TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGÔN NGỮ HỌC NHÂN HỌC TRÊN THẾ GIỚI
1. Quan điểm và phạm vi tổng thuật
Theo bài tổng thuật "Anthropological linguistics: An overview" ("Ngôn ngữ học nhân học: Cái nhìn khái quát") của Jane H. Hill trong từ điển International encyclopedia of linguistics (Bách khoa toàn thư quốc tế về ngôn ngữ học, 1992: 65-69), "Lãnh vực ngôn ngữ học nhân học - hoặc như một số người gọi là ‘nhân học ngôn ngữ' - được các học giả Bắc Mỹ hồi thập niên 1980 rất quan tâm: họ kế thừa truyền thống nghiên cứu ‘bốn lãnh vực' của sự sống con người: bao gồm nhân học tự nhiên, khảo cổ học, nhân học xã hội - văn hoá và nhân học ngôn ngữ. Nhiều nhà nhân học ngôn ngữ cao cấp đã thụ giáo các học trò của Edward Sapir; và các nhà nhân học ngôn ngữ thường xem Franz Boas, thầy của Sapir, bản thân Sapir và học trò của ông, Benjamin Whorf, là những người sáng lập môn học của mình. Tuy vậy, thuỷ tổ tinh thần của lãnh vực đa diện này rất phức tạp, có cội nguồn từ chủ nghĩa chức năng của trường phái Prague, chủ nghĩa cấu trúc Mỹ ‘Neo-Bloomfieldian', phương ngữ học và tâm lý học xã hội (xem Murray 1983). Bên ngoài nước Mỹ và Canada, sự quan tâm gần đây trong giới nhân học xã hội Anh Quốc đối với vị trí của ngôn ngữ trong xã hội xác nhận sự lưu truyền từ công trình của Malinowski về các chức năng của các ngôn ngữ ‘nguyên thuỷ' (xem Ardener 1971); Parkin 1982 gọi tên sự phát triển này là ‘nhân học ngữ nghĩa'. Những công trình khác ở Anh Quốc có ảnh hưởng là công trình của Bloch 1975 về thuật hùng biện chính trị trong các xã hội truyền thống, và các công trình nghiên cứu xuyên văn hoá của Goody về tác động của việc biết đọc biết viết (chẳng hạn năm 1977). Tại Pháp, tác phẩm của Claude Lévi-Strauss về sự phân tích truyền thuyết về mặt cấu trúc đặc biệt có ý nghĩa; cũng được lưu ý như vậy là các công trình nghiên cứu của Calame-Griaule năm 1965 về ngôn ngữ ở vùng Dogon của Tây Phi, và nhân học nhận thức của Sperber năm 1985. Ngoài ra, giới học giả Pháp theo lý thuyết xã hội nói chung cũng có ảnh hưởng đến nhân học ngôn ngữ trên phạm vi quốc tế - chẳng hạn đề xướng của Pierre Bourdieu theo đó các hình thức ngôn ngữ có thể cấu thành một loại ‘tài sản biểu trưng', hay quan niệm của Michel Foucault về những giới hạn trong diễn đạt được cấu thành thông qua sự cấu tạo có tính lịch sử gọi là ‘trật tự phát ngôn' ".
Ở Việt Nam, Trần Ngọc Thêm trong bài "Đi tìm ngôn ngữ của văn hoá và đặc trưng văn hoá của ngôn ngữ" (Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, 1993) cũng cung cấp một cái nhìn tổng quan về quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trên thế giới, bao gồm bốn thời kỳ: "Thời kỳ của Wilhelm von Humboldt (cuối thế kỷ 19) với luận điểm nổi tiếng về tính thống nhất của ngôn ngữ và ‘linh hồn dân tộc'. Thời kỳ những năm 30 của E. Sapir và B. Whorf với luận điểm về áp lực của cách chia cắt hiện thực đặc thù của mỗi ngôn ngữ đối với những người nói bằng ngôn ngữ ấy. Thời kỳ những năm 50 của Claude Lévi-Strauss, người đã vận dụng khá thành công phương pháp cấu trúc của ngôn ngữ học đương thời để nghiên cứu mối liên hệ giữa quan hệ họ hàng và ngôn ngữ. Hiện nay chúng ta đang bước vào thời kỳ thứ tư, khi mà sự quan tâm đến văn hoá nói chung và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá nói riêng đang được hồi sinh".
Còn theo Nguyễn Văn Chiến trong công trình Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt (Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá) (2004) thì việc nghiên cứu ngôn ngữ học về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá bao gồm ba giai đoạn cơ bản: giai đoạn thứ nhất: tiền cấu trúc luận (trước F. de Saussure); giai đoạn thứ hai: nghiên cứu cấu trúc luận cổ điển (F. de Saussure, C. Bally và A. Sechehaye); giai đoạn thứ ba: hậu cấu trúc luận (1920-1930 đến nay).
Như vậy, khi nói về quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trên thế giới, không phải các nhà nghiên cứu đều thống nhất trong việc phân kỳ lịch sử và trong việc đánh giá sự đóng góp của các nhà khoa học trong lãnh vực này. Nguyên nhân là quá trình ấy khá dài, số lượng tư liệu thu thập được rất khác nhau, quan điểm đánh giá cũng khác nhau. Riêng ở Việt Nam, tình trạng thiếu thốn tư liệu là một nguyên nhân lớn, vì những tư liệu liên quan đã biên dịch và xuất bản thì số lượng không nhiều, còn lượng tư liệu đồ sộ trên Internet thì đòi hỏi rất nhiều thời gian chọn lọc, biên dịch và tổng hợp.
Dẫu sao, trên cơ sở những tư liệu quan trọng nhất đã thu thập được trong quá trình theo đuổi lãnh vực này từ năm 1985 đến nay, chúng tôi cho rằng, không thể nói đến lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá hay lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học mà không nhắc đến những người đã khai sinh ngôn ngữ học nhân học, nhưng đồng thời, cũng không thể không nhắc đến những đóng góp cho lãnh vực này của một loạt nhà khoa học khác, những người đã tự giác hay không tự giác, góp phần ươm mầm, bồi đắp hình hài cho ngôn ngữ học nhân học ngày nay. Bởi lẽ, từ khi hình thành, ngôn ngữ đã luôn luôn gắn với văn hoá của nhân loại, văn hoá của những tộc người cụ thể. Để nghiên cứu văn hoá, thường người ta phải nghiên cứu cả ngôn ngữ của nền văn hoá đó. Ngược lại, trừ một số chuyên ngành của ngôn ngữ học ngày nay chuyên nghiên cứu về cấu âm, cấu trúc..., nghiên cứu ngôn ngữ thường là nhịp cầu dẫn sang địa hạt văn hoá, đem lại những phát hiện về nội hàm văn hoá được chuyển tải qua ngôn ngữ. Chính vì vậy mà không phải đến khi ngôn ngữ học nhân học và ngôn ngữ học hiện đại được khai sinh thì mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá và việc tìm hiểu văn hoá thông qua ngôn ngữ mới bắt đầu. Trên thế giới, những công trình nghiên cứu như vậy đã được tiến hành từ rất lâu trước khi người ta nghĩ ra những danh xưng, những chuyên ngành khoa học để định danh, phân loại chúng. Vì vậy, bất cứ công trình tổng thuật nào về lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học cũng cần phải nhắc đến sự đóng góp của các tác giả, tác phẩm đó, mặc dù không phải ai trong số đó cũng có ý thức theo đuổi một chuyên ngành khoa học có danh xưng như vậy.
Tuy nhiên, việc tổng thuật cũng cần có giới hạn. Do quy mô có hạn của Đề tài và điều kiện có hạn của thông tin tư liệu, chúng tôi sẽ không thâu tóm hết mà chỉ điểm qua một số nhà khoa học và công trình tiêu biểu của họ đóng góp vào lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trên thế giới.
2. Giai đoạn phôi thai
Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà tư tưởng, nhà ngữ văn học người Phổ Wilhelm von Humboldt (1767-1835), sau một quá trình nghiên cứu hàng chục ngôn ngữ khắp thế giới, đã rút ra nhận xét: vì gắn bó với tinh thần, với từng dân tộc hay bộ lạc, và có "hình thức bên trong" riêng, "mỗi ngôn ngữ đều chứa đựng một thế giới quan của mình". Ông lấy thí dụ: trong tiếng Sanskrit, "con voi" được gọi bằng những tên có nghĩa là "con uống hai lần" hoặc "con hai răng"...; mỗi tên gọi ấy tuy cùng chỉ một đối tượng nhưng chứa đựng những khái niệm khác nhau. Và ông cho rằng mỗi ngôn ngữ "miêu tả hoàn cảnh chung quanh mà nó phụ thuộc vào, miêu tả khung cảnh chỉ có thể vượt ra khỏi ranh giới của nó khi gia nhập một khung cảnh khác". Tuy thế, không phải là không có sự thống nhất của thế giới quanh ta. Ông viết: "Nhiều ngôn ngữ không phải là nhiều tiêu chí của một đối tượng mà là sự nhận xét khác nhau về đối tượng ấy".
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của Wilhelm von Humboldt, nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Đức Heyman Steinthal (1823-1899) đã đi đến nhận định: ngôn ngữ là "tự ý thức, thế giới quan và lô-gích của tinh thần dân tộc". Và ông khuyến nghị: nghiên cứu ngôn ngữ có thể và cần phải đi sâu vào mọi sự sáng tạo tinh thần phong phú của con người; nghiên cứu các hình thức của ngôn ngữ có thể cho ta khả năng đạt tới chỗ hiểu thấu tinh thần của dân tộc: "Các dữ kiện của ngôn ngữ minh hoạ rõ ràng nhất mọi nguyên lý của tâm lý các dân tộc".
Đó là một số thành quả và ý tưởng tiên phong về mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ với văn hoá nói chung và văn hoá các dân tộc nói riêng. Những thành quả và ý tưởng đó có được là do giới nghiên cứu ngữ văn ở Tây Âu đương thời đã có quá trình hơn ba thế kỷ tiếp xúc với các nền văn hoá và các ngôn ngữ xa lạ trên khắp thế giới, hệ quả của công cuộc thực dân hoá thế giới xuất phát từ các nước này. Và đến lượt nó, những thành quả và ý tưởng nói trên đã dần dần làm hình thành một khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ nhằm những mục đích học thuật nằm ngoài ngôn ngữ, mà Ferdinand de Saussure gọi là ngôn ngữ học ngoại tại.
Như đã biết, Ferdinand de Saussure (1857-1913), nhà ngôn ngữ học xuất sắc người Thụy Sĩ, là người được xem là đã có công đem lại cho ngôn ngữ học tư cách một khoa học độc lập, với nhiều luận điểm được đúc kết trong ý tưởng cơ bản của công trình Cours de linguistique générale (Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, 1916): "đối tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét trong bản thân nó và vì bản thân nó". Do quan điểm đó, ông "gạt ra ngoài ngôn ngữ tất cả những gì xa lạ đối với cơ chế của nó, đối với hệ thống của nó, tóm lại là tất cả những gì mà người ta gọi là ‘ngôn ngữ học ngoại tại'". Thế nhưng, cũng chính trong công trình đó, ông thừa nhận: "Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc". Và trong công trình đó, các môn đệ của ông là Charles Bally và Albert Sechehayye đã dành đến hai chương để ghi nhận những ý kiến của ông về vai trò của "ngôn ngữ học ngoại tại" và về tầm quan trọng của "tài liệu ngôn ngữ đối với nhân loại học và tiền sử học". Tình trạng đó một mặt chứng tỏ sự cực đoan và mâu thuẫn của Ferdinand de Saussure, một mặt chứng tỏ tầm quan trọng không thể phủ nhận của "ngôn ngữ học ngoại tại". Vậy "ngôn ngữ học ngoại tại" là gì?
Theo Ferdinand de Saussure, "ngôn ngữ học ngoại tại" là một ngành ngôn ngữ học "đảm đương những việc khá quan trọng và đó chính là những việc được người ta nghĩ đến nhiều hơn cả, khi bắt tay vào nghiên cứu hoạt động ngôn ngữ". Và theo ông, ngành ngôn ngữ học này có bốn đối tượng cần hướng tới: "Trước hết, đó là tất cả những điểm mà ngôn ngữ học tiếp giáp với dân tộc học, tất cả những mối liên hệ có thể có giữa lịch sử của một ngôn ngữ với lịch sử của một chủng tộc hay của một nền văn minh. Hai thứ lịch sử này xen lẫn vào nhau và có những mối quan hệ qua lại với nhau"; "thứ đến, phải ghi nhận những mối liên hệ giữa ngôn ngữ và lịch sử chính trị"; kế tiếp là "những mối quan hệ giữa ngôn ngữ với những thiết chế thuộc đủ các loại như nhà thờ, nhà trường, v.v."; và "cuối cùng, tất cả những gì liên quan đến sự phát triển địa dư của các ngôn ngữ và đến sự phân chia thành phương ngôn đều thuộc phạm vi của ngôn ngữ học ngoại tại".
Những thông tin, ý kiến của Ferdinand de Saussure mà chúng tôi tóm tắt trên đây có thể nói vừa là một sự tổng kết về "ngôn ngữ học ngoại tại" trong thế kỷ 19, vừa như một sự gợi ý để các nhà ngôn ngữ đi sau tiếp tục sử dụng ngôn ngữ học để góp phần giải mã văn hoá và lịch sử. Do đó, trong chặng đường phôi thai này, cũng cần phải ghi nhận những đóng góp của ông.
