến lược tiếp cận phát triển địa phương đã xác định lại các lãnh thổ mới trong phạm vi quốc gia. Điều này đặt ra các vấn đề về quản lý lãnh thổ, năng lực thiết chế và phát triển kinh tế, cũng như về sự phân bổ hợp lý để làm giảm bớt sự khác biệt giữa giàu có và nhu cầu, giữ gìn sự liên kết của lãnh thổ quốc gia[16].

1.3. Về sự ra đời quan niệm phát triển bền vững

Kể từ cuối thế kỷ XX, xuất phát từ giả định xã hội loài người phát triển theo quy luật, con người đối lập môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế theo kiểu “đấu tranh sinh tồn”, dẫn đến hệ quả khai thác cạn kiệt tài nguyên và hủy diệt môi trường sinh thái. Tuy nhiên, loài người đã sớm nhận ra môi trường tự nhiên là nguồn tài nguyên không thể, khó, chậm hoặc phải trả giá đắt nếu muốn tái tạo lại. Môi trường bị tác động mạnh do phát triển và ô nhiễm là nguồn gốc ra đời quan niệm phát triển bền vững.

Nhiều tổ chức chính trị, đoàn thể, hiệp hội đã lên tiếng cảnh báo môi trường tự nhiên bị tổn thương sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sống của môi trường xã hội. Họ kêu gọi con người thân thiện trở lại với môi trường tự nhiên. Môi trường trở thành một trong những mối quan ngại lớn bên cạnh thất nghiệp và mất an ninh. Hội nghị Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển ngày 3-11/6/1992 tại Rio de Janeiro đã chính thức công nhận môi trường là một trong ba nhân tố của vấn đề phát triển bền vững, bên cạnh các yếu tố kinh tế và phạm vi xã hội.

Năm 1972, sau ba thập niên tăng trưởng kinh tế đều đặn ở các nước phát triển, điều tra của Câu lạc bộ Roma đã khuyến cáo hành tinh cần hạn chế tăng trưởng dân số và chọn lựa tăng trưởng kinh tế đứng im. Báo cáo của Dennis Meadows xuất bản dưới nhan đề: “Ngừng tăng trưởng?” [Meadows et alii, Massachusetts Institute of Technology, 1972] đã phê phán 5 vấn đề: bùng nổ dân số, sản xuất lương thực, công nghiệp hóa, cạn kiệt tài nguyên tự nhiên và ô nhiễm[17].

Do mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển con người và bảo vệ môi trường, học thuyết phát triển sinh thái xác định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cần thích ứng với sự công bằng và tôn trọng môi trường. Học thuyết này xuất hiện đầu tiên ở Pháp qua công trình của Ignacy Sachs: “L’écodéveloppement. Stratégies de transition vers le XXIè siècle” (Syros alternatives économiques, 1993). Tuy nhiên, thuật ngữ phát triển sinh thái không tồn tại lâu, do Ngoại trưởng Mỹ H. Kissinger không tán đồng trong Hội nghị Cocoyoc (Mexique, 1974). Thay vào đó là khái niệm anglo-saxon về phát triển bền vững (sustainable development), với quan điểm cho rằng có thể đồng tiến hóa (co-évolution) giữa tăng trưởng, công bằng và quản lý môi trường.

Thuật ngữ phát triển bền vững xuất hiện còn khá ngập ngừng lần đầu tiên vào năm 1972 tại hội nghị Stockholm về môi trường, nhưng đã thấy sử dụng trong một văn kiện của Liên hợp quốc[18]. Đến năm 1987, trong báo cáo về Chương trình của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển, do bà thủ tướng Na Uy Gro Harlem Bruntland soạn thảo theo yêu cầu của Liên hợp quốc, đã đưa ra định nghĩa: “Phát triển bền vững (sustainabelity development) nhằm đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện  tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ”[19]. Qua đó, ý tưởng “đô thị xanh” của những năm 1970 (mô hình đầu tiên của “đô thị bền vững”) cũng đã chuyển biến thành đô thị tiêu thụ ít năng lượng và không gian.

Quan niệm “bền vững” có bề dày của chiến lược tăng trưởng mới khi tiếp cận phát triển dựa trên ba nguyên tắc: xã hội, kinh tế và môi trường. Quan niệm phát triển này được “toàn cầu hóa” với chủ trương: “suy nghĩ toàn cầu, hành động theo địa phương” (penser globalement en agissant localement), kể cả không còn mang tính khu vực nữa. Quan niệm này cũng tính đến hoàn cảnh và khác biệt trên thế giới: phát triển bền vững bao gồm tình hình các nước phía Nam tìm kiếm sự tương thích trong việc giữ gìn sinh thái của hành tinh và các tài nguyên, và cho thấy ý chí đấu tranh chống lại nghèo đói trên phạm vi thế giới.

