Đắk Nông là vùng đất giao thoa, hội tụ những giá trị văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên. Nơi đây, còn lưu giữ những nét văn văn hóa đặc trưng riêng thể hiện qua các lễ hội gắn với đời sống tâm linh huyền bí như: sử thi, sinh hoạt cồng chiêng, các điệu múa dân gian truyền thống, văn hóa ẩm thực, trang phục và cả luật tục duy trì sự ổn định của cộng đồng... Các loại hình văn hóa dân gian ấy có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc trên vùng đất Nam Tây Nguyên ngày nay.
Sự hình thành của cộng đồng dân cư và chuyển hóa xã hội qua diễn trình lịch sử, đã tạo cho Đắk Nông có nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc thù về không gian và thời gian. Qua nhiều di chỉ được khai quật, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy được những công cụ lao động như: rìu, bôn, cuốc nhỏ thân dài, những viên cuội khoan lỗ để tra cán... Chúng có niên đại thuộc thời hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí và nhiều bằng chứng khảo cổ học khác. Các dấu tích của con người trước đây được phát hiện là cơ sở khoa học quan trọng để khôi phục lại bức tranh đời sống sinh hoạt văn hóa của cư dân xưa. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, đời sống văn hóa tinh thần rất đa dạng, phong phú như: nghệ thuật trình diễn, âm nhạc, trang trí, trang sức, trang phục,... Bên cạnh đó, là những hệ thống nghi lễ phục vụ cho đời sống tâm linh như: lễ hội mừng mùa, lễ mừng lúa mới, lễ kết nghĩa, lễ ăn cơm mới, lễ hội rnglăp bon (lễ hội đoàn kết các bon làng), lễ hội tách năng yô, lễ đón khách, lễ hội sum họp cộng đồng, lễ cúng thần rừng... Đồng thời, cư dân nơi đây còn sở hữu một kho tàng văn học dân gian truyền miệng rất phong phú, bao gồm các thể loại ca dao, tục ngữ, truyện cổ, truyền thuyết,...
Năm 2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng đã góp phần tạo nên những giá trị của di sản nhân loại đó. Chỉ có đời sống của con người gắn liền với núi rừng hùng vĩ, dòng sông chảy xiết, với ngôi nhà dài, hay những chiếc chiêng, cồng cổ... mới làm nên sự hấp dẫn riêng biệt của không gian văn hóa Tây Nguyên này. Cồng chiêng, sử thi, các lễ hội truyền thống... là những đặc trưng văn hóa dân gian của đồng bào các tộc người anh em ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng. Nó bắt nguồn từ đời sống, từ những sinh hoạt thường ngày, là nguồn cảm hứng thể hiện tâm hồn và tiếp thêm sức sống cho con người Tây Nguyên.
Cồng chiêng và nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng là một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần và tín ngưỡng của con người ngay từ lúc sinh ra cho đến khi trở về với đất trời, với vũ trụ. Nó được thể hiện qua các nghi thức trong lễ hội, tín ngưỡng tâm linh, ẩm thực dân gian... Cồng chiêng là loại nhạc cụ có khả năng trình diễn độc lập và cũng có thể kết hợp với các loại nhạc cụ khác và không thể thiếu trong các lễ hội có quy mô nhỏ như gia đình cũng như của cả cộng đồng. Đặc điểm nổi bật của dàn cồng, chiêng là sự kết hợp linh hoạt trong tiết tấu, giai điệu là những âm thanh của núi rừng, tiếng suối reo, thác chảy và tâm hôn chân thành của đồng bào M’nông. Đồng bào có cồng chiêng để ứng xử với thiên nhiên, cầu xin, giãi bày với thần linh, tổ tiên, đối thoại với cộng đồng và chính mình. Đồng thời cũng là của cải vật chất mà từ đó có thể phân biệt được sự giàu nghèo, là sức mạnh, được người khác kính trọng. Cồng chiêng còn giữ vai trò là phương tiện để khẳng định bản sắc văn hóa cộng đồng các tộc người ở Tây Nguyên nói chung và ở Đắk Nông nói riêng. Mỗi tộc người có một cách đánh khách nhau, nên khi nghe chúng ta có thể phân biệt được đó là của tộc người nào. Âm thanh của cồng chiêng luôn mang đến cho người nghe những cảm xúc rạo rực khó tả khiến mọi người tìm đến nhau để cùng chung vui. Vào những ngày lễ hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa, chóe rượu cần, trong tiếng cồng chiêng vang vọng giữ núi rừng tạo nên một không gian kỳ bí và huyền ảo. Vì thế có thể khẳng định rằng, cồng chiêng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào M’nông trên vùng đất Nam Tây Nguyên.
