Văn hóa cũng như chính trị và kinh tế đều gắn liền với hoạt động sống của con người, đều tồn tại một cách hiện thực trong đời sống của con người, trong xã hội với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử nhất định. Chúng đều là những lĩnh vực cơ bản cấu thành xã hội, trong thực tiễn là hoạt động của chủ thể, còn trong lý luận, là những thuật ngữ khoa học, những khái niệm, phạm trù của nhận thức luận xã hội, của văn hóa học, chính trị học và kinh tế học.
Muốn phát triển bền vững và hiện đại hóa, muốn thành công trong đổi mới và hội nhập quốc tế cần phải chú trọng tới nhân tố văn hóa, phải có đột phá về văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế trên quan điểm hệ thống và hài hòa, đồng bộ và đồng thuận.
Những luận điểm sâu sắc của Hồ Chí Minh ở tầm tư tưởng và triết lý sau đây phải được coi là điểm tựa về tinh thần và phương pháp chỉ dẫn việc nghiên cứu:
Một, văn hóa soi đường cho quốc dân đi.
Hai, văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị.
Ba, chính trị nghĩ rộng cũng là văn hóa, văn hóa nghĩ sâu cũng là chính trị.
Bốn, xã hội XHCN là một xã hộivăn hóa cao.
Năm, thực hành dân chủ để tẩy trừ quan liêu, tham nhũng. Thực hành văn hóa để chữa thói phù phiếm, xa hoa, lãng phí... Người nhấn mạnh: Chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết. Đảng là đạo đức là văn minh. Cách mạng (mệnh) là phá cái cũ lạc hậu, lỗi thời, đổi ra cái mới tiến bộ và phát triển...
1. Thực chất của “văn hóa trong chính trị” và “văn hóa trong kinh tế”
Nghiên cứu văn hóa trong kinh tế và văn hóa trong chính trị là nghiên cứu vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, trong xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền và nhân văn vì mục tiêu phát triển xã hội lành mạnh, bền vững, bảo đảm cho con người có điều kiện phát triển hết các khả năng sẵn có của mình, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Xét về nội dung hoạt động và cấu trúccủa nó thì theo nghĩa rộng nhất, văn hóa bao hàm cả kinh tế và chính trị. Văn hóa phát huy vai trò của mình khi thâm nhập, tác động vào kinh tế, vào chính trị, đồng thời kinh tế và chính trị cũng quy định và chế ước văn hóa, là điều kiện và nguồn lực cho văn hóa hoạt động. Với nghĩa là sức mạnh nội sinh của phát triển, văn hóa phải dựa trên nhân tố vật chất là kinh tế, cũng đồng thời cần đến môi trường xã hội và thể chế cần thiết cho hoạt động sáng tạo. Đó là dân chủ và luật pháp, tức là Nhà nước và chính trị nói chung.
Xét về giá trị và hệ giá trị, văn hóa thể hiện bản chất của mình bởi giá trị và hệ giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Con người tự biểu hiện mình là chủ thể sáng tạo văn hóa, nó sản xuất - tiêu dùng - cảm thụ văn hóa trong đời sống hiện thực. Sự phát triển nhân tính và hoàn thiện nhân cách của chủ thể con người, từ cá nhân - cá thể đến cộng đồng, diễn ra trong môi trường xã hội - lịch sử, trong các không gian văn hóa. Lịch sử, như Mác nói, không có gì khác hơn là lịch sử hoạt động của con người, bởi con người, do đó đồng thời là lịch sử văn hóa.
Bởi thế, con người sản xuất và sáng tạo văn hóa và chính văn hóa đã sáng tạo lại con người, hoàn thiện nhân cách của nó, làm cho nó bộc lộ “những lực lượng bản chất người” (nhân tính), đạt đến sự trưởng thành văn hóa của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội, dân tộc và nhân loại.