Đến năm 1991, Hiệp hội bảo tồn quốc tế về thiên nhiên thuộc Chương trình Liên hợp quốc về môi trường và Quỹ thế giới về thiên nhiên đã bổ sung định nghĩa cụ thể hơn: “Phát triển bền vững có nghĩa là vừa cải thiện chất lượng sống vừa tôn trọng khả năng chịu đựng hiện có của các hệ thống sinh thái”.

Các nguyên tắc chung về tính bền vững thực sự được thừa nhận và thông qua trong hiến chương tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về môi trường và phát triển họp tại Rio de Janeiro năm 1992. Với tư cách là khẩu hiệu biểu trưng về chính sách quốc tế, khái niệm môi trường đô thị được xếp phía sau để hỗ trợ quan niệm phát triển bền vững; và ở phạm vi hẹp hơn, trong thập niên 1990, là khái niệm đô thị bền vững và môi trường đô thị. Khái niệm phát triển bền vững chỉ được phổ biến và tiến hành ứng dụng ở thành thị từng bước cho đến đầu những năm 2000.

Như vậy, Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (3-14/6/1992), với sự tham gia của phái đoàn 172 nước, tập hợp các nhà lãnh đạo quan trọng nhất thế giới, vấn đề môi trường trở thành một trong ba bộ phần, bên cạnh kinh tế và xã hội, của phát triển bền vững. Bên cạnh đó, nhiều văn kiện chủ yếu khác cũng được thông qua tại Hội nghị như:

- Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển đặt ra 27 nguyên tắc, trong đó nhấn mạnh các bên đối tác mới phải cam kết bảo đảm tiếp cận một cách cân bằng và hòa nhập các vấn đề môi trường và phát triển. Hai thỏa thuận được đề xuất có tính bắt buộc đối với các bên ký kết là: thỏa thuận khung về các biến đổi khí hậu[20] và thỏa thuận về đa dạng sinh học, đề ra các nguyên tắc cho một thỏa thuận thế giới mà không đòi buộc về mặt pháp lý về quản lý, bảo tồn và khai thác các loại rừng bảo đảm về mặt sinh thái để có thể sống được.

- Agenda 21, bản kế hoạch chi tiết gồm 40 chương mà các nước ký kết đều cam kết tuân thủ và tôn trọng, được coi là phương diện có liên quan trực tiếp nhất đến các thành thị. Thực ra, các nước ký kết Agenda 21 cam kết là các chính quyền địa phương ở các nước sẽ thông qua Agenda 21 của địa phương. Điều 28.2: “Các mục tiêu được đề xuất cho lĩnh vực hoạt động này như sau: a) Từ đây đến năm 1996, phần lớn chính quyền địa phương ở tất cả các nước phải thành lập cơ chế tham khảo người dân và đạt đến thỏa thuận về Chương trình hành động 21 ở cấp độ tập thể; [...].

Các tổ chức quốc tế lớn đưa ra các công tác và các động lực làm chỗ dựa cho các chính quyền địa phương, để thành thị đảm nhận các cam kết theo thông báo của các nước thành viên tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất: OCDE đưa ra chương trình “Thành thị sinh thái”; Hội đồng Âu châu thành lập nhóm các chuyên gia châu Âu; Liên hợp quốc thông báo thời gian họp Hội nghị thượng đỉnh về nơi ở và nhà ở của loài người năm 1996 (Habitat II).

Trong khi đó, các thành thị đã tập hợp lại với nhau và hình thành các hiệp hội. Năm 1990, hiệp hội đầu tiên của các chính quyền địa phương về “tính bền vững” ra đời (The World Congress of Local Governments for a sustainable future) với mục tiêu cung cấp thông tin, dịch vụ, chia sẻ kinh nghiệm về phát triển bền vững. Hội đồng quốc tế các sáng kiến về môi trường ở địa phương (ICLEI - International Council for Local Environmental Initiatives) thành lập năm 1990, gồm trên 470 thành thị, vùng đô thị và các chính quyền địa phương gia nhập.