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam, sử thi M’nông mang một giá trị văn hóa hết sức đặc biệt, là món ăn tinh thần không thể thiếu còn lưu giữ đến ngày nay. Sử thi M’nông được tạo dựng nên từ hàng nghìn câu văn có vần điệu, một thể loại văn học truyền miệng với những câu chuyện mang đậm nét thần thoại về các hiện tượng tự nhiên, nhân vật lịch sử tiêu biểu của dân tộc... đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Sử thi là sự trộn lẫn của ngôn ngữ với giai điệu của thơ ca. Nó chứa đựng nhiều hình ảnh mang tính biểu cảm sâu sắc. Bộ ót n’rông là viên ngọc quý trong kho tàng văn học và truyện cổ dân gian Việt Nam đã được nhà nước công nhận. Hát kể sử thi đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người M’nông. Trong đó, nghệ nhân có thể nhớ tới hàng vạn câu sử thi, họ có giọng hát hay và tài diễn tấu độc đáo để lưu truyền hát kể sử thi cho con cháu nghe. Người hát kể sử thi và người nghe có thể ngồi thâu đêm suốt sáng bên cạnh bếp lửa lung linh, ấm áp. Thông qua đó, người nghe nhận biết được quan niệm về sự ra đời của đất, trời, của con người, tín ngưỡng, mối quan hệ trong cộng đồng, phong tục tập quán, sự hình thành và phát triển đời sống xã hội như:
Buổi sáng kể chuyện nương rẫy
Buổi trưa kể chuyện của nước
Buổi chiều kể chuyện anh hùng
Tối sáng trăng kể chuyện Ndu, Tiăng...
Nghệ thuật hát kể sử thi thu hút rất đông người nghe, đặc biệt trong dịp nông nhàn, lễ hội... Tuy chưa định hình rõ ràng, đầy đủ nhưng nó vẫn có âm hưởng của làn điệu mượt mà gắn liền với đời sống xã hội. Ngày nay, sử thi vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người M’nông trên vùng đất Nam Tây Nguyên. Vì thế việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy những giá trị sử thi của người M’nông càng có ý nghĩa để truyền lại cho con cháu thế hệ mai sau.
Cũng như các tộc người thiểu số khác trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, dân ca, dân vũ của người M’nông cũng có những đặc trưng riêng. Đó là kết quả của sự sáng tạo, một thể loại ca hát dân gian xuất phát từ môi trường lao động sản xuất, rồi được truyền miệng từ người này sang người khác, từ thời này qua thời khác, nên có thể sinh ra nhiều dị bản khác nhau và thường khó xác định được nguồn gốc. Từ môi trường đó, dân ca, dân vũ có nhiều chức năng trong các sinh hoạt của cuộc sống cộng đồng như: hỗ trợ lao động, giải trí, thư giãn, giao tiếp, trao đổi tâm tình, thông tin, giáo hóa hoặc bày tỏ nỗi niềm giúp con người hòa mình với thế giới siêu nhiên. Bởi vậy, người M’nông đã sáng tạo ra nhiều thể loại dân ca, dân vũ đặc trưng riêng của mình. Các thể loại dân ca, dân vũ tiêu biểu như hát ru, hát giao duyên, sinh hoạt, luật tục, lễ hội... nhiều làn điệu rất đặc sắc, sâu lắng với thời gian thể hiện dài. Những lời ca thường có vần điệu khá chặt chẽ, gieo vần linh hoạt, ngôn ngữ dễ thuộc, dễ nhớ. Hiện nay, sinh hoạt hát dân ca cùng với các loại nhạc cụ dân tộc được đồng bào M’nông luôn duy trì, phát triển ở các bon và được lưu giữ, truyền dạy lại từ gia đình đến cộng đồng. Dân ca, dân vũ không chỉ gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của đồng bào mà còn có sức sống mạnh mẽ trong cộng đồng. Hàng năm, tỉnh Đắk Nông đều phát động và tổ chức nhiều hội thi trình diễn dân ca, dân vũ và nhạc cụ dân tộc từ xã đến tỉnh và khu vực. Đây là hoạt động quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của bà con các tộc người ở Đắk Nông.
Nhạc cụ của người M’nông cũng rất độc đáo, đa dạng về âm điệu và chức năng. Âm nhạc là một phần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người nói chung và người M'nông nói riêng. Đặc biệt, nó gắn với môi trường sinh sống, gắn với tâm hồn của người Tây Nguyên. Các nhạc cụ được làmbằng tre nứa, gỗ, vỏ bầu, sừng, bằng kim loại và còn có những bộ đàn đá đã tạo nên những nét chấm phá riêng để phục vụ đời sống tinh thần. Dù bằng một ống nứa, thanh tre, quả bầu thì các loại nhạc cụ dân gian đều rất độc đáo. Các nghệ nhân đã cảm nhận, chế tác, truyền thụ âm nhạc dân tộc truyền thống theo một cách riêng của mình. Họ dựa vào đôi tai để xác định độ trầm, bỗng từng loại nhạc cụ như: nung ki jơh, m’buốt, lút, tlăk tlơr... Mỗi nhạc cụ đều đi kèm với một câu chuyện, một hoàn cảnh khác nhau. Có loại dùng trong lễ hội, có loại chỉ đánh trên nương rẫy, có loại là phương tiện để bày tỏ tình yêu đôi lứa, có loại vừa để giải trí vừa để xua đuổi thú rừng...