3. Giai đoạn hình thành
Bước sang thế kỷ 20, việc nghiên cứu văn hoá, lịch sử các dân tộc từ tư liệu ngôn ngữ đã có bước phát triển đột phá với sự ra đời của các chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) và dân tộc-ngôn ngữ học (ethnolinguistics).
Góp công đầu trong việc hình thành chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) là ba nhà khoa học Mỹ: Franz Boas, Edward Sapir và Benjamin Lee Whorf. Ba nhà khoa học này, mà người trước là thầy của người sau, đã có những công trình nghiên cứu nổi tiếng sử dụng cả ngôn ngữ học lẫn tri thức và phương pháp của một số ngành khoa học tiếp giáp. Công trình đầu tiên phải kể đến là ba tập Handbook of American Indian languages (Cẩm nang về các ngôn ngữ bản xứ Mỹ) xuất bản vào các năm 1911, 1922 và 1938 của người sáng lập ngành nhân học Bắc Mỹ, Franz Boas (1858-1942). Trước nhu cầu cấp bách phải miêu tả các ngôn ngữ và nền văn hoá của người bản xứ Bắc Mỹ mà phần lớn có nguy cơ diệt vong, Franz Boas trong cuốn sách trên đã lần đầu tiên phác thảo một phương pháp để nhà nghiên cứu có thể điều tra và miêu tả các ngôn ngữ mà mình không quen biết, đồng thời cũng cho thấy thông qua ngôn ngữ, nhà nghiên cứu có thể "đọc" được nền văn hoá của dân tộc nói ngôn ngữ ấy như thế nào. Tư tưởng cơ bản của ông là: "nghiên cứu ngôn ngữ là một bộ phận không thể tách rời của việc nghiên cứu tâm lý các dân tộc trên thế giới... ngôn ngữ là một trong những địa hạt thuận lợi nhất để nghiên cứu sự hình thành các biểu tượng đạo lý". Ông cũng thể hiện quan điểm ấy trong các bài giảng tại Trường Đại học Columbia và từ đó xác lập một khuynh hướng mới trong ngôn ngữ học: Ngôn ngữ học theo khuynh hướng Boas (Boasian Linguistics).
Tiếp theo là Edward Sapir (1884-1939), nhà ngôn ngữ học xuất sắc nhất trong số những người theo trường phái Boas. Chịu ảnh hưởng của Boas, Edward Sapir đã đi sâu nghiên cứu cả hai khoa nhân học và ngôn ngữ học, dành nhiều thời gian nghiên cứu các ngôn ngữ thổ dân da đỏ ở Mỹ, Canada, Mexico, Trung Mỹ. Nhưng ông có điểm khác với thầy mình là đã làm cho ngôn ngữ học Mỹ trở thành một khoa học độc lập chứ không còn là một bộ phận của nhân học nữa. Cho đến đầu thế kỷ 20, với các công trình đầu tay của Boas và thế hệ sinh viên đầu tiên của ông, ngành ngôn ngữ học Mỹ gần như không thể tách khỏi cội rễ của nó là nhân học. Ngay như các bản thảo đầu tay của Sapir cũng chấp nhận sự lệ thuộc lâu đời kiểu Mỹ của các vấn đề ngôn ngữ học vào các vấn đề văn hoá và triết học. Nhưng với công trình Language: An introduction to the study of speech (Ngôn ngữ: Dẫn luận vào việc nghiên cứu tiếng nói) công bố năm 1921, ông đã biện luận cho sự độc lập của ngôn ngữ học như một khoa học độc lập đối với nhân học hay bất cứ ngành khoa học nào khác. Sapir cho rằng khả năng ứng dụng của các phương pháp Ấn-Âu cho các ngôn ngữ không có chữ viết là điều đương nhiên và ngôn ngữ học bản xứ Mỹ sẽ đóng góp một cách đáng kể vào cho ngành ngôn ngữ học chung. Cũng trong công trình đó, ông đã xác lập các luận điểm cho rằng ngôn ngữ là một cấu trúc mang dấu ấn của tư duy, nó mang thế giới quan đặc thù của một nền văn hoá, nó tổ chức và là điều kiện cho tư duy hoạt động. Và rằng, mỗi ngôn ngữ đều có khuôn cảnh riêng của nó, gắn liền với một tập thể có những đặc trưng vật chất làm cho nó khác hẳn với những tập thể khác. Hơn nữa, ngôn ngữ không thể tồn tại bên ngoài văn hoá, nghĩa là sự tập hợp những phong tục và tín ngưỡng có tính kế thừa trong xã hội, quy định các sinh hoạt của đời sống chúng ta. Giữa ngôn ngữ và văn hoá không có quan hệ nội tại hay quan hệ nhân quả, nhưng nội dung của ngôn ngữ lại liên quan mật thiết với văn hoá: "Trong ý nghĩa là từ vựng của một ngôn ngữ phản ánh ít nhiều trung thành với cái nền văn hoá mà ngôn ngữ đó phục vụ, thì một điều hoàn toàn đúng là lịch sử của ngôn ngữ và lịch sử của văn hoá chuyển động theo những đường song song nhau".
Quan điểm đó của Sapir đã được người học trò gần gũi và nổi tiếng nhất của ông là Benjamin Lee Whorf (1897-1941) kế thừa và phát triển thêm trong các tiểu luận như Science and linguistics (Khoa học và ngôn ngữ học, 1940), The relation of habitual thought and behavior to language (Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ với ngôn ngữ, 1941). Và do đó các nhà nghiên cứu đã dùng thuật ngữ Sapir-Whorf Hypothesis (Giả thuyết Sapir-Whorf) để gọi chung quan điểm của hai ông. Điều đáng tiếc là ngôn ngữ của B.L. Whorf không dễ đọc, và để hiểu được nó người ta phải "phiên dịch" ra ngôn ngữ bình thường! Theo một tóm tắt thường được giới nghiên cứu trích dẫn thì dường như Whorf đã đưa ra hai giả thuyết: "(1) Nhìn chung, những khác biệt về cấu trúc giữa hai hệ thống ngôn ngữ sẽ kèm theo những khác biệt về tri nhận phi ngôn ngữ, dưới một hình thức không cụ thể, ở người bản ngữ nói hai ngôn ngữ đó. (2) Cấu trúc của tiếng mẹ đẻ của bất kỳ người nào cũng ảnh hưởng mạnh mẽ hoặc hoàn toàn quyết định cách nhìn thế giới mà người này sẽ có được trong quá trình thủ đắc thứ tiếng đó" (R. Brown, 1976: 128; theo P. Kay & W. Kempton, 1984: 65-79).
Các công trình của Franz Boas, Edward Sapir, Benjamin Lee Whorf và những người kế tục không chỉ khai mở mà còn đem lại cho chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) một vị thế vững chãi trong các nước nói tiếng Anh cho đến tận ngày nay.
Trong khi đó, ở Pháp, các nhà khoa học quan tâm đến mối tương quan giữa ngôn ngữ và văn hoá vẫn tiếp tục tìm tòi theo những hướng riêng, nối tiếp truyền thống đã có của các ngành Đông phương học, ngôn ngữ học, nhân học, dân tộc học. Nổi bật nhất trong số đó là Claude Lévi-Strauss (sinh 1908), nhà nhân học xuất sắc, người đã sưu tầm, phân tích và khái quát các tư liệu nhân học theo một phương pháp luận mới gắn liền với tên tuổi của mình: chủ nghĩa cấu trúc. Công trình Les structures élémentaires de la parenté (Các cấu trúc sơ đẳng của thân tộc) công bố năm 1949 của ông được đánh giá như một cuộc cách mạng về nhân học. Tập tiểu luận Chủng tộc và Lịch sử của ông được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc UNESCO công bố năm 1952 đã vượt xa chủ đề của nó để đưa ra một sự suy nghĩ mới về văn hoá phương Tây, ý nghĩa của văn minh, tính chất bấp bênh của thời gian lịch sử v.v. Tiếp tục sử dụng phương pháp luận ấy, ông đã viết nhiều công trình vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị văn chương, như Tristes tropiques (Nhiệt đới buồn, 1955, 1977), Anthropologie Structurale (Nhân học cấu trúc, 1958, bản tiếng Anh Structural anthropology, 1963), Totemism (Tín ngưỡng tô-tem, 1963), Le triangle culinaire (Tam giác bếp núc, 1965), The savage mind (Tinh thần hoang dã, 1966), The raw and the cooked (Sống và chín, 1969), Myth and meaning (Huyền thoại và ý nghĩa, 1978). Trong khi kiên trì mục tiêu phát hiện những lô-gích xã hội mà trước hết là lô-gích tinh thần, ông cũng đồng thời chấp nhận những sửa đổi điều chỉnh về phương pháp luận khi cần thiết. Đối với ông, các nền văn minh và văn hoá đều có những giá trị lớn, ngang nhau, nói lên tính thống nhất của loài người, trong khi mỗi tộc người vẫn mang sâu đậm những bản sắc của mình.
Cùng thời hoặc nối tiếp Claude Lévi-Strauss là một số nhà ngôn ngữ học Pháp, tiếp tục tham gia vào việc khai mở văn hoá, lịch sử các dân tộc bằng cách kết hợp ngôn ngữ học với tư liệu của dân tộc học, khảo cổ học. Trong số đó, có thể kể đến nhà ngữ pháp so sánh Emile Benveniste (1902-1976) với những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Ấn-Âu mà kết quả tìm tòi đã vượt xa khuôn khổ ngữ pháp so sánh. Khi phân tích ý nghĩa cơ bản của từ ngữ, ông đã soi sáng tổ chức về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tôn giáo của nền văn hoá cổ đại hiện đang còn ảnh hưởng đến nền văn hoá ngày nay. Công trình để lại nổi tiếng nhất của ông là cuốn Problèmes de linguistique générale (Những vấn đề của ngôn ngữ học đại cương, 1939, 1966, 1974, bản tiếng Anh Problem of general linguistics, 1971). Cũng có thể kể đến nhà ngôn ngữ học, dân tộc học André-Georges Haudricourt (sinh 1911) với một loạt bài nói về mối tương liên giữa dân tộc học với ngôn ngữ học và dân tộc-ngôn ngữ học: "Linguistique et ethnologie" ("Ngôn ngữ học và dân tộc học", Ethnologie générale, Vol. XXIV, Paris, 1968), "Ethnoscience et ethnolinguistique ("Khoa học dân tộc và dân tộc-ngôn ngữ học", Annuaire 1970-1971, Ecole pratique des Hautes Etudes), "Ethnoscience et ethnolinguistique" ("Khoa học dân tộc và dân tộc-ngôn ngữ học", Annuaire 1974-1975, Ecole des Hautes en Sciences sociales)...
Các công trình của các nhà ngôn ngữ học, dân tộc học Pháp đã làm hình thành chuyên ngành dân tộc-ngôn ngữ học (ethnolinguistics) mà hiện nay có thể xem là một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ học nhân học hiện đại, mặc dù nó có hướng phát triển riêng.
Ở Liên Xô đương thời, cũng có một vài nhà ngôn ngữ học chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá mà nổi bật là E.M. Vereshchagin và V.G. Kostomarov, với các công trình như Jazyk i kul'tura: Lingvostranovedenie v prepodavanii Russkovo jazyka kak inostrannogo (tiếng Nga, Moskva, 1976) và Lingvostranovedcheskaja teorija slova (tiếng Nga, Moskva, 1980).
4. Giai đoạn phát triển
Trong những thập niên cuối thế kỷ 20, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá đã có bước phát triển mới với sự phát triển chuyên ngành nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology) chuyên khảo sát vị trí của ngôn ngữ trong đời sống của các cộng đồng người, và sự phát triển trở lại của chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) sau một thời gian ít được quan tâm.
Nguyên nhân khiến cho chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) có một thời gian ít được quan tâm là do sự nổi lên của các chuyên ngành, trường phái mới trong ngôn ngữ học. Nhưng vào năm 1992, như chúng tôi đã trích dẫn bên trên, trong bài tổng thuật "Anthropological linguistics: An overview" (International encyclopedia of linguistics, 1992: 65-69), Jane H. Hill đã ghi nhận một sự quan tâm trở lại của các học giả Bắc Mỹ đối với lãnh vực này trong thập niên 1980.
Từ đó đến nay, hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học đã liên tục phát triển ở phương Tây, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh. Theo cỗ máy dò tìm Google ngày 12/2/2008, hiện nay có đến 108.000 địa chỉ trên Internet cung cấp thông tin về từ khoá "anthropological linguistics", mà trong số đó có rất nhiều trang web của các trường đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ. Số lượng các ấn phẩm cũng rất lớn, và một số tài liệu trong số đó cũng đã có mặt ở Việt Nam dưới dạng bản sao, bản dịch. Chẳng hạn cuốn Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành (2006), một công trình biên dịch rất công phu của Vũ Thị Thanh Hương và Hoàng Tử Quân. Tổng cộng 12 công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh có liên quan đến ngôn ngữ học nhân học đã được tuyển chọn và dịch thuật, cung cấp những thông tin rất hữu ích cho những người quan tâm đến hướng nghiên cứu đó ở Việt Nam: "Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ với ngôn ngữ" ("The relation of habitual thought and behavior to language", 1941) của Benjamin Lee Whorf; "Thế nào là giả thuyết Sapir-Whorf?" ("What is the Sapir-Whorf Hypothesis?", 1984) của Paul Kay và Willett Kempton; "Phạm vi vấn đề tính tương đối ngôn ngữ: Phân tích và đánh giá những nghiên cứu thực nghiệm" ("The scope of linguistic relativity: An analysis and review empirical research", 1996) của John A. Lucy; "Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu" ("The pronouns of power and solidarity", 1960) của Roger Brown và Allbert Gilman; v.v.
