1. Duới thời Đông Hán (25-220), Sĩ-Nhiếp (137-226) làm thái thú Giao Chỉ; hai em trai, Nhất làm Thái thú Hợp Phố, và Vũ làm Thái thú Nam Hải. Ngòì bút nguời Hán cùng thời ghi chép như sau: (5)
…”Anh em ông làm quan coi quận, hùng trưởng một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo hầu, người đương thời ai cũng quý trọng, các man di đều sợ phục, dẫu Úy Đà (Triệu Đà) cũng không hơn được".
Chi tiết xông hương có lý lịch không phải tầm thuờng. Với Zoroastrian/đạo thờ Lửa - dâng cành hương cho giáo sĩ giữ ngọn lửa cháy là một nghi lễ. Hoả giáo là quốc giáo Persia trong suốt 1500 năm cho tới khi Persian cải sang Islam thế kỷ thứ 8. Hoả giáo một thời là tôn giáo ở Trung Đông, Ấn độ trước khi sang Trung Hoa theo chân các thưong nhân Con Đường Tơ Lụa. Trong tiểu thuyết Kim Dung, Hoả giáo chính là Minh giáo khi đuợc Chu Nguyên Chương nhớ ơn, và biến thành Ma giáo, khi thất sủng.
Chỉ có “vợ cả, vợ lẽ”của Sĩ Nhiếp là sản phẩm của Trung Hoa, gia đình phụ hệ. “Nguời đương thời” không phải man di bản địa tức nguời Việt bấy giờ, mà ám chỉ danh sĩ nhà Hán chạy sang nuơng nhờ Sĩ Nhiếp (6)
Kèn sáo, chuông khánh, xông hương…có phải của Trung Hoa? Nếu không, sản phẩm của ai? Sắc tộc nào đã có nghi vệ nghiêm trang và xa hoa tới thế?
Cứ theo cách hiểu của nguời Hoa thời đó, “Hồ” là nguời Tây Vực. Những nguời Hồ xông hương cho xe Sĩ Nhiếp, nghi vệ hơn cả Triệu Đà, lai lịch chắc không phải tầm thường. Thời Sĩ Nhiếp, nguời Tây Vực chưa tới Trung nguyên nhiều tới nỗi lưu lạc xuống cả Giao Chỉ. Người Hoa Bắc khó sống nổi với khí hậu Giao Chỉ, nói chi nguời Tây Vực. Đất Trung nguyên lúc đó chỉ có ít chùa chiền của thưong nhân nguời Hồ, luật pháp không cho phép cất chùa và không đụơc đi tu.
Chỉ tiếc, và tức, ngòi bút Nho gia Việt-Hoa gì cũng chỉ chú ý tới truyện quan lớn và trào đình, bỏ qua đám dân gian, khiến không rõ “Hồ” này là Hồ nào. Nếu không từ Trung quốc, họ đến từ Persia, Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam, Tích Lan, Phù Nam hay Chàm? Đến hồi nào, bao nhiêu nguời, sinh hoạt ra sao, có kết hôn vói nguời bản địa, họ có phải là ngưòi Hồ đầu tiên đến Giao Chỉ? Trả lời được những câu hỏi liên quan đến đoạn văn ngắn này, có thể biết được thành phần dân Vịêt thời Sĩ Nhiếp.
2. Phật giáo ban đầu đến Giao Chỉ không thông qua Trung quốc. Đại sư Cưu Ma La Thập cha nguời Ấn/mẹ là nữ vương ngưòi Urguy, xuất gia năm lên 7 tuổi (350 SCN) là nguời đầu tiên đựợc mời sang Trường An dịch kinh Phật. Thế kỷ thứ 7, thầy Huyền Trang Đưòng Tam Tạng sang Thiên Trúc thỉnh được 600 kinh sách. Trong vòng 19 năm thầy dịch 74 bộ kinh Phạn qua tiếng Hán.
Thiền sư Khâu Đà La (Ksudra) tới Giao Chỉ giảng đạo khoảng các năm 168-189, cùng thời Sĩ Nhiếp. Các thông tin đều cho ông là người từ Thiên Trúc (Ấn độ) theo thói quen dự phóng “nguời Ấn Độ” cho các tăng lữ ở cổ Việt hay Chămpa. Sự tích chùa Dâu, thời Sĩ Nhiếp, kể thiền sư Khâu Đà La bước qua mình Man nương đang ngủ say khiến cô “cảm động” thụ thai. Ngòi bút Nho gia quả có uý kị tăng lữ Phật giáo nên chỉ ban vài câu ngắn gọn khiến đời sau tha hồ thêm bớt nhuốm màu đạo sĩ pha lẫn với đạo Mẫu ở Cổ Việt. Câu chuyện mang tính ẩn dụ cao độ: Phật giáo uyển chuyển đến với nhân gian bằng cách nhập vào chính dòng văn hoá ấy, không truyền giáo bằng cách giả ngây núp sau súng đạn. Man Nương chỉ có nghĩa “cô gái đất Man”, đại diện cho nền văn hoá phồn thực Đông Nam Á: con gái 12 tuổi nhắm mắt cũng biết việc sinh tồn.