Đắk Nông là vùng đất giao thoa, hội tụ những giá trị của văn hóa vật chất và tinh thần. Các lễ hội của đồng bào M’nông là loại hình văn hóa dân gian hết sức quan trọng trong đời sống cộng đồng. Ở đó còn lưu giữ những nét văn hóa đặc trưng riêng thể hiện qua các lễ hội truyền thống gắn với đời sống tâm linh huyền bí như lễ hội: rượu cần, mừng lúa mới, lễ cưới hỏi, lễ trưởng thành,... Lễ hội tạo nên niềm hứng khởi, náo nức của con người, nó lan tỏa trong cộng đồng, hòa vào với đời sống của người dân. Trên cơ sở của những tín ngưỡng dân gian về thần linh, điều cấm kỵ, hệ thống nghi lễ và lễ hội của đồng bào đã được hình thành, góp phần vào việc quản lý cộng đồng. Với quan niệm vạn vật hữu linh, đồng bào dân tộc M’nông còn có cả một hệ thống các nghi lễ nông nghiệp, lễ vòng đời gắn với những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian độc đáo khác. Lễ hội dân gian bao gồm cả sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh đa thần của người M'nông. Thông qua đó, để họ cầu xin Yàng mang lại những điều tốt lành cho cộng đồng. Và, họ cũng muốn thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí vươn lên chinh phục thiên nhiên, thể hiện khát vọng về cuộc sống. Tất cả đều ghi lại những dấu ấn văn hóa truyền thống dân gian tồn tại từ ngàn xưa cùng với núi rừng Tây Nguyên.
Hoa văn là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các vật dụng hàng ngày cũng như hoạt động cộng đồng. Hoa văn mang các hình tượng về trời đất, con người, muông thú được thể hiện rõ nét nhất trên trang phục, cây nêu trong lễ hội hay trên những hoa văn trang trí nhà cửa,... Nó thể hiện những quan niệm tâm linh, tình cảm, cũng như những mong ước về một cuộc sống yên bình với thiên nhiên... Trong đời sống của người M’nông, nhất là trong các nghi lễ truyền thống, họ đặc biệt quan tâm đến trang phục. Do đó, cách trang trí trên trang phục là yếu tố hỗ trợ đắc lực làm nổi bật lên những đường nét cụ thể, thể hiện sự sinh động trong cuộc sống đời thường. Trang phục người M’nông thể hiện rõ bố cục qua cách bố trí màu sắc, hình thù lấy từ thiên nhiên hoặc những hình ảnh sinh hoạt cộng đồng. Trong các lễ hội, chúng ta dễ nhận thấy màu sắc hoa văn qua hình ảnh cây nêu tạo nên sự uy nghi, linh thiêng của lễ hội. Nét đẹp hoa văn còn thể hiện trong việc trang trí trên kiến trúc, tạo nên sự ấm cúng, kín đáo của ngôi nhà. Những hoa văn của đồng bào M’nông hết sức độc đáo ấy, luôn được các nghệ nhân truyền các kỹ năng cho thế hệ nghệ nhân tiếp theo.
Tính dân gian truyền thống trong nền văn hóa còn được thể hiện đậm nét trong các loại hình sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật hàng ngày của đồng bào M’nông. Đó là hàng vạn câu ca dao, tục ngữ, lời nói vần (nao m’pring) còn tiềm ẩn trong trí nhớ để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Được sinh ra và lớn lên trên một cao nguyên mênh mông, huyền bí và hùng vĩ, từ ngàn xưa trong đời sống của đồng bào không mấy khi thiếu vắng những bài ca, điệu múa, tiếng cồng chiêng, tiếng đàn, các loại nhạc cụ dân tộc... Đó chính là sự sáng tạo vô cùng quý giá của các thế hệ nghệ nhân dân gian M'nông, họ đã làm nên bản sắc văn hóa đặc thù để phục vụ đời sống tinh thần và được lưu truyền theo thời gian. Có thể nói rằng, văn hóa dân gianM’nông rất phong phú và đa dạng ấy đã hiện diện trên khắp các mặt của đời sống xã hội truyền thống và đương đại, là một giá trị văn hóa vô giá cần phải bảo tồn và phát huy giá trị.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 337, tháng 7-2012