Khát vọng tự do nơi con người đồng thời là khát vọng trở nên tốt đẹp. Khát vọng ấy thúc đẩy con người sống, hoạt động và sáng tạo. Trên ý nghĩa ấy, động lực tinh thần có vai trò của sức mạnh, nó mãnh liệt và bền bỉ hướng tới phát triển, thúc đẩy phát triển.
Động lực tinh thần là những giá trị, những phẩm chất của giá trị, định hình thành truyền thống, bản sắc, được lựa chọn, được sàng lọc để kế thừa, phát huy và nó kết tinh ởgiá trị con người - giá trị của mọi giá trị, giá trị hàng đầu, cao nhất trong bảng giá trị của đời sống, của mọi hoạt động sáng tạo văn hóa.
Sức mạnh của con người là sức mạnh của giá trị người mà nó biểu hiện, tự biểu hiện và tự khẳng dịnh, cho nên dù là một động vật nhưng nó là một động vật chính trị - xã hội.
Pascan tự ý thức về một dấu hiệu đặc trưng phân biệt con người với tự nhiên bao quanh nó, “con người chỉ là một cây sậy trong tự nhiên nhưng là cây sậy có trí tuệ”. Nhờ trí tuệ đó, con người đã vượt lên.
Mác đã đem lại sự phân tích, bình luận triết học đặc sắc về văn hóa khi ông cho rằng, con người sáng tạo ra một thiên nhiên thứ hai theo quy luật của cái đẹp, đó là tác phẩm nghệ thuật của chính mình - xã hội lịch sử. Quy luật ấy chính là sự tương tác giữa chủ quan hóa khách quan với khách quan hóa chủ quan. Con người nỗ lực nhận biết để cải biến thế giới đối tượng - khách thể đồng thời nỗ lực tự nhận biết, tự cải biến chính mình. Kích thước con người là ở đó, nó không chỉ lấy cái có sẵn trong tự nhiên mà còn biến đổi tự nhiên, làm ra thêm cái mà tự nhiên không có, con người không chỉ khai thác, tiêu dùng những cái lấy từ tự nhiên mà còn sáng tạo và nâng cao, phát triển và hoàn thiện những sản phẩm, làm ra những giá trị được xác lập, đi từ tất yếu tới tự do.
Những luận đề tư tưởng của Mác thấm nhuần quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử làm sáng tỏ quan hệ giữa con người và văn hóa.
- Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo lại hoàn cảnh.
- Nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì vấn đề là ở chỗ, phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn.
- Giải tha hóa như một hành vi, một quá trình lịch sử, giải phóng con người và các quan hệ con người ra khỏi tình trạng như một sinh vật bị làm nhục (những thân phận nô lệ), đưa con người tới tự do và làm chủ. Theo đó, chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa nhân đạo thực sự và hoàn bị, sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả mọi người. Đây mới là mục đích tự thân của lịch sử, kinh tế cũng như chính trị dù quan trọng thế nào cũng không tự lấy mình làm cứu cánh.
- Cá nhân định vị ở từng cá thể và nó là chủ thể mang nhân cách. Sự phong phú của mỗi cá nhân tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ (quan hệ) xã hội giữa nó với những cá nhân khác.
Nhân cách hình thành và biểu hiện ra qua các mối quan hệ con người và xã hội, nó kết hợp “xã hội hóa” với “cá thể hóa” hoạt động của con người với giá trị của nhân cách như một giá trị văn hóa. Nhân cách là một quan hệ liên nhân cách.
- Căn bản nghĩa là xem xét sự vật tận gốc rễ của nó mà gốc rễ đối với con người chính là bản thân con người.
Đây là “con người hiện thực” gắn chặt với phạm trùthực tiễn, khác về nguyên tắc so với “con người ý niệm, ý thức” của chủ nghĩa duy tâm và “con người sinh vật” của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Chỉ với tư cách con người hiện thực thì con người mới đóng vai trò là chủ thể chủ động tích cực sáng tạo ra lịch sử cũng đồng thời là chủ nhân chân chính, đích thực của sáng tạo văn hóa. Cho nên xây dựng văn hóa lấy xây dựng và phát triển con người làm định hướng mục tiêu cao nhất, bao trùm.