Trong giai đoạn này, ngôn ngữ học nhân học thế giới quan tâm đến điều gì? Có thể tìm thấy câu trả lời vắn tắt qua các chủ đề lớn mà tác giả William A. Forley quan tâm giải quyết trong công trình Anthropological linguistics. An introduction (Ngôn ngữ học nhân học. Dẫn luận, 2000), xuất bản ở Mỹ và Anh, như: "Sự tiến hoá của ngôn ngữ" ("The evolution of language"), "Phổ niệm: Những ràng buộc bẩm sinh đối với tinh thần" ("Universalism: Innate constraints on mind"), "Thuyết tương đối: Những ràng buộc văn hoá và ngôn ngữ học đối với tinh thần" ("Relativism: Cultural and linguistic constraints on mind"), "Dân tộc học của phát ngôn" ("The ethnography of speaking"), "Văn hoá và sự biến đổi ngôn ngữ" ("Culture and language change").
Bên cạnh đó là sự phát triển của chuyên ngành nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology), một bộ phận của ngành nhân học, với những mối quan tâm gần gũi với chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học. Như nhận định của Jane H. Hill trong bài tổng thuật "Anthropological linguistics: An overview" (International encyclopedia of linguistics, 1992: 65-69): "Trong ba mươi năm qua, một ‘nhân học ngôn ngữ' mới chuyên khảo sát vị trí của ngôn ngữ trong đời sống của các cộng đồng người đã phát triển bên trong ngành nhân học, bên cạnh ‘ngôn ngữ học nhân học'. Hai chuyên ngành phụ này có một ảnh hưởng phối hợp quá lớn so với số lượng nhà nghiên cứu ít ỏi của chúng".
Theo cỗ máy dò tìm Google ngày 12/2/2008, hiện nay có đến 178.000 địa chỉ trên Internet cung cấp thông tin về từ khoá "linguistic anthropology", mà trong số đó cũng có rất nhiều trang web của các trường đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Số lượng các ấn phẩm cũng vô cùng lớn, và một số tài liệu trong số đó cũng đã có mặt ở Việt Nam dưới dạng bản sao, bản dịch.
Vậy chuyên ngành nhân học ngôn ngữ trên thế giới quan tâm đến điều gì? Có thể tìm thấy câu trả lời vắn tắt qua các chủ đề lớn mà tác giả Alessandro Duranti quan tâm giải quyết trong công trình Linguistic anthropology (Nhân học ngôn ngữ, 2000), xuất bản ở Anh: "Phạm vi của nhân học ngôn ngữ" ("The scope of linguistic anthropology"), "Các lý thuyết về văn hoá" ("Theories of culture"), "Tính đa dạng ngôn ngữ học" ("Linguistic diversity"), "Các phương pháp dân tộc học" ("Ethnographic methods"), "Sự ghi chép: từ chữ viết đến những hình ảnh số hoá" ("Transcription: from writing to digitized images"), "Ý nghĩa dưới các hình thái ngôn ngữ học" ("Meaning in linguistic forms"), "Phát ngôn như một hành động có tính xã hội" ("Speaking as social action"), "Những trao đổi đàm thoại" ("Conversational exchanges"), "Các đơn vị tham gia" ("Units of participation").
Chính do sự gần gũi về mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu nên ranh giới giữa nhân học ngôn ngữ với ngôn ngữ học nhân học đôi lúc khó xác định. Đây cũng là tình trạng chung của các chuyên ngành, bộ phận khác của ngành nhân học, do sự chồng lấn về mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của chúng đối với các ngành và chuyên ngành khoa học tương cận như dân tộc học, khảo cổ học, xã hội học, văn hoá học, ngôn ngữ học...
Chính vì thế nên, mặc dù kể từ khi Edward Sapir xuất bản công trình Language: An introduction to the study of speech vào năm 1921, ngành ngôn ngữ học Bắc Mỹ đã trở thành một khoa học độc lập chứ không còn là một bộ phận của nhân học nữa, nhưng gần đây lại có một số tài liệu quan niệm ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) như là một tên gọi khác của nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology) hoặc như là một bộ phận của nhân học văn hoá (cultural anthropology). Tiêu biểu là Jane H. Hill, người đã dùng lời kết của bài tổng thuật "Anthropological linguistics: An overview" trong từ điển International encyclopedia of linguistics (1992: 65-69) để nói về mối quan tâm của các nhà nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropologists): "Các nhà nhân học ngôn ngữ thống nhất ở sự chú trọng chung vào việc nghiên cứu các cuộc đàm thoại diễn ra tự nhiên, và vào việc thừa nhận tầm quan trọng của tính đa dạng xuyên văn hoá trong các chức năng của ngôn ngữ. Họ cũng thống nhất ở sự khẳng định rằng ngôn ngữ gắn bó rất chặt chẽ với nền văn hoá và xã hội con người, và đến một mức độ cao cấu tạo nên chúng. Do vậy, họ xem việc nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ và việc sử dụng ngôn ngữ như một công việc lô-gích đối với khoa nhân học".
Nhưng trên thực tế, các nhà ngôn ngữ học nhân học và các nhà nhân học ngôn ngữ không phải luôn luôn có cùng mối quan tâm và có cùng quan điểm. Chỉ căn cứ vào bài tổng thuật của Jane H. Hill và vào nội dung các công trình của hai tác giả William A. Forley và Alessandro Duranti nêu trên, cũng đủ thấy có một khoảng cách nhất định giữa cái được gọi là ngôn ngữ học nhân học với cái được gọi là nhân học ngôn ngữ. Chưa kể sự tồn tại song song hai tên gọi chuyên ngành khác nhau trong cùng một địa hạt nghiên cứu hẳn phải có lý do, thể hiện quan điểm khác nhau của những người trong cuộc khi họ tự nhận là mình thuộc chuyên ngành này hay thuộc chuyên ngành khác.
Trong khi đó, ở Pháp, truyền thống dân tộc-ngôn ngữ học vẫn tiếp tục được duy trì. Mới đây, trong chuyến thăm Việt Nam, nhà ngôn ngữ học Pháp Laurent Sagart, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ học về Đông Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu khoa học Xã hội, Paris, đã có buổi báo cáo khoa học tại Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh về công trình Thoughts of the formation of East Asian language families (Những suy nghĩ về sự hình thành của các ngữ hệ ở Đông Á) do ông thực hiện và công bố vào năm 2004. Theo đó, sự kết hợp các bằng chứng ngôn ngữ học với các bằng chứng dân tộc học và khảo cổ học cho phép giả thuyết rằng hai ngữ hệ Hán Tạng và Nam Đảo xưa kia từng là một (Proto-Sino-Austronesian). Sau đó ngữ hệ Hán Tạng mới hình thành ở phía Tây Trung Quốc; còn ngữ hệ Nam Đảo hình thành ở phía Đông Trung Quốc, thiên di ra Đài Loan khoảng 3.500 năm trước, từ đó phân tán ra khắp Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, v.v. Công trình này của Laurent Sagart cho thấy rằng hướng nghiên cứu dân tộc-ngôn ngữ học vẫn đang được giới ngôn ngữ học Pháp chú ý phát triển và vận dụng.
{
Tóm lại, căn cứ vào những tư liệu thu thập được, có thể nói về mặt cội nguồn, chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học hiện nay bắt nguồn từ ngôn ngữ học nhân học Mỹ, nhưng đồng thời cũng có mối liên quan mật thiết với các chuyên ngành tương cận như ngôn ngữ học ngoại tại trong thế kỷ 19, dân tộc-ngôn ngữ học và nhân học ngôn ngữ trong thế kỷ 20.
Việc phân giới giữa ngôn ngữ học nhân học với các chuyên ngành tương cận nói trên như thế nào, là tuỳ theo quan điểm, mục đích phân loại của nhà nghiên cứu hoặc người tổng thuật. Nếu lấy nguồn gốc và danh xưng làm trọng, người ta buộc phải tách rời các chuyên ngành tương cận ấy ra, vì chúng có nhiều chỗ khác nhau. Theo đó, không thể xem chuyên ngành dân tộc-ngôn ngữ học như một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ học nhân học hiện đại. Cũng không thể xem nhân học ngôn ngữ và ngôn ngữ học nhân học chỉ là hai tên gọi khác nhau của cùng một chuyên ngành.
Ngược lại, nếu như lấy nội dung, lấy những điểm chung về mục đích, đối tượng và phương pháp làm trọng, người ta vẫn có thể, trong khi theo đuổi một chuyên ngành nhất định, tiếp thu những tinh hoa của các chuyên ngành tương cận để bổ sung, phát triển hướng nghiên cứu của mình. Cần lưu ý là giữa các nhà khoa học theo đuổi các chuyên ngành khoa học nói trên luôn luôn tồn tại một số điểm chung rất cơ bản. Điểm chung quan trọng nhất có lẽ là, họ đều quan niệm ngôn ngữ là thành tố thiết yếu cấu tạo nên văn hoá và xã hội, đồng thời phản ánh văn hoá và xã hội, cho nên để có thể thấu hiểu các nền văn hoá và xã hội thì không thể không nghiên cứu ngôn ngữ của nền văn hoá và xã hội ấy. Điểm chung quan trọng kế tiếp là họ thường vận dụng chuyên ngành khoa học này để giải quyết các vấn đề ngôn ngữ của các xã hội thuộc thời kỳ tiền văn tự.
Trong công trình này, chúng tôi theo quan điểm thứ hai.
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGÔN NGỮ HỌC NHÂN HỌC Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm và phạm vi tổng thuật
Với tư cách một chuyên ngành khoa học, ngôn ngữ học nhân học chỉ mới bắt đầu bén rễ ở Việt Nam chừng một thập niên. Tuy nhiên, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương pháp nghiên cứu của nó không phải là điều hoàn toàn xa lạ đối với các nhà ngôn ngữ học, dân tộc học, nhân học Việt Nam. Bởi trước đó, từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20, việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc với những mục đích khác nhau trong đó có mục đích tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá và những thông điệp văn hoá thông qua ngôn ngữ, là công việc thường xuyên của đông đảo các nhà Đông phương học, ngôn ngữ học, dân tộc học Việt Nam và nước ngoài. Các cơ sở khoa học danh tiếng như Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp, Viện Ngữ học Mùa hè của Mỹ, Viện Đông phương học của Liên Xô, Viện Ngôn ngữ học và Viện Dân tộc học của Việt Nam, Khoa Ngữ văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, v.v. đều rất quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam và Đông Dương, mà mục đích, đối tượng, phương pháp rất gần gũi với ngôn ngữ học nhân học. Và giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu đó cũng cực kỳ to lớn, là tiền đề khoa học vững chắc của chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học Việt Nam. Vì vậy, cũng như trên thế giới, có thể nói việc nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học ở Việt Nam đã được tiến hành từ rất lâu trước khi chuyên ngành này thật sự hình thành ở Việt Nam. Và bất cứ công trình tổng thuật nào về lịch sử hình thành chuyên ngành này ở Việt Nam cũng không được phép bỏ qua những thành tựu nghiên cứu của các nhà Đông phương học, ngôn ngữ học, dân tộc học vừa nêu, vì đó chính là tiền đề, tiền thân hoặc là bạn đồng hành của ngôn ngữ học nhân học ngày nay.
Tuy nhiên, ở đây cũng cần hạn định. Mặc dù tất cả các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc, về nhân chủng, về dân tộc... nói trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học ở Việt Nam, nhưng không phải bất cứ công trình nào trong số đó cũng có thể quy vào hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học. Xét về mục đích, đối tượng, phương pháp và nguồn tư liệu, chỉ một phần trong số đó thật sự là những công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành, trực tiếp liên quan đến sự hình thành ngôn ngữ học nhân học và các chuyên ngành tương tự. Do số lượng, quy mô các công trình nghiên cứu thuộc các lãnh vực nói trên là cực kỳ to lớn, việc tổng thuật về lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân học ở Việt Nam chỉ nên giới hạn trong phạm vi những công trình liên quan trực tiếp đó mà thôi.
Dựa trên quan điểm lịch sử nói trên, chúng tôi xác định việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá ở nước ta đã có tuổi đời gần một trăm năm, và bao gồm một số khuynh hướng khác nhau, phản ánh ảnh hưởng của các khuynh hướng học thuật khác nhau đối với ngôn ngữ học Việt Nam. Đại thể, có tất cả bốn khuynh hướng liên quan: khuynh hướng ngôn ngữ học tiếp xúc (contact linguistics) hay khuynh hướng tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ (theory of contact language), khuynh hướng dân tộc-ngôn ngữ học (ethnolinguistics), khuynh hướng văn hoá-ngôn ngữ học (culturolinguistics) hay ngôn ngữ học văn hoá (cultural linguistics), khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) và nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology).