Năm 1994, tại Đan Mạch, Hiến chương Aalborg của các thành thị châu Âu về bền vững được đại diện của 80 thành thị châu Âu thông qua. Khái niệm đô thị bền vững trở nên rõ ràng hơn: “Chúng tôi, các thành thị, hiểu rằng quan niệm phát triển bền vững sẽ dẫn chúng tôi đến việc xây dựng một xã hội công bằng, các nền kinh tế bền vững và môi trường có thể sống được. Công bằng xã hội cần dựa trên một nền kinh tế bền vững, vào sự minh bạch và đến lượt nó dựa trên một môi trường có thể sống được. Môi trường bền vững đồng nghĩa với việc giữ gìn nguồn vốn tự nhiên. Nó đòi hỏi chúng tôi không tiêu thụ các tài nguyên có thể tái tạo được, đặc biệt là năng lượng và nước, nhanh hơn tự nhiên có thể thay thế chúng, và rằng chúng tôi không khai thác các tài nguyên không tái tạo được nhanh hơn các tài nguyên tái tạo bền vững có thể thay thế. Môi trường bền vững cũng có nghĩa là ô nhiễm không được vượt quá khả năng của không khí, nước và đất đai có thể hấp thu và xử lý”[21].

Hội nghị Habitat II của Liên hợp quốc về nhà ở nhân loại tháng 6-1996 tại Istanbul chủ yếu dành cho các thành thị và cách thức mà các thành thị sẽ hội nhập phần đa số tăng lên của dân số thế giới trong thế kỷ XXI. Mục tiêu chính giống với mục tiêu mà tất cả các hội nghị quốc tế đều chia sẻ: làm cho nhà ở của loài người, dù ở kích cỡ nào đều lành mạnh, chắc chắn, minh bạch và bền vững[22].

Hội nghị cũng xác định vai trò của các chính quyền và các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ trong việc quản lý ở địa phương mang tầm quốc tế, coi đó là thiết chế cần có để phát triển đô thị bền vững, không chỉ trên lĩnh vực môi trường mà cả về giáo dục, y tế và đào tạo. Tuy nhiên, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, ở các nước có chế độ hạn chế về ngân sách, nhất là ở Tây Phi và châu Mỹ Latin, rõ ràng các tổ chức phi chính phủ ngày càng thay thế Nhà nước xem xét các phương tiện hoạt động; trong khi ở các nước có Nhà nước tập trung mạnh như Bắc Phi, Việt Nam, Trung Quốc... thì các tổ chức phi chính phủ thâm nhập chậm hơn[23].

Tiếp sau đó, việc thành lập Liên minh các thành thị năm 1999 của Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Liên hợp quốc về nhà ở nhân loại (Habitat), Hội nghị thế giới Urban 21 năm 2000 tại Berlin và Hội nghị New York năm 2001 đã phản ánh sự tiến triển các chính sách quốc tế về đô thị. Trước viễn cảnh này, năm 2005, OCDE chọn Ngày quốc tế về Môi trường (5-6) với chủ đề “Đô thị xanh”, để con người “nhận biết đô thị”, không gian xây dựng và cảnh quan đô thị dưới góc độ môi trường.

Môi trường cảnh quan và xã hội ở các đô thị đáp ứng lôgic hội tụ, phân tán, đôi khi khó được nhìn thấy. Nó được định hướng mới để chuyển biến phù hợp với sự thay đổi phạm vi các hoạt động kinh tế và quy hoạch lãnh thổ; để phát triển xã hội, mở rộng và tăng cường các phạm vi văn hóa; đưa vào hệ thống đô thị các hệ thống vận chuyển đô thị, sự giao nhau của các phạm vi không gian và thời gian[24].

Ngày nay, trong bối cảnh một quốc gia có các yêu cầu về xã hội và văn hóa, làm thế nào kết hợp được với các liều lượng điều tiết hiệu quả giữa thị trường, Nhà nước, các định chế quốc tế và quyền công dân?

Đầu tiên, đó là vấn đề đặt ra các chỉ báo về phát triển bền vững, ở nhiều phạm vi khác nhau. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đưa ra 4 chủ đề với nhiều chỉ báo khác nhau gồm: 19 chỉ báo xã hội, 19 chỉ báo môi trường, 14 chỉ báo kinh tế và 6 chỉ báo thiết chế. Trong khi Bộ sinh thái và phát triển bền vững của Pháp lại chọn ra 45 chỉ báo từ 12 chủ đề (2004). Đó là các chỉ báo tổng hợp; cải thiện tiềm năng tăng trưởng; công bằng trong cùng thế hệ và chất lượng quản lý di sản; đổi mới và nghiên cứu; phương thức hòa nhập trong toàn cầu hóa; thay đổi khí hậu; tài nguyên môi trường; các phương thức sản xuất và tiêu dùng; sức khỏe – môi trường; liên kết xã hội; phương thức sinh hoạt và vệ sinh; đánh giá tài nguyên nhân văn.