Con người vừa là mục tiêu và động lực của phát triển, vừa là chủ thể sáng tạo phát triển. Điều đó phù hợp và trùng hợp với vai trò của văn hóa, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của đổi mới, phát triển, thông qua đổi mới và hội nhập mà phát triển bền vững và hiện đại hóa.
Như vậy, văn hóa trong chính trị cũng như văn hóa trong kinh tế. Trong khi thực hiện chức năng và vai trò của mình thâm nhập và tác động vào kinh tế, vào chính trị phải bảo đảm mọi hoạt động kinh tế, từ lao động đến sản xuất - kinh doanh, từ quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô đến quản trị doanh nghiệp, với hệ thống các nhân tố: lao động, nguồn vốn, thị trường, công nghệ... đều phải có định hướng văn hóa.
Tác nhân văn hóa trong kinh tế làm cho kinh tế trở thành văn hóa kinh tế. Kinh tế được bảo đảm bởi văn hóa sẽ là kinh tế phát triển, cả trình độ và chất lượng, theo tính nhân văn, vì con người, phục vụ lợi ích của con người, của cộng đồng.
Với chính trị, từ thể chế, thiết chế bộ máy, cơ chế vận hành, đường lối chính sách, môi trường dân chủ xã hội cho sự tham chính của đông đảo các công dân một cách thực chất, vừa ủy quyền vừa giám sát, kiểm soát quyền có hiệu quả... cho đến tổ chức, lực lượng lãnh đạo, cầm quyền, quản lý, điều hành chính sự với những con người và hành vi chấp chính sao cho đúng đắn, hợp lý, hợp hiến, hợp pháp, chính danh, chính đáng và xứng đáng trong sự thừa nhận của xã hội và trong con mắt đánh giá của người dân... Như thế, chính trị, từ chính thể đến hoạt động, với con người và nhân cách chính trị sẽ trở thành văn hóa chính trị. Chính trị được bảo đảm bởi văn hóa, văn hóa chứ không đơn thuần là học vấn, sẽ là một nền chính trị nhân văn, vì con người.
Định hướng văn hóa trong xây dựng và phát triển kinh tế sẽ làm cho xã hội thịnh vượng, dân chủ, công bằng và các công dân, các thành viên của cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng, được phát triển các năng lực sáng tạo trong một môi trường xã hội lành mạnh, cơ hội phát triển được mở ra và thực hiện với tất cả mọi người.
Định hướng văn hóa trong kinh tế và chính trịluôn nhất quán với con người mục tiêu, mọi phát triển đều hướng vào phát triển con người.
Ngay khi giải quyết vấn đề khai thác, sử dụng nguồn lực con người, nghĩa là con người phương tiện, thì “con người phương tiện” cũng là thực hiện phát triển “con người mục tiêu”, tức là vì quyền sống, quyền phát triển, quyền tự do, quyền hạnh phúc của con người. Đó là bảo đảm dân quyền, thực hiện nhân quyền.
Mọi quyền của công dân, của con người trong xã hội dân chủ, xã hội hiện đại, trong nhà nước pháp quyền là cả một tập hợp lớn các quyền.
Tập hợp lớn các quyền đó suy đến cùng vẫn đồng quy vào quyền tồn tại như một con người và quyền sáng tạo như một chủ thể nhân cách. Kinh tế và chính trị, văn hóa trong kinh tế và văn hóa trong chính trị cũng chỉ vì con người, phát triển con người, hoàn thiện nhân cách theo hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đổi mới với hệ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được thực hiện bằng tác dụng, hiệu quả của sự kết hợp văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế.