Dĩ nhiên, trên thực tế không có ranh giới nghiêm ngặt giữa các khuynh hướng đó ở Việt Nam. Không phải nhà nghiên cứu nào ở Việt Nam khi tiến hành một công trình ngôn ngữ học liên quan đến văn hoá, dân tộc hay nhân học cũng có ý thức rằng mình hay công trình của mình thuộc về khuynh hướng này hay khuynh hướng nọ. Nhưng theo hình dung của chúng tôi thì bốn khuynh hướng nghiên cứu nêu trên là có thật. Và sự phân loại như vậy là cần thiết để chúng ta dễ dàng nắm bắt được các cội nguồn của ngôn ngữ học nhân học Việt Nam, đồng thời chỉ ra những nguồn sinh lực mà chuyên ngành khoa học này cần phải thu nạp để làm giàu cho hành trang nghiên cứu của mình.
Ngoài bốn khuynh hướng ấy, chúng tôi cũng ghi nhận những công trình khác có chung mục đích nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, với đối tượng và phương pháp ít nhiều có tính chất liên ngành.
Dưới đây xin lần lượt điểm qua các khuynh hướng đó và những tác giả, tác phẩm tiêu biểu theo ghi nhận của chúng tôi.
2. Khuynh hướng ngôn ngữ học tiếp xúc (contact linguistics) hay khuynh hướng tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ (theory of contact language)
Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ đã được manh nha từ thế kỷ 19 với H. Schuchargt (1842-1927), nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Đức, là người đầu tiên nghiên cứu về ngôn ngữ pha trộn (mixed language), về Pidgin và Creole. Sau đó lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ (language contact) trở nên phổ biến từ những năm đầu của thập niên 1950 với công trình Language in contact (1953) của U. Weinreich.
Ở Việt Nam, ý tưởng về một ngôn ngữ pha trộn đã được Henri Maspéro nhắc đến khi nói về nguồn gốc tiếng Việt trong công trình "Études sur la phonétique historique de la langue annamite. Les initiales" (BEFEO, Vol. 12, no. 1, 1912).
G. Coedès cũng đề cập đến tiếp xúc ngôn ngữ khi bàn về các ngôn ngữ ở Đông Dương trong bài "Les langues de l'Indochine" (Extrait des conférences de l'Institut de Linguistique de l'Université de Paris, T.VIII, année 1940-1948).
Tương tự là S.E. Jakhontov trong bài "Về sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam châu Á" (tiếng Nga, 1973, bản dịch Nguyễn Văn Lợi, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1991).
Một số công trình khác gián tiếp đề cập đến tiếp xúc ngôn ngữ qua khảo sát các từ vay mượn gốc Hán, gốc Pháp...
Cột mốc đánh dấu việc giới thiệu đầy đủ và áp dụng một cách có hệ thống lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ vào việc nghiên cứu nguồn gốc tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ ở khu vực Đông Nam Á là công trình Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á của hai tác giả Phan Ngọc và Phạm Đức Dương (1983).
Tiếp xúc ngôn ngữ cũng là chỗ dựa lý thuyết để nhà nghiên cứu Bùi Khánh Thế bàn về các vấn đề về chính sách ngôn ngữ, tình hình song ngữ, ngôn ngữ văn hoá các dân tộc thiểu số, v.v. trong một loạt báo cáo khoa học: "Một vài cứ liệu về song ngữ và vấn đề nghiên cứu song ngữ ở Việt Nam" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1979); "Ngôn ngữ văn hoá các dân tộc thiểu số từ góc nhìn quan hệ ngôn ngữ ở Việt Nam" (Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số phía Nam, 1993); "Problems of language contact in Vietnam (The main features of language change)" (Pan-Asiatic Linguistics - Proceeding of 4th ISSL, Bangkok, 1996); "Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam (trường hợp TP. Hồ Chí Minh)" (Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, 2005); "Tiếp xúc ngôn ngữ và việc vận dụng tiêu chuẩn về đặc trưng ngôn ngữ trong khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc ở Việt Nam" (Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, 2005); "Từ ngòi bút sắt đến chiếc máy tính và những vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay" (Tạp chí Khoa học Xã hội, số 08 (96) - 2006)...
Nhìn chung, mặc dù ra đời đã gần một thế kỷ và có khả năng mở ra những khám phá mới về nguồn gốc ngôn ngữ, về những thay đổi của ngôn ngữ, về tình hình song ngữ và song văn hoá (biculturalism), nhưng những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hoá theo hướng tiếp cận của lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam chưa nhiều, hãy còn tản mạn. Đặc biệt, việc nghiên cứu về sự hình thành và cách thức sử dụng của các ngôn ngữ pha trộn (mixed languages), về mối liên hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong môi trường xã hội đơn ngữ và song ngữ ở Việt Nam hầu như chưa được tiến hành một cách có bài bản.
Những đề tài nghiên cứu nêu trên có thể được tiến hành sâu hơn và có những đóng góp thiết thực hơn nếu được đặt trong phạm vi rộng lớn của chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học.
3. Khuynh hướng dân tộc-ngôn ngữ học (ethnolinguistics)
Ở Việt Nam, ngay từ thế kỷ 19, tiếng Bahnar, tiếng Chăm đã được người Pháp nghiên cứu, xây dựng chữ viết hoặc biên soạn từ điển. Thời kỳ 1954-1975, các công trình nghiên cứu, lý luận và các chính sách liên quan đến các ngôn ngữ thiểu số được triển khai hàng loạt ở cả miền Bắc lẫn miền Nam. Hàng chục bộ chữ viết sử dụng mẫu tự La Tinh dành cho các ngôn ngữ chưa có chữ viết đã được xây dựng và triển khai phổ cập ở những mức độ khác nhau. Từ sau ngày thống nhất đất nước, các công trình nghiên cứu, lý luận và các chính sách đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ra đời ngày càng nhiều.
Trong quá trình đó, việc nghiên cứu các dân tộc trên hai bình diện dân tộc học và ngôn ngữ học luôn luôn liên quan mật thiết với nhau. Các nghiên cứu dân tộc học thường dành một tỷ lệ thích đáng để mô tả ngôn ngữ của dân tộc liên quan. Các công trình nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc cũng thường sử dụng hoặc cung cấp những thông tin dân tộc học liên quan. Do đó, như một quy luật tất yếu, khuynh hướng nghiên cứu liên ngành dân tộc-ngôn ngữ học đã dần dần được hình thành, và có sự đóng góp cả từ hai phía các nhà dân tộc học và các nhà ngôn ngữ học.
Năm 1945, R.F. Spencer đã công bố bài "The Annamese kinship system" ("Hệ thống từ chỉ quan hệ họ hàng trong tiếng An Nam", SJA, 1.284-310, Southwestern Journal of Anthropology, Albuquerque N.N).
Năm 1973, Ján Mucka công bố bài "Kinship system and terminology in Vietnam" ("Hệ thống thân tộc và các từ chỉ quan hệ họ hàng trong tiếng Việt", AASB, 7 : 33-9).
Năm 1978, nhà dân tộc học người Pháp Georges Condominas xuất bản công trình Không gian xã hội vùng Đông Nam Á bằng tiếng Pháp, tập hợp các bài biên khảo do ông thực hiện ở Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1953 đến năm 1976. Hướng tiếp cận chung của công trình này là hướng tiếp cận liên ngành, và nó cho thấy tác giả rất am tường về các "không gian xã hội" mà mình nghiên cứu, trên cả ba bình diện dân tộc học, xã hội học và ngôn ngữ học. Năm 1997, bản tiếng Việt của công trình đặc sắc này đã có mặt ở Việt Nam.
Sau ngày thống nhất đất nước, công tác điều tra cơ bản các dân tộc thiểu số Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn để tiến hành. Và đến năm 1978 và 1984, lần lượt hai công trình Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) và Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) của Viện Dân tộc học đã ra đời. Trong hai công trình đó, một số nhà dân tộc học đã chú ý thu thập và khai thác thông tin liên quan đến văn hoá, lịch sử tiềm tàng trong ngôn ngữ các dân tộc liên quan.
Từ đó đến nay, hướng tiếp cận liên ngành dân tộc-ngôn ngữ học vẫn tiếp tục được một số nhà dân tộc học vận dụng khi khảo sát những vấn đề đòi hỏi những tri thức và phương pháp liên ngành. Chẳng hạn các công trình của Đặng Nghiêm Vạn: "Tên gọi các tộc người ở Việt Nam - một phản ánh xã hội" (Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, 1986), của Mạc Đường: Dân tộc học và vấn đề xác định thành phần dân tộc (1997), của Tạ Đức: Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc - biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn (1999), v.v.
Về phía các nhà ngôn ngữ học, kể từ thập niên 1970, Phạm Đức Dương đã chọn hướng tiếp cận liên ngành để khảo sát các vấn đề ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử của các dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á. Những công trình liên quan đến hướng tiếp cận này của ông có thể kể: "Một số cứ liệu ngôn ngữ về sự thân thuộc giữa các dân tộc thuộc nhóm Tạng Miến ở miền Bắc Việt Nam" (Thông báo Dân tộc học, số 3, 1973); "Về mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt Mường ở miền Tây Quảng Bình" (Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, 1975); "Về ngôn ngữ Tiền-Việt Mường" (cùng với Hà Văn Tấn, Tạp chí Dân tộc học, số 1, 1978); "Về quan hệ Việt Mường - Tày Thái qua tư liệu dân tộc ngôn ngữ học" (Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1978); "Một số vấn đề dân tộc-ngôn ngữ học ở nước ta" (Tạp chí Dân tộc học, số 4, 1978); "Về mối quan hệ nguồn gốc của các ngôn ngữ nhóm Việt Mường" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1979); "Từ vấn đề ngôn ngữ Việt Mường góp phần tìm hiểu nguồn gốc dân tộc" (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1981); "Vấn đề Proto-Việt Mường trong lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại" (Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, 1986); Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á (2000); Bức tranh ngôn ngữ - văn hoá tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á (2007); ...
Đặc biệt, chính nhờ sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành dân tộc-ngôn ngữ học, phối hợp với những tư liệu khảo cổ và thư tịch cổ Việt Nam mà vào năm 1978, Phạm Đức Dương cùng với nhà sử học Hà Văn Tấn trong bài "Về ngôn ngữ Tiền-Việt Mường" (Tạp chí Dân tộc học số 1, 1978) đã xác lập được một giả thiết có tính thuyết phục cao về nguồn gốc hình thành dân tộc Việt và tiếng Việt trên địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Theo đó, khối Tiền-Việt Mường là một trong những nhóm Mon-Khmer cổ nằm ngoài biên của dòng này đã di chuyển xuống đồng bằng Bắc Bộ và tiếp xúc với nhóm Tày cổ, một nhóm ngoài biên về phía Nam của dòng Đồng Thái lúc dó đã phân bố ở quanh vịnh Hà Nội. Quá trình này bắt đầu từ 2000 năm trước Tây lịch, tương ứng với giai đoạn mở đầu của thời đại Hùng Vương trong truyền thuyết của dân tộc Việt.
Về sau này, trong các bài giảng về Văn hoá Đông Nam Á và về Đông Nam Á học Việt Nam tại các trường đại học, Phạm Đức Dương cũng sử dụng cách tiếp cận liên ngành nói trên và nhờ đó đã đem lại những kiến giải sâu sắc, thấu đáo về lịch sử hình thành các dân tộc và các nền văn hoá ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Từ thập niên 1990, lại có thêm một số nhà ngôn ngữ khác tham gia hướng nghiên cứu thú vị này, như Nguyễn Văn Lợi với bài "Tộc danh của một số dân tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên gọi Giao Chỉ" (Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, 1993), Nguyễn Đức Tồn với bài "Nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc qua ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ" (Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, 1993), v.v.
Các công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành của các nhà dân tộc học và ngôn ngữ học đã tạo ra được nền móng ban đầu cho chuyên ngành dân tộc-ngôn ngữ học Việt Nam. Và riêng về phía các nhà ngôn ngữ học thì sự tham gia của họ đã bước đầu đem lại cho ngành ngôn ngữ học Việt Nam một tiếng nói độc lập và có căn cứ đối với việc tìm hiểu văn hoá, lịch sử của các cộng đồng dân tộc.
4. Khuynh hướng văn hoá-ngôn ngữ học (culturolinguistics) hay ngôn ngữ học văn hoá (cultural linguistics)
Khuynh hướng này hình thành trong thập niên 1990 và bước đầu đã tạo lập được một số cơ sở về mặt phương pháp luận cho sự ra đời một môn học hoặc một chuyên ngành mà những người đề xuất gọi là "văn hoá-ngôn ngữ học", "ngôn ngữ học văn hoá", hoặc "ngôn ngữ-văn hoá học".
Đề xuất thành lập môn học mới với tên gọi "văn hoá-ngôn ngữ học" hay "ngôn ngữ học văn hoá" là nhà ngôn ngữ học, văn hoá học Trần Ngọc Thêm, trong các công trình nghiên cứu như: "Đi tìm ngôn ngữ của văn hoá và đặc trưng văn hoá của ngôn ngữ" (Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, 1993), "Ngữ dụng học và văn hoá-ngôn ngữ học" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1999). Theo ông, đây là một môn học nằm ở ranh giới giữa ngôn ngữ học với văn hoá học, và có thể chia thành hai bộ phận: văn hoá-ngôn ngữ học trong phạm vi một dân tộc, và văn hoá-ngôn ngữ học trong phạm vi nhiều dân tộc.