Khi thiền sư Khâu Đa La đến Giao Chỉ, lúc đó đã có chùa chưa? Thiền sư bằng đưòng bộ từ Vân Nam, Miến Điện hay bằng đưòng biển từ Ấn-Độ hay Tích Lan ? Tới thẳng Giao Chỉ, hoặc đến Chămpa trước như nhà sư Du già, Đại Việt sư Ký Toàn Thư, Kỷ nhà Trần năm 1304, mô tả ông”chỉ uống sữa bò”, cho thấy ông không không phải nguời Ấn độ vốn thờ bò.
3. Thiền sư Khương Tinh Hội (? – 280), website (7) ghi “ông sanh tại Giao Chỉ, mẹ là người Việt; cha là người nước Khương Cư (Sogdiana)”, có tài liệu cho là người Ấn độ. Trong “Thông bạch về thiền sư Khương Tăng Hội” năm 2006, (8) thiền sư Nhất Hạnh ghi “Tạc tượng và thờ Thiền Sư Tăng Hội, sơ Tổ của Thiền Tông Việt Nam. Tổ sinh ở Giao Châu vào đầu thế kỷ thứ ba, cha là người Khương Cư, mẹ là người Việt, xuất gia năm 10 tuổi, trở thành cao tăng, mở đạo tràng tu tập ở Luy Lâu, Bắc Ninh, thiết lập một trung tâm dịch thuật và sáng tác ở đó, và đến năm 255, qua Kiến Nghiệp (Nam Kinh bây giờ), thủ đô nước Đông Ngô thời Tam Quốc, lập ngôi chùa đầu tiên ở nước ấy là chùa Kiến Sơ, độ cho vua Ngô Tôn Quyền, truyền tam quy ngũ giới cho vua Ngô Tôn Hạo, tổ chức Đại Giới Đàn độ tăng đầu tiên cho người Trung Quốc, và tịch vào tháng chín năm 280.”
Chi tiết quí báu “Sogdiana” cho bíêt thiền sư có gốc nguời Hồ Ba Tư, không phải Hồ Ấn Độ. Trên bản đồ, Sogdiana thuộc đế quốc Persia cổ, (bâygiờ là West Turkestan) thừa hưởng một tổng hợp huy hoàng của hai nền văn minh Hy Lạp và Ba Tư. Khi bị nguời Yuezhi lấn đất năm 162, một số nguời Sogdiana đã di cư xuống Bắc Vân Nam, đóng góp rất lớn vào mỹ thuật tiền sử của văn minh Điền ở Vân Nam. Có thể tổ tiên của thiền sư cũng thuộc nhóm di dân này. Ông Bình-nguyên Lộc gọi Nhục Chi cho Nguyệt Chi, ông viết thoáng “Bọn Nhục Chi về sau rất là quan trọng vì chính họ đã khai hoá Chàm và Cao Miên, Nam Dương chớ không phải bọn Ấn Độ như những quyển sử Tây tiền chiến đã viết sai”. Đây là một đề tài mong được các học giả nghiên cứu về nguồn gốc văn minh Phù Nam, Cao Miên, Nam Dương và Chămpa, những nền văn minh một thời rực rõ của Đông Nam Á đã góp phần làm nên nền văn hoá Việt Nam, quốc gia đáng lý vinh dự là bản lề của vùng Đông Nam Á, thay vì ngặt nghẽo khóc lóc mãi “một ngàn năm nô lệ giăc Tầu”. Nhắc mãi sai lầm cũ, trong khi còn sai phạm nhiều sai lầm mới, không phải độc quyền của nhạc sĩ và ca sĩ.
Ngoài món quà tặng là Phật giáo, Văn minh “rợ” Hồ bàng bạc trong văn hoá Việt, dù ít khi đựơc minh thị công nhận, chỉ kể vài mục như đàn Hồ, gốm Hồ. Viện Bảo Tàng Topkapi/Turkey hiện trưng bày chiếc bình Chu Đậu hai mầu xanh trắng thế kỷ 14. Chỉ tiếc những đồ gốm Chu Đậu này phần nhiều ở tại các Museum nước ngoài. Hình như người mình ít biết quí cổ vật tổ tiên. Chỉ ưng khoe trong nhà có bình Tống, bình Khang Hy…
---------------------------------
(5) http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C4%A9_Nhi%E1%BA%BFp
(6) Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư:
(7) http://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C6%B0%C6%A1ng_T%C4%83ng_H%E1%BB%99i (8) http://www.thuvien-thichnhathanh.org/index.php/cuc-i/74-thong-bch/344-thong-bch-v-thin-s-khng-tng-hi