2. Từ nội dung văn hóa trong chính trị đến xây dựng văn hóa chính trị
Văn hóa có hàm nghĩa rất rộng, cần xác định rõ những nhân tố văn hóa nào tác động trực tiếp vào chính trị có thể phát huy tác dụng tốt nhất đối với sự hình thành văn hóa chính trị, nhất là văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Nói tới chính trị là nói tới quyền lực và cầm quyền, nổi bật là quyền lực chính trị của Đảng, quyền quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân, nhất là quyền tham chính - tham gia giám sát, kiểm soát quyền lực của nhân dân.
Quyền luôn bị ràng buộc bởi trách nhiệm và nghĩa vụ. Quan hệ chính trị vì thế cũng là quan hệ pháp lý, cần được quy định rõ ràng bởi hiến pháp, luật pháp, điều lệ, quy tắc, nguyên tắc... Tóm lại, phải có thể chế ràng buộc, chi phối.
Chính trị hướng trực tiếp vào vấn đề chính quyền với thiết chế (tổ chức, bộ máy) nhà nước. Ý thức hệ, truyền thống văn hóa, lịch sử, tâm lý, phong tục, tập quán, dư luận xã hội là những tác nhân gây ảnh hưởng không nhỏ tới chính trị.
Chính trị, xét ở tầm quốc gia, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, cả nội trị lẫn ngoại giao.
Trong bối cảnh hiện nay, xã hội thông tin và kinh tế tri thức đang định hình, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chính trị tất yếu phải được đổi mới, hiện đại hóa, đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Khoa học hóa, dân chủ hóa và văn hóa hóa chính trị được đặt ra như một đòi hỏi cấp bách để chính trị thực sự thể hiện được đặc trưng khoa học - dân chủ và nhân văn. Bản chất khoa học và cách mạng của Đảng Cộng sản cầm quyền đòi hỏi phải xây dựng một nền chính trị như vậy.
Một trong những chỉ số đo lường văn hóa chính trị là: niềm tin của dân chúng đối với Đảng, sự hài lòng của người dân đối với chế độ, với quản lý của Nhà nước và chất lượng của đội ngũ công chức trong phục vụ xã hội và nhân dân, sự phát triển dân chủ, sự đoàn kết và đồng thuận xã hội. Những nhân tố cần đặc biệt chú ý là:
- Nền tảng tư tưởng, ý thức hệ chủ đạo đóng vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu, thành những giá trị được lựa chọn và theo đuổi.
- Học vấn, từ trình độdân trí đến trí tuệ của giới tinh hoa. Nâng cao mặt bằng dân trí, đồng thời phải chú trọng bồi đắp năng lực, phẩm chất của đội ngũ quan chức các cấp.
- Đạo đức với bốn chuẩn giá trị cần kiệm liêm chính, với thái độ trách nhiệm, kỷ luật công chức, đạo đức công vụ, tận tâm tận lực với công việc, với người dân.
- Lối sống: giản dị, trung thực, khiêm tốn, gần dân, vì dân.
- Ứng xử: với người, với việc, với tổ chức.
Từ thái độ tới hành vi mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên, công chức đều phải tỏ ra là người có văn hóa, biết tự trọng mình và tôn trọng người khác, nói như Hồ Chí Minh “phê bình công việc chứ không xúc phạm con người”, “phải tôn trọng nhân cách của người ta”, “phải thường xuyên tự phê bình và phê bình”, “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Có lỗi biết xin lỗi và quyết tâm sửa lỗi, lời nói việc làm đi đôi với nhau.
Văn hóa xin lỗi, văn hóa từ chức, văn hóa nơi công sở, trong tiếp dân và nghe dân, văn hóa công dân, văn hóa công chức... đang là những vấn đề cần thiết phải giáo dục và rèn luyện thực hành.