Năm 2000, nhà từ vựng - ngữ nghĩa Đỗ Hữu Châu, trong bài "Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 10-2000), cũng vạch ra "một đề cương phương pháp luận" chưa đầy đủ cho việc nghiên cứu "ngôn ngữ-văn hoá học". Theo ông, mỗi từ ngữ cố định của ngôn ngữ, của tiếng Việt là một tên gọi của một yếu tố của văn hoá. Mỗi từ, mỗi ngữ cố định tự mình là một yếu tố của văn hoá. Và ông cũng phác thảo các phương pháp giúp phát hiện ra các hiểu biết văn hoá trong ngữ nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ.
Cũng thuộc khuynh hướng này là Nguyễn Văn Chiến, với các công trình như: "Danh từ thân tộc Việt trong hai loại hình ngôn ngữ đối chiếu: Khơme, Lào và Nga, Tiệp, Anh" (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1992), "Nước - một biểu tượng văn hoá đặc thù trong tâm thức người Việt và từ nước trong tiếng Việt (Nghiên cứu Ngôn ngữ - Văn hoá học)" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 15/2002), v.v.
Đặc sắc nhất trong số đó là công trình Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt (Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá) (2004). Trong cuốn sách dày 356 trang, chia làm sáu chương này, Nguyễn Văn Chiến đã khảo sát tương đối toàn diện cả về mối quan hệ "văn hoá và ngôn ngữ", và về việc "tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt". Mỗi chương sách đều đem lại những phát hiện mới hoặc tổng hợp, hệ thống hoá những phát hiện đã có mà tác giả thu thập được trong quá trình nghiên cứu về "ngôn ngữ-văn hoá học" và về vốn từ vựng văn hoá Việt. Chẳng hạn trong Chương hai khảo sát về "Các từ biểu thị mô hình kinh tế - xã hội lúa nước cổ truyền Việt Nam", tác giả đã xác lập được 21 nhóm từ biểu thị mô hình kinh tế - xã hội lúa nước cổ truyền của người Việt: tên gọi cây lúa, tên gọi các bộ phận cây lúa, các giống lúa, thời vụ canh tác, hệ thống canh tác, hệ thống thuỷ lợi, công đoạn canh tác, cách thức làm sạch lúa, kỹ thuật gieo trồng, kỹ thuật làm sạch lúa, cách thức xử lý đất trồng (công việc), kỹ thuật xử lý đất trồng (động tác), quá trình chế biến từ cây lúa đến các món ăn cơ bản, các sản phẩm từ cây lúa, các món ăn chế biến từ cây lúa, quá trình nấu / chế biến gạo thành cơm, những yếu tố cần thiết cho nghề trồng lúa, tên vật nuôi gắn bó với nghề trồng lúa, những khái niệm về cơ cấu cây trồng, cơ cấu bữa ăn của cư dân nông nghiệp lúa nước cổ truyền Việt Nam, phức hợp sản xuất nông nghiệp lúa nước. Mỗi nhóm từ như vậy lại bao gồm nhiều tiểu nhóm. Mặc dù tác giả đã nhầm khi cho rằng mô hình kinh tế - xã hội lúa nước cổ truyền Việt Nam là một vấn đề mà "chưa một ai làm sáng tỏ nó trên cứ liệu và theo tinh thần nghiên cứu ngôn ngữ - văn hoá học", và việc phân loại trên đây cũng có chỗ cần xem lại, nhưng bản danh mục rất dài mà tác giả đưa ra đã góp phần chứng minh sự gắn bó mật thiết và vốn hiểu biết phong phú, tinh tế, sâu sắc của người Việt đối với cây lúa và nghề trồng lúa. Tóm lại, có thể nói đây cũng là một công trình có vị trí quan trọng trên cả hai phương diện phương pháp luận và ứng dụng đối với việc nghiên cứu nội dung phản ánh văn hoá, lịch sử của từ vựng các ngôn ngữ ở Việt Nam.
Cũng có thể xếp vào khuynh hướng ngôn ngữ học văn hoá là một số công trình khác, như Từ vựng và đặc trưng từ vựng tiếng Bru (Vân Kiều) (Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, 1997), "Ngôn ngữ học văn hoá với nhiệm vụ tìm hiểu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc" (Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục, 1999) của Lý Tùng Hiếu; Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hoá Việt Nam (luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, 1997) của Nguyễn Thị Thanh Phượng, v.v.
5. Khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics) và nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology)
Thời kỳ 1954-1975, khoa nhân chủng học (anthropology) đã được giới thiệu ở Việt Nam, trên cả hai miền Nam Bắc. Có công giới thiệu ngành khoa học này ở miền Nam là Giáo sư Bửu Lịch, với các công trình xuất bản ở Sài Gòn như Vấn đề thân tộc (1966), Nhân chủng học và Lược khảo thân tộc học (1970). Từ năm 1968, nhân chủng học đã được đưa vào giảng dạy tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Phân khoa Khoa học Xã hội của Viện Đại học Vạn Hạnh. Trong công trình Nhân chủng học và Lược khảo thân tộc học (1970) dài 448 trang, Bửu Lịch đã trình bày chi tiết không những về đối tượng, phương pháp của nhân chủng học, mà cả về ngôn ngữ và ngôn ngữ học, nhằm "mục-đích giải-thích thêm vị-trí đặc-biệt của Ngữ-học đối với Nhân-chủng-học, nhất là theo quan-điểm của Sapir và Lévi-Strauss". Tính chất liên ngành trong phương pháp tiếp cận của công trình này rất rõ, và đây có thể xem là công trình mở đường về phương pháp luận của ngôn ngữ học nhân học và nhân học ngôn ngữ Việt Nam.
Một số nhà ngôn ngữ học thuộc Viện Ngữ học Mùa hè của Mỹ cũng có bài biên khảo về văn hoá các dân tộc thiểu số ở miền Nam từ góc độ liên ngành, như John D. Miller nghiên cứu về "Bru kinship" ("Quan hệ thân tộc Bru", Southeast Asia, số 2/1972), E. Fuller nghiên cứu về "Cross-cousin marriage and Chru Kinship terminology" ("Hôn nhân giữa anh chị em họ và thuật ngữ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Chru", Notes from Indochina on ethnic minority cultures, 1980), v.v.
Một số nhà nghiên cứu người Việt cũng theo hướng tiếp cận liên ngành nhằm mục đích ứng dụng như trên. Tiêu biểu là Bình Nguyên Lộc với cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (1971), xuất bản ở Sài Gòn. Trong cuốn sách dày 894 trang này, tác giả có một nỗ lực đáng ghi nhận là vận dụng khá nhiều tư liệu nhân chủng học, khảo cổ học, sử học và đặc biệt là tư liệu ngôn ngữ học mà mình tích luỹ được để cố gắng truy tìm cội nguồn của dân tộc Việt trong nhóm Indonésien mà ông gọi là nhóm Mã Lai. Những điểm hạn chế của công trình này là tư liệu không đầy đủ, phương pháp nghiên cứu không rõ ràng, lẫn lộn giữa hai bình diện ngôn ngữ học và nhân chủng học.
Ở miền Bắc, thành tựu nhân chủng học trong giai đoạn này cũng rất phong phú, cả trên hai phương diện lý thuyết và ứng dụng. Nổi bật là các công trình nghiên cứu của Nguyễn Đình Khoa mà số lượng lên đến hàng chục cuốn sách và bài báo: "Giới thiệu đại thể ngành nhân học" (Tin tức Hoạt động Khoa học, Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, số 7-1964); Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam - Dẫn liệu nhân chủng học (1976), v.v. Đặc biệt là công trình Nhân chủng học Đông Nam Á (1983), dài 216 trang, cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về đối tượng, phạm vi nghiên cứu các cứ liệu, phương pháp tiếp cận, và những kiến giải mới về mặt nhân chủng học, góp phần vào việc nghiên cứu cội nguồn lịch sử cư dân và các dân tộc ở Đông Nam Á. Hạn chế trong công trình này cũng như các công trình khác của Nguyễn Đình Khoa là không phối hợp các tư liệu và phương pháp nhân chủng học, khảo cổ học với các tư liệu và phương pháp ngôn ngữ học để giải quyết các vấn đề theo phương thức tiếp cận liên ngành.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học và nhân học ngôn ngữ đã bị gián đoạn khá lâu. Phải đến cuối thập niên 1990, hướng nghiên cứu này mới được chú ý trở lại. Một số công trình nghiên cứu liên quan của nước ngoài đã được biên dịch và giới thiệu đến người đọc, như bài "Giới thiệu giả thuyết ‘Tính tương đối ngôn ngữ' của Sapir-Whorf" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1999) của Lý Toàn Thắng, cuốn Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành (2006) do Vũ Thị Thanh Hương và Hoàng Tử Quân biên dịch, v.v.
Tiếp nối các thành tựu đó, từ năm 2000, Lý Tùng Hiếu đã xúc tiến một số công trình nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng theo hướng phối hợp tư liệu và phương pháp của các ngành ngôn ngữ học, nhân học, khảo cổ học, sử học..., trên cơ sở ngôn ngữ học. Các công trình nghiên cứu theo hướng liên ngành nói trên gồm có:
- "Vấn đề ý thức họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh ở các dân tộc Sedang, Bahnar, Brũ, Việt - tiếp cận từ nhân loại-ngôn ngữ học" ("The problems of family line conciousness, clan name, and last name in the Sedang, Bahnar, Brũ, and Viet ethnic groups - an anthropological-linguistic approach", Kỷ yếu Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á, 2000; Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc, 2002).
- "Nhân học ngôn ngữ học ở Việt Nam - quá trình hình thành, đối tượng và phương pháp" (Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ Đổi mới, 2003).
- "Hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở của các dân tộc Mon-Khmer, từ góc nhìn ngôn ngữ học nhân học" (Hội thảo khoa học "Tiếng Việt - tiếp xúc ngôn ngữ, giao lưu văn hoá", 2006; Tập san Ngoại ngữ - Tin học & Giáo dục, Trường Đại học Dân lập Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh, số 9 bộ mới, 2007).
- Đặc điểm về cấu tạo từ và về văn hoá Brũ và Việt qua sự so sánh từ vựng của hai ngôn ngữ này (Luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu, 2007).
Tính cho đến trước khi công trình nghiên cứu này được tiến hành thì luận án tiến sĩ Đặc điểm về cấu tạo từ và về văn hoá Brũ và Việt qua sự so sánh từ vựng của hai ngôn ngữ này nói trên là công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt khảo sát sâu hơn cả về quá trình nghiên cứu văn hoá, lịch sử bằng ngôn ngữ học trên thế giới và ở Việt Nam, cũng như về các đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu mà chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học có thể vận dụng để nghiên cứu các ngôn ngữ và các nền văn hoá ở Việt Nam. Về mặt ứng dụng, luận án đã cung cấp ngữ liệu và biện luận để làm rõ hai nhân tố chính của nền văn hoá truyền thống phản ánh trong từ vựng Brũ là tổ chức xã hội (lấy thị tộc - buôn làm cấu trúc nền) và hoạt động kinh tế (phát triển nông nghiệp lúa rẫy, tự cung cấp là chính, thương mại và đo lường còn sơ khai); cung cấp ngữ liệu, biện luận và thông qua so sánh với tiếng Brũ để làm rõ hai nhân tố chính của nền văn hoá truyền thống phản ánh trong từ vựng tiếng Việt là tổ chức xã hội (lấy dòng họ - làng làm cấu trúc nền) và cơ sở kinh tế (phát triển nông nghiệp lúa nước và thương mại); so sánh và chứng minh sự tương đồng về tổ chức xã hội (dòng họ - buôn làng) và hoạt động kinh tế (nông nghiệp trồng lúa) giữa các nhóm Katuic và Việt-Chứt, là cơ sở tạo nên tiềm năng hoà hợp giữa các nhóm này, vượt trên những khác biệt do tiến hoá và tiếp xúc văn hoá về sau. Tuy nhiên, do thông tin, tư liệu chưa đầy đủ, công trình này vẫn còn một số điểm hạn chế, chẳng hạn về việc đánh giá sự đóng góp của các nhà khoa học của thế giới và Việt Nam trong lãnh vực này, về việc đề xuất các đối tượng và phương pháp nghiên cứu mà chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học cần vận dụng để nghiên cứu các ngôn ngữ và các nền văn hoá ở Việt Nam.
Đồng thời với sự ra đời của các công trình nghiên cứu và dịch thuật, việc đào tạo về ngôn ngữ học nhân học cũng đã được khởi động ở Việt Nam. Ngày 23/10/2007, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã ký các Quyết định ban hành khung chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ngôn ngữ học, trong đó "Một số vấn đề hiện đại của ngôn ngữ học nhân học" và các môn học khác liên quan đến ngôn ngữ học nhân học đã trở thành những môn học lựa chọn thuộc khối kiến thức cơ sở và chuyên ngành của các bậc học trên. Hiện nay Trường Đại học Dân lập Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh cũng đang có kế hoạch đưa ngôn ngữ học nhân học thành một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo cao học về ngôn ngữ học mà trường này dự định tổ chức trong thời gian tới.