Một cách tiếp cận khác là bỏ hoàn toàn quy chiếu PIB (GDP), coi trọng hơn ý tưởng tác động và tương hợp giữa phương thức tăng trưởng và tiềm năng tài nguyên có hạn của hành tinh. Chính Dấu ấn sinh thái[25] tạo nên chỉ báo phát triển bền vững lãnh thổ.

Thứ đến, vấn đề trung tâm là quan hệ giữa tăng triển kinh tế, phát triển nhân văn và môi trường. Liệu các vấn đề trên có thể tương hợp, và nếu có thì trong các điều kiện nào? Làm thế nào bảo đảm cho các nước phía Nam tăng trưởng mạnh mà bền vững? Làm thế nào gieo được, bằng cách thức có ý nghĩa, mục tiêu có tính bền vững trong các nền kinh tế mới nổi? Có nên dự kiến các phương thức, nhịp độ và nội dung tăng trưởng khác nhau một cách rõ rệt tùy theo vùng lãnh thổ được xem xét?[26]

Tóm lại, xây dựng môi trường văn hóa thuộc ngành sinh thái nhân văn (M. Lamy, 2001) hoặc môn học văn hóa đô thị, nhằm tìm hiểu sự tương tác nhiều mặt giữa con người và môi trường trong quá trình đô thị hóa. Đó là môi trường đô thị có tính nhân văn và phát triển bền vững, kết hợp bốn tiêu chí: xanh, lành mạnh, bền vững và sinh thái.

- Đô thị xanh (verte) nhằm bảo tồn tài nguyên, giảm chất thải và chất gây hại; bảo đảm công bằng xã hội, để công dân quyền được tham gia quyết định; bảo vệ sức khỏe và sức sống văn hóa (Roelofs, 1996).

- Đô thị lành mạnh (en santé) cả về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đó là sự phát triển các nguồn tài nguyên thuộc về cộng đồng để họ trợ giúp nhau thực hiện các chức năng đời sống và phát triển tối đa tiềm năng của họ (theo Hancock và Duhl, 1986). Đô thị lành mạnh, theo định nghĩa mới của Tổ chức y tế thế giới, không chỉ giảm bớt bệnh tật, mà phải đạt đến tình trạng hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội.

- Đô thị bền vững (durable) được quan niệm bằng nhiều cách khác nhau. Đó là nơi mà công lý, thực phẩm, chỗ ở, giáo dục, y tế và hy vọng được phân phối minh bạch, trong đó mọi người đều được quyền tham gia điều hành (Rogers, 1998). Đô thị bền vững khuyến khích mọi sinh hoạt công cộng hòa hợp với tự nhiên (Nozick, 1992); văn hóa và các đặc trưng văn hóa của mỗi cộng đồng đều được biểu thị và phát huy; kinh tế đủ trang trải và thỏa mãn các nhu cầu… Phát triển bền vững liên kết ba trục: công bằng xã hội, phát triển kinh tế và gìn giữ môi trường.

- Đô thị sinh thái (écologique) được bảo đảm theo ba nguyên tắc: đời sống, thẩm mỹ và minh bạch (Register, 1985). Môi trường đô thị có đời sống lành mạnh bảo đảm nguồn lực đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân và cộng đồng; nguyên tắc thẩm mỹ chủ yếu biểu hiện ở các công trình xây dựng và đường sá giao thông; tính công bằng, minh bạch nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người đều có cơ hội lựa chọn, sáng tạo và được sống trọn vẹn theo khả năng của mình.

 (Còn tiếp)

Nguồn: Tác giả



 Chú thích:



[1] Le Robert, Dictionnaire de l’histoire de la langue française, 1921, trích theo Gérard-François Dumont, Ville, population et environnement, tr.116.

[2] Gérard-François Dumont, ibid. tr.117.

[3] Yvette Veyret, Ville et “nature” dans le monde occidental, trong Ville et Environnement do Elisabeth Dorier-Apprill chủ biên, tr. 61-81.

[4] Nguyên văn: “Il y a autant de natures que de cultures”.