Muốn cho văn hóa thâm nhập sâu sắc vào chính trị, trở thành văn hóa chính trị của từng tổ chức và cá nhân, cần phải tạo thành nhu cầu văn hóa ở mỗi chủ thể, phải công phu chuyển từ giáo dục thành tự giáo dục, tạo thành nền nếp, thói quen, thành giá trị ổn định, bền vững. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo thành dư luận xã hội tích cực, cổ vũ, ủng hộ cái tốt, lên án cái xấu, cái ác, áp dụng các biện pháp kể cả chế tài để xử lý các tiêu cực, tệ nạn, tội phạm, muốn xây dựng và phát triển văn hóa thì phải ngăn chặn và đẩy lùi các phản văn hóa.
Điểm xung yếu, mấu chốt, then chốt lúc này là đạo đức, giáo dục đạo đức phải coi trọng giáo dục lòng tự trọng, danh dự, liêm sỷ, nhất là trong đội ngũ cán bộ, trong giới quan chức, hướng vào mục tiêu chống tham nhũng như chống một tội ác phản dân, hại nước.
Đảng thực sự trong sạch phải bằng trí tuệ khoa học, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng. Đó chính là văn hóa chính trị. Khoa học - dân chủ - đạo đức - luật pháp, kỷ luật và kỷ cương phải là những tiêu chí đánh giá văn hóa chính trị và tác dụng, hiệu quả của văn hóa chính trị, thể hiện trong mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân.
Để đạt được những kết quả như vậy, không chỉ dựa vào sự nỗ lực tự giác phấn đấu rèn luyện Đức - Tài, mỗi tổ chức cũng không chỉ đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền mà còn phải huy động nhiều tác nhân khác. Đó là chấn chỉnh tổ chức, gắn chặt với công tác tổ chức, khắc phục triệt để những yếu kém, sai lầm trong công tác cán bộ, nhất là đánh giá, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ. Nói rộng ra là phép dùng người. Dùng người không đúng, không công tâm khách quan, không vì sự nghiệp chung, thì chẳng những có hại cho dân, cho nước, đất nước không phát triển được mà Đảng sẽ suy yếu, chế độ sẽ suy yếu, văn hóa vẫn sẽ ở ngoài chính trị. Không có văn hóa chính trị sẽ làm cho chính trị suy thoái, biến dạng, tha hóa bởi tập nhiễm phải những phản văn hóa. Vì thế, phải ra sức cải cách thể chế, thay đổi chính sách, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao luật pháp và chế tài. Đạo đức cùng với luật pháp phải là hai trụ cột vững chắc để xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ - nhân văn và văn hóa chính trị.
3. Văn hóa trong kinh tế và xây dựng văn hóa kinh tế - Mấy vấn đề cốt yếu
Kinh tế gắn liền với xã hội bởi quan hệ kinh tế là một dạng đặc biệt và đặc thù của quan hệ xã hội. Phát triển diễn ra trong tương tác biện chứng giữa “cái kinh tế” và “cái xã hội”(1). Xã hội tổ chức thành Nhà nước thì sự tương tác này tất yếu có sự tham gia và chi phối của chính trị, trực tiếp nhất là thể chế(2).
Muốn hiểu sự thâm nhập của văn hóa vào kinh tế, trước hết cần nhận biết hoạt động kinh tế bắt đầu từ hoạt động lao động của con người chủ thể. Chủ thể lao động, chủ thể sản xuất - kinh doanh - dịch vụ, tham gia vào lưu thông trên thị trường và thụ hưởng lợi ích qua phương thức và cơ chế phân phối cũng đồng thời là chủ thể xây dựng nền kinh tế.
Hoạt động kinh tế cũng bao hàm một cách tất yếu nhân tố quản lý. Trong nền kinh tế thị trường, quản lý kinh tế gắn liền với quản trị doanh nghiệp, mọi chính sách kinh tế đều phải gắn với yếu tố xã hội. Cũng như vậy, chính sách xã hội và hệ thống an sinh xã hội muốn thực hiện được phải có bảo đảm từ kinh tế.