Theo cỗ máy dò tìm Google ngày 12/2/2008, hiện nay có 4 địa chỉ trên Internet cung cấp thông tin về từ khoá "ngôn ngữ học nhân học" bằng tiếng Việt, trong đó một địa chỉ liên quan đến luận án tiến sĩ nói trên, và ba địa chỉ liên quan đến các chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ngôn ngữ học của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Gần như song hành với sự hình thành hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học, hướng nghiên cứu nhân học ngôn ngữ cũng được khởi động cùng với việc thành lập các khoa và bộ môn nhân học ở Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh vào cuối thập niên 1990. Đóng góp đáng kể vào quá trình này là Giáo sư Lương Văn Hy, Chủ nhiệm Khoa Nhân học Đại học Toronto, Canada. Không chỉ mang về Việt Nam nhiều tài liệu nhân học giá trị, vào năm 2000, Giáo sư Lương Văn Hy còn chủ biên và xuất bản cuốn Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt, một công trình phản ánh đúng hướng quan tâm của chuyên ngành nhân học ngôn ngữ là khảo sát vị trí của ngôn ngữ trong đời sống của các cộng đồng người. Một số sách biên khảo, sách giáo khoa về nhân học trong đó có nội dung nói về vai trò của ngôn ngữ và ngôn ngữ học, đã được các khoa và bộ môn nhân học ở Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh biên soạn và dịch thuật. Chẳng hạn cuốn Một số vấn đề về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu nhân học (NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2006) của nhiều tác giả, do Vũ Thị Phương Anh, Phan Ngọc Chiến, Hoàng Trọng dịch từ nguyên bản tiếng Anh.
Cùng với việc nghiên cứu, biên soạn và dịch thuật, việc giảng dạy chuyên ngành nhân học ngôn ngữ cũng được triển khai tại các khoa và bộ môn nhân học ở Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, ở hai cấp đại học và cao học, do Giáo sư Lương Văn Hy và một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam phụ trách.
Theo cỗ máy dò tìm Google ngày 12/2/2008, hiện nay có 290 địa chỉ trên Internet cung cấp thông tin về từ khoá "nhân học ngôn ngữ" bằng tiếng Việt.
Là những chuyên ngành khoa học tương đối mới ở Việt Nam, cả hai hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học và nhân học ngôn ngữ đều đang gặp phải nhiều vấn đề khó cần giải quyết. Về mặt nghiên cứu, khó khăn hiện nay là: (1) Tình trạng thiếu thốn tư liệu, vì những tư liệu liên quan đã biên dịch và xuất bản thì số lượng không nhiều, còn nguồn tư liệu trên Internet thì đòi hỏi rất nhiều thời gian chọn lọc, biên dịch và tổng hợp. (2) Tình trạng không thống nhất về danh pháp và về ranh giới khả hữu giữa ngôn ngữ học nhân học với nhân học ngôn ngữ, cả trong quan niệm và trong thực tế nghiên cứu, giảng dạy của một số nhà khoa học Việt Nam.
Về mặt đào tạo, khó khăn hiện nay là: (1) Các nhà nhân học, dân tộc học Việt Nam và các sinh viên, học viên cao học theo đuổi hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học hoặc nhân học ngôn ngữ vốn không được trang bị những kiến thức chính quy về ngôn ngữ và ngôn ngữ học, nên rất khó tiếp thu và vận dụng các tri thức, phương pháp của ngôn ngữ học. (2) Với vị thế đang lên của nó, chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học cần phải được triển khai giảng dạy ở các khoa ngôn ngữ học, Việt ngữ học chứ không chỉ ở các khoa nhân học, dân tộc học, nhưng do các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và các sinh viên, học viên cao học theo đuổi hướng nghiên cứu này vốn không được trang bị những kiến thức chính quy về nhân học và dân tộc học, nên cũng khó tiếp thu và vận dụng các tri thức, phương pháp của nhân học và dân tộc học.
6. Những công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá nhưng không thuộc các khuynh hướng nêu trên
Trên đây là kết quả phân loại trong khả năng hiểu biết của chúng tôi đối với các công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ở Việt Nam, nhằm cung cấp một cái nhìn có tính hệ thống về lịch sử hình thành và về các nguồn dưỡng chất mà chuyên ngành ngôn ngữ học nhân học Việt Nam cần tiếp nhận để trưởng thành. Tuy nhiên, không phải tất cả các công trình nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá đã được phân loại hết. Thực tế vẫn còn rất nhiều công trình khác không thể hoặc không cần thiết phải xếp vào khuynh hướng này hay khuynh hướng nọ, nhưng cũng là những công trình nghiên cứu liên ngành hữu ích mà những người theo đuổi hướng nghiên cứu ngôn ngữ học nhân học không thể bỏ qua.
Xét theo nội dung, các công trình nghiên cứu loại này có thể tạm chia thành ba tiểu nhóm:
(1) Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá, đặc trưng văn hoá dân tộc trong các ngôn ngữ cụ thể:
- Hồng Dân. 1983. "Tiếng Việt với những cơ sở của nền văn hoá truyền thống Việt Nam", Tập san Thông báo Khoa học (phần khoa học xã hội), Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, số 1/1983.
- Nguyễn Kim Thản. 1983. Tiếng Việt của chúng ta. NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Tuyết Ngân. 1993. "Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong các lối chửi của người Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1993.
- Nhiều tác giả. 1993. Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá. Hà Nội: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam & Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
- Hoàng Anh Thi. 1995. "Một số đặc điểm văn hoá Nhật - Việt qua việc khảo sát hệ thống từ xưng hô", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1995.
- Hoàng Tuệ. 1996. Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hoá. NXB Giáo dục.
- Nguyễn Văn Khang chủ biên. 1996. Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt. Hà Nội: NXB Văn hoá - Thông tin.
- Hữu Đạt. 2000. Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt. Hà Nội: NXB Văn hoá - Thông tin.
- Đỗ Thị Bích Lài. 2000. "Ngữ cảnh, bối cảnh giao tiếp và vấn đề ngôi, số trong tiếng Việt (khảo sát qua lớp từ xưng hô)", Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, số đặc biệt Kỷ yếu tập II Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á, số 15/2000.
- Nguyễn Thanh Tùng. 2000. "Research on the cultural and linguistic characteristics of words for plants and animals in Vietnamese (compared with English)", Kỷ yếu Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 16-17/11/2000.
- Trần Trí Dõi. 2001. Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội. NXB Văn hoá Thông tin.
- Trịnh Thị Kim Ngọc. 2002. "Tiềm năng ngôn ngữ trong nghiên cứu con người và văn hoá", Tạp chí Ngôn ngữ, số 14/2002.
- Nguyễn Đức Tồn. 2002. Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác). Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Tùng. 2003. Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của nhóm từ chỉ động thực vật tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), luận văn tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Độ. 2004. Tìm hiểu mối liên hệ ngôn ngữ - văn hoá. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thiện Giáp. 2005. "Việc nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc của tiếng Việt", Lược sử Việt ngữ học, tập một. NXB Giáo dục.
- Mai Thị Kiều Phượng. 2006. "Đặc trưng văn hoá dân tộc trong nghĩa hàm ẩn của phát ngôn hỏi khi giao tiếp mua bán bằng tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 9 (208)/2006.
- V.v.
(2) Nghiên cứu ứng dụng các tri thức về đặc trưng văn hoá dân tộc trong ngôn ngữ vào lãnh vực dạy tiếng:
- Bùi Khánh Thế. 1999. "Bản sắc văn hoá - tiếp cận từ ngôn ngữ học", Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục. TP. Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trịnh Thị Kim Ngọc. 1999. Ngôn ngữ và văn hoá: Tri thức nền và việc giảng dạy tiếng nước ngoài. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
- Phạm Thị Hoà. 2008. "Dạy thành tố văn hoá trong dạy - học ngoại ngữ", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 3 (149) - 2008.
- V.v.
(3) Nghiên cứu địa danh và nhân danh:
- Lê Trung Hoa. 1991, 2003. Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh). NXB Khoa học Xã hội.
- Bùi Đức Tịnh. 1999. Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ. TP. Hồ Chí Minh: NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Âu. 2000. Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Lê Trung Hoa. 2002, 2005. Họ tên người Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội.
- Lê Trung Hoa. 2002, 2005. Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học. NXB Khoa học Xã hội.
- Từ Thu Mai. 2004. Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ các dân tộc Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trần Văn Dũng. 2004. Những đặc điểm chính của địa danh ở Dak Lăk, luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành lý luận ngôn ngữ, Trường Đại học Vinh, TP. Vinh.
- Tôn Nguyệt Hoa. 2005. Tên hay kèm điều tốt. NXB Văn hoá Dân tộc.
- Lê Trung Hoa. 2006. Địa danh học Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội.
- V.v.
Đây là những tài liệu có giá trị cả về mặt lý thuyết và ứng dụng đối với việc nghiên cứu các ngôn ngữ và các nền văn hoá ở Việt Nam từ góc độ liên ngành. Xin giới thiệu một vài tài liệu trong số đó.
Bài "Tiếng Việt với những cơ sở của nền văn hoá truyền thống Việt Nam" (TS Thông báo Khoa học (phần khoa học xã hội), Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, số 1/1983) của Hồng Dân là một công trình nghiên cứu súc tích. Bằng cách tập hợp và phân tích các nhóm từ ngữ được dùng làm tên gọi các giống lúa, các thời kỳ phát triển, các bộ phận của cây lúa, các sản vật chế biến từ lúa gạo, các từ ngữ xưng hô và cách xưng hô... vốn rất phong phú trong tiếng Việt, tác giả đã làm sáng tỏ hai cơ sở chủ yếu của nền văn hoá truyền thống Việt Nam: một là truyền thống văn hoá nông nghiệp trồng lúa nước, và hai là tinh thần gia đình như một nhân tố trung tâm quán xuyến trong hầu hết các mối quan hệ xã hội, phát triển cùng với quá trình hình thành cơ cấu gia đình - họ hàng - làng xã - quốc gia của dân tộc Việt. Được đăng tải năm 1983, có thể nói đây là một trong những công trình nghiên cứu sớm nhất vận dụng tri thức ngôn ngữ học để nghiên cứu nền văn hoá của dân tộc Việt.
Cuốn Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá do Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội xuất bản năm 1993, là một vựng tập các tham luận của các nhà ngôn ngữ học và một số nhà sử học, dân tộc học tham dự cuộc Hội thảo khoa học cùng tên do hai cơ quan trên tổ chức một năm trước đó: Nguyễn Lai, Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Văn Lợi, Hoàng Cao Cương, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Chí Hoà, Đào Thản, Dương Kỳ Đức, N.V. Xtankevich, Phan Mậu Cảnh, Nguyễn Thị Tuyết Ngân, Hoàng Tuệ, Vương Toàn, Võ Xuân Trang, Tạ Văn Thông, Trương Đông San, Nguyễn Ngọc Hùng, Bùi Khánh Thế, Hoàng Anh Thi, Nguyễn Văn Chiến, Hà Văn Tấn, Lê Sĩ Giáo... Với nội dung chính là thảo luận về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá và việc nghiên cứu những đặc trưng văn hoá dân tộc qua ngôn ngữ, có thể nói đây là một công trình đánh dấu bước phát triển mới của các khuynh hướng tiếp cận văn hoá, lịch sử bằng con đường ngôn ngữ học ở Việt Nam trong thập niên 1990.
Cuốn Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) dày 392 trang, xuất bản năm 2002, là một công trình nghiên cứu đặc biệt công phu, đúc kết thành quả nghiên cứu, giảng dạy và hướng dẫn khoa học nhiều năm của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Đức Tồn. Được tiến hành theo hướng lý thuyết tâm lý ngôn ngữ học tộc người, nội dung của cuốn sách là tìm hiểu về đặc trưng văn hoá - dân tộc của sự phạm trù hoá và định danh thế giới khách quan, của ngữ nghĩa và tư duy ngôn ngữ ở người Việt, có so sánh với những dân tộc khác, trên cơ sở một số trường từ vựng ngữ nghĩa cơ bản. Có thể nói đây là một công trình đặc sắc, góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và cung cấp tri thức về đặc trưng văn hoá dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ và tư duy người Việt.
Bài "Đặc trưng văn hoá dân tộc trong nghĩa hàm ẩn của phát ngôn hỏi khi giao tiếp mua bán bằng tiếng Việt" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 9 (208)/2006) của Mai Thị Kiều Phượng là kết quả của một công trình khảo sát điền dã ngôn ngữ học sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành. Qua khảo sát 500 cuộc thoại thu âm được ở một số chợ tại Hà Nội, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh có sử dụng câu hỏi khi mua bán, tác giả cho biết 80% các câu hỏi khi mua bán đều có sử dụng các danh từ thân tộc để xưng hô. Trong một cuộc thoại mua bán việc xưng hô có thể được sử dụng nhiều lần, mỗi lần có thể có sự thay đổi từ ngữ xưng hô tuỳ theo chiến lược giao tiếp. Kết quả cụ thể: khi xưng có đến 86% trường hợp (430/500) người ta sử dụng các danh từ thân tộc thuộc hàng dưới hoặc bậc dưới như em, con, cháu, còn lại mới dùng các danh từ thuộc hàng trên như bác (bác gái, 6%, 30/500), thím (4,6%, 23/500), me, bu, má, u, bầm, mạ, mệ, mợ (4%, 20/500), cậu (3%, 15/500), bố, ba, cha, thầy, tía, bọ (2,4%, 12/500), mợ (1,8%, 9/500), dượng (0,06%, 3/500); còn khi gọi có đến 40,4% (202/500) trường hợp dùng các danh từ thân tộc thuộc hàng trên hoặc bậc trên như chị, cô, o, dì, còn lại mới dùng em, con, cháu (14%, 70/500), bà (10%, 50/500), anh, bác, chú (7,2%, 36/500), ông (4%, 20/500), và đặc biệt có 2% (10/500) dùng ngoại, nội. Những kết luận này tuy không mới, nhưng nó đã đem lại những chứng cứ ngôn ngữ học thuyết phục về các quy tắc xưng hô của người Việt mà một số công trình nghiên cứu trước đó đã nêu ra. Do đó, công trình này đã chứng tỏ hiệu quả của việc nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở ngôn ngữ học kết hợp với tri thức và phương pháp của các ngành khoa học tiếp giáp.