[5] Gérard-François Dumont, ibid. tr. 229.

[6] Documentation Européenne, La communauté européenne et l’environnement, Luxembourg, 1987, tr.14.

[7] Gérard-François Dumont, ibid. tr.180.

[8] R. Granier và J.P. Giran, ibid. tr.349.

[9] Yvette Veyret, ibid. tr.62.

[10] Gabriel Wackermann (chủ biên), Ville et Environnement, Carrefours – Les Dossiers, Éd. Ellipses, 2005, tr.12.

[11] Trích theo Poche Jean-Michel Billioud, Vivre en ville, Castor Flammarion, 2000.

[12] Gabriel Wackermann (chủ biên), ibid. tr.10-15.

[13] Gérard-François Dumont, ibid. tr.179-203. Theo đó, John Graunt (1662) là người đầu tiên đề cập vấn đề tập trung dân số ở môi trường đô thị với công trình “Observations naturelles et politiques répertoriées dans l’index ci-après et faites sur les bulletins de mortalité”, Londres. Trong công trình này, tác giả chưa sử dụng từ môi trường mà gọi là “trong quan hệ với... bầu khí quyển”. Hàng năm khoảng 36% người dân chết trước 6 tuổi, cao hơn so với ở nông thôn, mà một trong những nguyên nhân là không khí ở thành thị không trong lành bên cạnh bệnh dịch hạch (tr.181).

[14] Gérard-François Dumont, ibid. tr.179.

[15] Hội nghị Habitat I (1976) tại Vancouver của Liên hợp quốc thu hút sự chú ý của quốc tế về các loại nhà ở cho con người, ở nông thôn và thành thị; đến năm 1988, Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua “Chiến lược Toàn cầu về Nhà ở năm 2000”.

[16] C. de Miras, Développement durable et globalisation: enjeux urbains et trajectoires théoriques, trong Ville et Environnement, do E. Dorier-Apprill chủ biên, tr.89-90.

[17] C. de Miras, ibid. tr.88.

[18] UICN/PNUE/WWF (Union internationale pour la conservation de la nature et de ses ressources, Programme des Nations unies pour l’environnement et Fonds mondial pour la nature, Gland, Suisse), 1980, Stratégie mondiale de la conservation: la conservation des ressources vivantes au service du développement durable. Theo C. de Miras, ibid. tr.90.

[19] C. de Miras, ibid. tr.90-91.

[20] Thỏa thuận này là nguồn gốc ban đầu của Nghị định thư Kyoto, được thông qua tháng 12/1997, mở đầu giai đoạn quan trọng trong quá trình  đấu tranh chống sự ấm lên của khí hậu.

[21] C. de Miras, ibid. tr.91-93.

[22] Từ năm 1994 đã có khởi động trước cho cuộc họp này bằng nhiều cuộc thảo luận rộng rãi, đặc biệt là dưới dạng các công trình xuất bản về quan hệ giữa thành thị và môi trường, về các chính sách đô thị và chô ở. Tuy nhiên, mười năm sau hội nghị Istambul, tác động vẫn còn giới hạn và các chẩn đoán đều gần như nhau: các thành thị đang phát triển vẫn là nơi tập trung nghèo đói, việc tiếp cận các dịch vụ căn bản luôn là vấn đề và câu hỏi về môi trường vẫn đầy lo lắng (C. de Miras, sđd., tr.92).

[23] C. de Miras, ibid. tr.94-95.

[24] Gabriel Wackermann, “La problématique urbaine au regard de l’environnement”, trích trong phần dẫn nhập của Ville et Environnement, ibid. tr.10.

[25] Trong phạm vi một người, dấu ấn sinh thái là ước tính diện tích cần thiết đáp ứng cho toàn thể các nhu cầu của người đó trong số các tài nguyên tự nhiên (World Wildlife Fund).

[26] C. de Miras, ibid. tr.99-100.

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Đào Thị Hoàn. Xuất bản Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức

  • Huỳnh Ngọc Vân, Nguyễn Minh Thư. Kinh nghiệm trình diễn, biểu diễn tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh phục vụ du khách

  • Nguyễn Đăng Điệp. Văn học đại chúng ở Việt Nam hiện nay

  • Mai Trường Giang. Tác động của in-tơ-nét đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống thanh niên hiện nay

  • Hồ Bất Khuất. Ứng xử văn hóa để bảo vệ giá trị của mạng xã hội

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 99
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 8 7 3
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa đại chúng