Quan niệm như vậy về tương tác kinh tế - xã hội được xác định bởi nhân tố văn hóa, được nhận thức và xử lý từ nhãn quan văn hóa. Không chỉ chính trị mới cần đến định hướng nhân văn mà ngay lĩnh vực lao động, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cũng như toàn bộ nền kinh tế đều phải đặc biệt quan tâm tới định hướng nhân văn. Xa rời định hướng nhân văn sẽ dẫn tới khuynh hướng duy kinh tế, chủ nghĩa duy vật kinh tế tầm thường, biến kinh tế thành cứu cánh, trong khi, dù quan trọng thế nào, kinh tế chỉ là phương thức, phương tiện, công cụ của phát triển xã hội, phát triển con người.
Bước vào kinh tế thị trường, coi trọng lợi ích kinh tế - vật chất, khuyến khích làm giàu và sự giàu có của từng cá nhân, từng cộng đồng, nhưng Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh tới định hướng XHCN, phải làm giàu chính đáng, hợp pháp, không phải làm giàu bằng mọi giá. Cũng như vậy, chấp nhận phân hóa giàu - nghèo và phân tầng xã hội nhưng phải có điều tiết và kiểm soátbằng chính sách và luật pháp để không dẫn đến phân hóa giai cấp, bần cùng hóa người lao động.
Nền kinh tế thị trường mà Việt Nam lựa chọn mô hình là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải kinh tế thị trường bất kỳ. Nguyên lý nền tảng của phát triển xã hội lành mạnh, thể hiện tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế là kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội(3), công bằng không chỉ trong phân phối lợi ích mà sâu xa hơn là công bằng về cơ hội phát triển. Định hướng XHCN bao hàm không chỉ yêu cầu về mục đích của chính thể (XHCN chứ không phải TBCN, không phải khuynh hướng dân chủ xã hội), trước hết phải bảo đảmkhoa học (đã phát triển kinh tế thị trường thì phải tuân theo các quy luật của thị trường), hơn nữa còn là đạo đức (đạo đức trong lao động, đạo đức trong sản xuất - kinh doanh, ngay trong cạnh tranh cũng phải lành mạnh, không rơi vào phi nhân, hoang dã, tàn bạo). Đạo đức là vấn đề cốt yếu nhất của văn hóa.
Trở lại cấu trúc rộng của văn hóa thì các nhân tố chính trị, khoa học, đạo đức, thậm chí cả kinh tế... đều hợp thành văn hóa. Theo đó, tất yếu phải đưa giá trị văn hóa, chuẩn mực ứng xử văn hóa vào trong hoạt động kinh tế của các chủ thể. Ngay việc nhận biết quan hệ giữa kinh tế và chính trị để giải quyết đúng đắn quan hệ này trong thực tiễn, đòi hỏi một năng lực văn hóa nhất định. Luận thuyết của các nhà kinh điển Mác xít có giá trị và ý nghĩa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu trên.
Ví dụ: Mác để lại cho ta một kiểu mẫu về phân tích “lao động tha hóa” và “tha hóa lao động” dẫn đến “tha hóa bản chất con người” dưới CNTB, từ đó ông đề ra con đường giải tha hóa để con người trở lại bản chất nhân tính của mình(4).
Ông cũng làm rõ quan hệ giữa lợi ích (trước hết là lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế) với tư tưởng để nhấn mạnh rằng, tư tưởng dù có cao quý, siêu việt đến thế nào cũng không thể làm biến đổi được hiện thực nếu không gắn liền với một sức mạnh vật chất, rằng, “nếu tư tưởng tách rời lợi ích thì tự nó sẽ làm nhục bản thân nó, nghĩa là tự làm mất tín nhiệm của tư tưởng”(5).