{
Tóm lại, căn cứ vào những tư liệu thu thập được, có thể phân chia lãnh vực nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá ở nước ta thành một số khuynh hướng, tương ứng với các chuyên ngành khoa học mà sự hình thành chính thức thường diễn ra rất muộn về sau: khuynh hướng ngôn ngữ học tiếp xúc hay khuynh hướng tiếp cận dựa trên lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ, khuynh hướng dân tộc-ngôn ngữ học, khuynh hướng văn hoá-ngôn ngữ học hay ngôn ngữ học văn hoá, khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học và nhân học ngôn ngữ. Ngoài ra còn có nhiều công trình khác nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, với đối tượng và phương pháp ít nhiều có tính chất liên ngành, nhưng không thuộc các khuynh hướng nêu trên.
Trong số đó, khuynh hướng ngôn ngữ học nhân học đã được phôi thai từ thập niên 1970 và được quan tâm trở lại từ cuối thập niên 1990, nhưng vẫn đang trong giai đoạn hình thành chứ chưa thật sự trở thành một chuyên ngành khoa học.
Việc phân giới giữa ngôn ngữ học nhân học với các khuynh hướng, chuyên ngành tương cận nói trên như thế nào, là tuỳ theo quan điểm, mục đích phân loại của nhà nghiên cứu hoặc người tổng thuật. Nếu lấy nguồn gốc và danh xưng làm trọng, người ta buộc phải tách rời các khuynh hướng, chuyên ngành tương cận ấy ra, vì chúng có nhiều chỗ khác nhau. Theo đó, không thể xem khuynh hướng, chuyên ngành dân tộc-ngôn ngữ học như một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ học nhân học hiện đại. Cũng không thể xem nhân học ngôn ngữ và ngôn ngữ học nhân học chỉ là hai tên gọi khác nhau của cùng một khuynh hướng, chuyên ngành, v.v.
Ngược lại, nếu như lấy nội dung, lấy những điểm chung về mục đích, đối tượng và phương pháp làm trọng, người ta vẫn có thể, trong khi theo đuổi một khuynh hướng, chuyên ngành nhất định, tiếp thu những tinh hoa của các khuynh hướng, chuyên ngành tương cận để bổ sung, phát triển hướng nghiên cứu của mình. Quả nhiên, cho dù nguồn gốc, đối tượng, phương pháp, thuật ngữ có chỗ khác biệt thì giữa các nhà khoa học liên quan đến lãnh vực nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hoá ở nước ta vẫn có những điểm chung cơ bản. Chẳng hạn, quan niệm xem ngôn ngữ vừa là một thành tố văn hoá vừa là một phương tiện chuyển tải bản sắc văn hoá của cộng đồng nói ngôn ngữ ấy. Trên cơ sở đó, ngôn ngữ mới được xem là một nguồn sử liệu quý báu để nghiên cứu văn hoá, lịch sử các dân tộc và các cộng đồng người, v.v.
Như đã nêu, trong công trình này, chúng tôi theo quan điểm thứ hai.
Nguồn: Tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng Việt
1. Belik, A.A. 1998. "Nhân học là gì", Bách khoa thư văn hoá học thế kỷ XX, của A.A. Belik & L.P. Voronkova, Saint-Peterburg. Từ Thị Loan dịch. http://www.vanhoanghethuat.org/.vn, 9/12/2005.
2. Bình Nguyên Lộc. 1971. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Sài Gòn: Bách Bộc. 894 trang.
3. Brown, Roger & Gilman, Allbert. 1960. "The pronouns of power and solidarity", Style in language, Sebeok T.A. chủ biên, MIT Press, tr. 253-276. Bản dịch của Vũ Thị Thanh Hương & Hoàng Tử Quân. 2006. "Đại từ chỉ quyền lực và thân hữu", Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành. Hà Nội: NXB Thế giới, tr. 224-249.
4. Bùi Đức Tịnh. 1999. Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ. TP. Hồ Chí Minh: NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. 108 trang.
5. Bùi Khánh Thế. 1979. "Một vài cứ liệu về song ngữ và vấn đề nghiên cứu song ngữ ở Việt Nam". Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1979.
6. Bùi Khánh Thế. 1986. "Một vài giả thuyết về các trạng thái biến đổi ngôn ngữ ở khu vực Đông Dương (vấn đề và triển vọng)", Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
7. Bùi Khánh Thế. 1993. "Ngôn ngữ văn hoá các dân tộc thiểu số từ góc nhìn quan hệ ngôn ngữ ở Việt Nam", Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số phía Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Bùi Khánh Thế. 1995. Nhập môn ngôn ngữ học. NXB Giáo dục.
9. Bùi Khánh Thế. 1999. "Bản sắc văn hoá - tiếp cận từ ngôn ngữ học", Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục. TP. Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 552-564.
10. Bùi Khánh Thế. 2005. "Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam (trường hợp TP. Hồ Chí Minh)", Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội.
11. Bùi Khánh Thế. 2005. "Tiếp xúc ngôn ngữ và việc vận dụng tiêu chuẩn về đặc trưng ngôn ngữ trong khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc ở Việt Nam", Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội.
12. Bùi Khánh Thế. 2006. "Từ ngòi bút sắt đến chiếc máy tính và những vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay". Tạp chí Khoa học Xã hội, số 08 (96) - 2006, tr. 27-37.
13. Bửu Lịch. 1966. Vấn đề thân tộc. Sài Gòn: Viện Khảo cổ.
14. Bửu Lịch. 1970. Nhân chủng học và Lược khảo thân tộc học. Sài Gòn: NXB Lửa thiêng. 448 trang.
15. Condominas, Georges. 1997. Không gian xã hội vùng Đông Nam Á. Nguyên tác tiếng Pháp xuất bản năm 1978, bản địch của Ngọc Hà & Thanh Hằng & Hồ Hải Thuỵ. Hà Nội: NXB Văn hoá.
16. Đặng Nghiêm Vạn. 1986. "Tên gọi các tộc người ở Việt Nam - một phản ánh xã hội", Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
17. Đặng Nghiêm Vạn. 1991. "Cảm nghĩ về A.G. Haudricourt và G. Condominas". Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1991, tr. 8-12.
18. Đặng Nghiêm Vạn. 2003. Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 400 trang.
19. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên & Ngô Văn Lệ & Nguyễn Văn Tiệp. 1998. Dân tộc học đại cương. NXB Giáo dục. 256 trang.
20. Đỗ Hữu Châu. 2000. "Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ", Tạp chí Ngôn ngữ, số 10-2000.
21. Đỗ Thị Bích Lài. 2000. "Ngữ cảnh, bối cảnh giao tiếp và vấn đề ngôi, số trong tiếng Việt (khảo sát qua lớp từ xưng hô)", Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, số đặc biệt Kỷ yếu tập II Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á, số 15/2000.
22. Hoàng Anh Thi. 1995. "Một số đặc điểm văn hoá Nhật - Việt qua việc khảo sát hệ thống từ xưng hô", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1995.
23. Hoàng Phê chủ biên. 1998. Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 6. Hà Nội & Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học.
24. Hoàng Tuệ. 1991. "André Georges Haudricourt, cuộc hành trình khoa học gian khó và phong phú để hiểu con người". Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1991, tr. 2-7.
25. Hoàng Tuệ. 1996. Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hoá. NXB Giáo dục.
26. Hồ Chí Minh. 2000. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, 1930-1945, xuất bản lần thứ hai. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
27. Hồng Dân. 1983. "Tiếng Việt với những cơ sở của nền văn hoá truyền thống Việt Nam", Tập san Thông báo Khoa học (phần khoa học xã hội), Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, số 1/1983.
28. Hữu Đạt. 2000. Văn hoá và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt. Hà Nội: NXB Văn hoá - Thông tin. 196 trang.
29. Jakhontov, S.E. 1973. "Về sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam châu Á". Nguyên bản tiếng Nga, bản dịch Nguyễn Văn Lợi. Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1991, tr. 73-77.
30. Kay, Paul & Kempton, Willett. 1984. "What is the Sapir-Whorf Hypothesis?", American Anthropologist, 86, American Anthropological Association, tr. 65-79. Bản dịch của Vũ Thị Thanh Hương & Hoàng Tử Quân. 2006. "Thế nào là giả thuyết Sapir-Whorf?", Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành. Hà Nội: NXB Thế giới, tr. 34-53.
31. Lévi-Strauss, Claude. 1952. Chủng tộc và Lịch sử, UNESCO xuất bản năm 1952, NXB Denoel tái bản năm 1987. Bản dịch của Huyền Giang. 1996. Hà Nội: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
32. Lê Đức Trọng. 1993. Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Việt - Anh - Pháp - Nga). NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Lê Sỹ Giáo chủ biên. 1995. Dân tộc học đại cương. NXB Giáo dục.
34. Lê Trung Hoa. 1991, 2003. Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh). NXB Khoa học Xã hội. 184 trang.
35. Lê Trung Hoa. 2002, 2005. Họ tên người Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội. 300 trang.
36. Lê Trung Hoa. 2002, 2005. Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học. NXB Khoa học Xã hội. 300 trang.
37. Lê Trung Hoa. 2006. Địa danh học Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội. 312 trang.
38. Lucy, John A. 1996. "The scope of linguistic relativity: an analysis and review empirical research", Rethinking linguistic relativity, John J. Gumperz & Stephen C. Levinson chủ biên, Cambridge University Press, tr. 37-69. Bản dịch của Vũ Thị Thanh Hương & Hoàng Tử Quân. 2006. "Phạm vi vấn đề tính tương đối ngôn ngữ: phân tích và đánh giá những nghiên cứu thực nghiệm", Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành. Hà Nội: NXB Thế giới.
39. Lương Văn Hy chủ biên. 2000. Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội.
40. Lý Toàn Thắng. 1999. "Giới thiệu giả thuyết ‘Tính tương đối ngôn ngữ' của Sapir-Whorf", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1999, tr. 23-31.
41. Lý Toàn Thắng. 2002. Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại cương. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. 444 trang.
42. Lý Tùng Hiếu. 1997. Từ vựng và đặc trưng từ vựng tiếng Bru (Vân Kiều), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
43. Lý Tùng Hiếu. 1999. "Ngôn ngữ học văn hoá với nhiệm vụ tìm hiểu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc", Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục. TP. Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
44. Lý Tùng Hiếu. 2000, 2002. "Vấn đề ý thức họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh ở các dân tộc Sedang, Bahnar, Brũ, Việt - tiếp cận từ nhân loại-ngôn ngữ học" ("The problems of family line conciousness, clan name, and last name in the Sedang, Bahnar, Brũ, and Viet ethnic groups - an anthropological-linguistic approach"), Kỷ yếu Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 16-17/11/2000, tr. 113-115 (tóm tắt); Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc, NXB Khoa học Xã hội, 2002, tr. 269-305 (toàn văn).
45. Lý Tùng Hiếu. 2002. "Xây dựng và phát triển các khoa học liên ngành bậc đại học và sau đại học để thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Liên kết và hợp tác để phát triển giáo dục đại học tại thành phố Hồ Chí Minh, do Uỷ ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh tổ chức, TP. Hồ Chí Minh, 10/10/2002, trang 201-205.
46. Lý Tùng Hiếu. 2003. "Nhân học ngôn ngữ học ở Việt Nam - quá trình hình thành, đối tượng và phương pháp", Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ Đổi mới, NXB Khoa học Xã hội, tr. 633-652.
47. Lý Tùng Hiếu. 2004. "Liên kết lực lượng nghiên cứu, phát triển các khoa học liên ngành - phương án cấp thiết để thúc đẩy công cuộc nghiên cứu Tây Nguyên", Hội thảo khoa học Những vấn đề cơ bản và cấp bách về khoa học xã hội và nhân văn ở Tây Nguyên, do Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh và Trường Đại học Tây Nguyên tổ chức, TP. Buôn Ma Thuột, 19-20/2/2004.
48. Lý Tùng Hiếu. 2006, 2007a. "Hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở của các dân tộc Mon-Khmer, từ góc nhìn ngôn ngữ học nhân học", Hội thảo khoa học "Tiếng Việt - tiếp xúc ngôn ngữ, giao lưu văn hoá", Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá phương Đông (Trường Đại học Dân lập Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh), Khoa Việt Nam học (Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. Hồ Chí Minh), Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ) đồng tổ chức, TPHCM, 17/6/2006; Tập san Ngoại ngữ - Tin học & Giáo dục (Trường Đại học Dân lập Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh), số 9 bộ mới, 2007, tr. 117-126.
49. Lý Tùng Hiếu. 2007b. Đặc điểm về cấu tạo từ và về văn hoá Brũ và Việt qua sự so sánh từ vựng của hai ngôn ngữ này, Luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, TP. Hồ Chí Minh, 6/10/2007. 311 trang.
50. Mạc Đường (1997), Dân tộc học và vấn đề xác định thành phần dân tộc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 396 trang.
51. Mai Thị Kiều Phượng. 2006. "Đặc trưng văn hoá dân tộc trong nghĩa hàm ẩn của phát ngôn hỏi khi giao tiếp mua bán bằng tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 9 (208)/2006.
52. Nguyễn Duy Quý. 2002. "Khoa học xã hội và nhân văn phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc", Tạp chí Khoa học Xã hội, số 2 (54) - 2002.
53. Nguyễn Duy Thiệu chủ biên. 1997. Các dân tộc ở Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Văn hoá Dân tộc. 338 trang.
54. Nguyễn Đình Hoà. 1962. Bài giảng ngữ-học nhập-môn, Tập I. Sài Gòn: Nhà in Bình Minh.
55. Nguyễn Đình Khoa. 1964. "Giới thiệu đại thể ngành nhân học", Tin tức Hoạt động Khoa học (Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước), số 7-1964.
56. Nguyễn Đình Khoa. 1976. Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam - Dẫn liệu nhân chủng học. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
57. Nguyễn Đình Khoa. 1983. Nhân chủng học Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.
58. Nguyễn Đức Tồn. 1993. "Nghiên cứu đặc trưng văn hoá - dân tộc qua ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ", Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá. Hà Nội: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam & Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, tr. 17-21.
59. Nguyễn Đức Tồn. 2002. Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác). Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 392 trang.
60. Nguyễn Kiên Trường chủ biên & Lý Tùng Hiếu hiệu đính. 2005. Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội. 306 trang.
61. Nguyễn Kim Thản. 1983. Tiếng Việt của chúng ta. NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Nguyễn Kim Thản. 1984. Lược sử ngôn ngữ học, tập 1. Hà Nội: NXB Đại học & Trung học Chuyên nghiệp.
63. Nguyễn Lai. 1997. Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương, Tập I (Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy). Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 248 trang.
64. Nguyễn Thanh Tùng. 2003. Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của nhóm từ chỉ động thực vật tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), luận văn tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
65. Nguyễn Thị Thanh Phượng. 1997. Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hoá Việt Nam, luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
66. Nguyễn Thị Tuyết Ngân. 1993. "Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong các lối chửi của người Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1993.
67. Nguyễn Thiện Giáp chủ biên. 2005. Lược sử Việt ngữ học, tập một. NXB Giáo dục.
68. Nguyễn Văn Âu. 2000. Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 156 trang.
69. Nguyễn Văn Chiến. 1992. "Danh từ thân tộc Việt trong hai loại hình ngôn ngữ đối chiếu: Khơme, Lào và Nga, Tiệp, Anh", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1992.
70. Nguyễn Văn Chiến. 2002. "Nước - một biểu tượng văn hoá đặc thù trong tâm thức người Việt và từ nước trong tiếng Việt (Nghiên cứu Ngôn ngữ - Văn hoá học)", Tạp chí Ngôn ngữ, số 15/2002.
71. Nguyễn Văn Chiến. 2004. Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt (Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá). Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. 356 trang.
72. Nguyễn Văn Diệu. 1999. "Bảo tồn văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số", Tạp chí Khoa học Xã hội, số 40 - II/1999.
73. Nguyễn Văn Độ. 2004. Tìm hiểu mối liên hệ ngôn ngữ - văn hoá. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
74. Nguyễn Văn Khang chủ biên. 1996. Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt. Hà Nội: NXB Văn hoá - Thông tin. 190 trang
75. Nguyễn Văn Lợi. 1993. "Tộc danh của một số dân tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên gọi Giao Chỉ", Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá. Hà Nội: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam & Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, tr. 35-44.
76. Nhiều tác giả. 1993. Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá. Hà Nội: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam & Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. 160 trang.
77. Nhiều tác giả. 2006. Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành, nguyên bản tiếng Anh, bản dịch của Vũ Thị Thanh Hương & Hoàng Tử Quân. Hà Nội: NXB Thế giới. 360 trang.
78. Nhiều tác giả. 2006. Một số vấn đề về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu nhân học, nguyên bản tiếng Anh, bản dịch của Vũ Thị Phương Anh & Phan Ngọc Chiến & Hoàng Trọng. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
79. Phạm Đức Dương. 1973. "Một số cứ liệu ngôn ngữ về sự thân thuộc giữa các dân tộc thuộc nhóm Tạng Miến ở miền Bắc Việt Nam", Thông báo Dân tộc học, số 3, 1973.
80. Phạm Đức Dương. 1975. "Về mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt Mường ở miền Tây Quảng Bình", Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
81. Phạm Đức Dương. 1978a. "Về quan hệ Việt Mường - Tày Thái qua tư liệu dân tộc ngôn ngữ học", Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1978.
82. Phạm Đức Dương. 1978b. "Một số vấn đề dân tộc-ngôn ngữ học ở nước ta", Tạp chí Dân tộc học, số 4, 1978.
83. Phạm Đức Dương. 1979. "Về mối quan hệ nguồn gốc của các ngôn ngữ nhóm Việt Mường", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1979.
84. Phạm Đức Dương. 1981. "Từ vấn đề ngôn ngữ Việt Mường góp phần tìm hiểu nguồn gốc dân tộc", Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1981.
85. Phạm Đức Dương. 1986. "Vấn đề Proto-Việt Mường trong lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại", Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Hà Nội: Viện Ngôn ngữ học.
86. Phạm Đức Dương. 2000. Văn hoá Đông Nam Á. Bài giảng môn học Văn hoá Đông Nam Á tại Khoa Đông Nam Á, Trường Đại học Mở - Bán công TP. Hồ Chí Minh.
87. Phạm Đức Dương. 2000. Đông Nam Á học Việt Nam. Bài giảng chuyên đề Đông Nam Á học Việt nam tại Khoa Đông Nam Á, Trường Đại học Mở - Bán công TP. Hồ Chí Minh.
88. Phạm Đức Dương. 2000. Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. 376 trang
89. Phạm Đức Dương. 2002. Từ văn hoá đến văn hoá học. Hà Nội: Viện Văn hoá & NXB Văn hoá Thông tin.
90. Phạm Đức Dương. 2007. Bức tranh ngôn ngữ - văn hoá tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 384 trang.
91. Phạm Đức Dương & Hà Văn Tấn. 1978. "Về ngôn ngữ Tiền-Việt Mường", Tạp chí Dân tộc học, số 1, 1978.
92. Phạm Thị Hoà. 2008. "Dạy thành tố văn hoá trong dạy - học ngoại ngữ", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 3 (149) - 2008.
93. Phan Hữu Dật. 1998. Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 720 trang.
94. Phan Ngọc & Phạm Đức Dương. 1983. Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Hà Nội: Viện Đông Nam Á.
95. Sapir, Edward. 1921. Language: An introduction to the study of speech. New York: Harcourt Brace. Bản dịch của Vương Hữu Lễ. 2000. Ngôn ngữ: Dẫn luận vào việc nghiên cứu tiếng nói. TP. Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 284 trang.
96. Saussure, Ferdinand de. 1955. Cours de linguistique générale. Charles Bally và Albert Sechehayye soạn, xuất bản lần đầu năm 1916. Paris: NXB Payot, in lần thứ 5. Bản dịch của Tổ Ngôn ngữ học Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. 1973. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
97. Tạ Đức. 1999. Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc - biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn. Hà Nội: Hội Dân tộc học Việt Nam. 432 trang.
98. Tạp chí Ngôn ngữ. 1991. "Công trình của A.G. Haudricourt". Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1991, tr. 13-18.
99. Tôn Nguyệt Hoa. 2005. Tên hay kèm điều tốt. NXB Văn hoá Dân tộc. 480 trang.
100. Trần Ngọc Thêm. 1993. "Đi tìm ngôn ngữ của văn hoá và đặc trưng văn hoá của ngôn ngữ", Việt Nam - những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá. Hà Nội: Hội Ngôn ngữ học Việt Nam & Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
101. Trần Ngọc Thêm. 1999. "Ngữ dụng học và văn hoá-ngôn ngữ học", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1999, tr. 32-37.
102. Trần Thị Ngọc Lang. 1995. Phương ngữ Nam Bộ. NXB Khoa học Xã hội.
103. Trần Trí Dõi. 1999. Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
104. Trần Trí Dõi. 2001. Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội. NXB Văn hoá Thông tin. 268 trang.
105. Trần Văn Dũng. 2004. Những đặc điểm chính của địa danh ở Dak Lăk, luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành lý luận ngôn ngữ, Trường Đại học Vinh, TP. Vinh. 202 trang.
106. Trịnh Thị Kim Ngọc. 1999. Ngôn ngữ và văn hoá: Tri thức nền và việc giảng dạy tiếng nước ngoài. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
107. Trịnh Thị Kim Ngọc. 2002. "Tiềm năng ngôn ngữ trong nghiên cứu con người và văn hoá", Tạp chí Ngôn ngữ, số 14/2002.
108. Từ Thu Mai. 2004. Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ các dân tộc Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 299 trang.
109. Viện Dân tộc học. 1978. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
110. Viện Dân tộc học. 1984. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
111. Whorf, Benjamin Lee. 1941. "The relation of habitual thought and behavior to language", Language, culture and personality: Essays in memory of Edward Sapir, Leslier, A. Irving Hallowell & Stanley S. Newman chủ biên, Sapir Memorial Publications Fund, tr. 75-93. Bản dịch của Vũ Thị Thanh Hương & Hoàng Tử Quân. 2006. "Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ với ngôn ngữ", Ngôn ngữ văn hoá & xã hội. Một cách tiếp cận liên ngành. Hà Nội: NXB Thế giớI, tr. 11-33.
* Tiếng Anh, tiếng Pháp
112. Benveniste, E. 1966, 1974. Problèmes de Linguistique générale, Tome I (1966) & II (1974), Gallimard.
113. Bui Khanh The. 1996. "Problems of language contact in Vietnam (The main features of language change)", Pan-Asiatic Linguistics - Proceeding of 4th ISSL, Bangkok.
114. Coèdes, G. 1948. "Les langues de l'Indochine", Extrait des conférences de l'Institut de Linguistique de l'Université de Paris, T.VIII, année 1940-1948, pp. 63-81.
115. Darnell, Regna. 1992. "Anthropological linguistics: Early history in North America", International encyclopedia of linguistics, Vol. 1, editor-in-chief William Bright. New York - Oxford: Oxford University Press, pp. 69-71.
116. Darnell, R. 1994a. "American linguistics: Anthropological origins", The encyclopedia of language and linguistics, Vol. 1, editor-in-chief R.E. Asher. Pergamon Press, pp. 93-97.
117. Darnell, R. 1994b. "Boas, Franz (1858-1942)", The encyclopedia of language and linguistics, Vol. 1, editor-in-chief R.E. Asher. Pergamon Press, pp. 376.
118. Duranti, Alessandro. 2000. Linguistic anthropology, first published 1997, reprinted 1999, 2000. UK: Cambridge University Press. 398 p.
119. Forley, William A. 2000. Anthropological linguistics. An introduction, first published 1997, reprinted 1998, 1999, 2000. USA - UK: Blackwell Publisher. 496 p.
120. Fuller, E. 1980. "Cross-cousin marriage and Chru Kinship terminology" ("Hôn nhân giữa anh chị em họ và thuật ngữ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Chru", Notes from Indochina on ethnic minority cultures, ed. by Marilyn Gregerson and Dorothy Thomas, 113-23, Summer Institute of Linguistics, Museum of Anthropology Publication 6. Dallas: Summer Institute of Linguistics, Museum of Anthropology.
121. Haudricourt, André-Georges. 1968. "Linguistique et ethnologie", Ethnologie générale, Vol. XXIV, Paris.
122. Haudricourt, André-Georges. 1971. "Ethnoscience et ethnolinguistique, Annuaire 1970-1971, Ecole pratique des Hautes Etudes.
123. Haudricourt, André-Georges. 1975. "Ethnoscience et ethnolinguistique", Annuaire 1974-1975, Ecole des Hautes en Sciences sociales.
124. Hill, Jane H. 1992. "Anthropological linguistics: An overview", International encyclopedia of linguistics, Vol. 1, editor-in-chief William Bright. New York - Oxford: Oxford University Press, pp. 65-69.
125. Jukes, Anthony & Pejros, Ilia. 1996. "A Katuic cultural reconstructrion", Proceedings of the Fourth International Symposium on Languages and Linguistics, Volume III, Institute of Language and Culture for Rural Development, Mahidol University at Salaya, Thailand, 8-10/1/1996.
126. Lycan, William G. 2000. Philosophy of language. A contemporary introduction. London and New York: Routledge. 244 p.
127. Maspéro, Henri. 1912. "Études sur la phonétique historique de la langue annamite. Les initiales", BEFEO, Vol. 12, no. 1, 1912, pp. 1-127.
128. Miller, John D. 1972. "Bru kinship", Southeast Asia, 2/1972.
129. Mucka, Ján. 1973. "Kinship system and terminology in Vietnam" ("Hệ thống thân tộc và các từ chỉ quan hệ họ hàng trong tiếng Việt"), AASB, 7 : 33-9.
130. Nguyễn Thanh Tùng. 2000. "Research on the cultural and linguistic characteristics of words for plants and animals in Vietnamese (compared with English)", Kỷ yếu Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 16-17/11/2000.
131. Sagart, Laurent. 2004. Thoughts of the formation of East Asian language families, Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ học về Đông Á, Trung tâm Nghiên cứu khoa học Xã hội, Paris; báo cáo khoa học tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, 11/11/2007.
132. Spencer, R.F. 1945. "The Annamese kinship system" ("Hệ thống từ chỉ quan hệ họ hàng trong tiếng An Nam"), SJA, 1.284-310, Southwestern Journal of Anthropology, Albuquerque N.N.
133. Urban, Greg. 1992. "Semiotics and anthropological linguistics", International encyclopedia of linguistics, Vol. 3, William Bright. Oxford University Press, pp. 406-408.