Cũng như Ăngghen, Mác phân biệt sâu sắc “lao động tất yếu” chỉ vì sự sinh tồn nhục thể, còn ở bên ngoài tự do, chỉ nằm trong giới hạn của tất yếu sinh tồn với “lao động tự do” mới thực sự là hoạt động sáng tạo làm thỏa mãn, làm phong phú nhu cầu đích thực của hoạt động sống, vì sự phát triển và hoàn thiện nhân tính. Rõ ràng, tự do chỉ có thể từ khát vọng thành ra hiện thực khi lao động không còn là phương tiện kiếm sống mà trở thành nhu cầu sáng tạo, nó không còn là sự khổ ải mà là một niềm vui, một sự thỏa mãn trí tuệ và đạo đức cũng như thẩm mỹ.
Đến trình độ phát triển đó, lao động trở thành văn hóa lao động. Muốn cho kinh tế trở thành văn hóa kinh tế thì phải bắt đầu làm cho lao động trở thành văn hóa lao động.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cùng với văn hóa lao động, phải dày công xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong dịch vụ, rõ nhất là thái độ và hành vi ứng xử giữa người với người trong các giao tiếp, giao dịch kinh tế trên thị trường, thương trường.
Một chủ thể rất quan trọng giúp ta nhận biết văn hóa kinh tế, văn hóa trong kinh tế là các doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp, tầng lớp doanh nhân. Họ là nòng cốt trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân với các biểu hiện về học vấn, trình độ công nghệ, sự am hiểu luật pháp, sự nảy nở nhu cầu đạo đức, trách nhiệm với xã hội, với cộng đồng, nhất là đóng góp vào lĩnh vực phúc lợi công cộng, chăm lo an sinh...
Thái độ với môi trường, cả môi trường tự nhiên - sinh thái lẫn môi trường xã hội - nhân văn cũng phải là một thái độ văn hóa. Kinh tế không có bảo đảm văn hóa luôn tiềm ẩn những biểu hiện trái đạo lý và pháp lý, thứ kinh tế đó không vì lợi ích xã hội, không vì con người, nó chống lại xã hội, chống lại con người, chống lại sự phát triển lành mạnh. Do đó, nó phải được ngăn chặn và xóa bỏ. Hậu quả mà nó gây ra phải xử lý theo luật pháp.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2020, tầm nhìn 2030, Đảng ta đã phát hiện ba điểm nghẽn của phát triển, chú trọng những đột phá tương ứng để phát triển: Thể chế, hạ tầng kinh tế - xã hội (bao gồm cả công nghệ) và chất lượng nguồn nhân lực(6). Đảng cũng xác định hệ quan điểm phát triển bền vững, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của dân chủ và pháp quyền, của nhân tố con người, công bằng xã hội, độ an toàn của môi trường và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ(7).
Đó là những nội dung văn hóa trong kinh tế, trong phát triển bền vững cần được lấy làm cơ sở trong hoạch định chính sách phát triển, trong xác lập cơ chế quản lý và động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đưa nội dung văn hóa, các giá trị văn hóa vào kinh tế, nhất là phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, mà nòng cốt là hội nhập kinh tế quốc tế chính là xây dựng văn hóa kinh tế.
Văn hóa kinh tế mà chúng ta xây dựng là một tập hợp, một hệ thống chỉnh thể bao gồm các phân hệ chủ yếu sau đây:
- Văn hóa lao động.
- Văn hóa sản xuất - kinh doanh - dịch vụ.
- Văn hóa quản lý kinh tế.
- Văn hóa doanh nghiệp.
- Văn hóa doanh nhân.
Mỗi phân hệ, mỗi loại hình văn hóa kinh tế đó không tách rời biệt lập nhau mà liên kết lại, hỗ trợ, tác động, thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên văn hóa kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, phản ánh tiềm lực quốc gia, xu thế và triển vọng phát triển của dân tộc.
Con người hiện thực là một phức hợp các con người chức năng, trong đó có chức năng kinh tế của con người kinh tế, là chủ thể tham dự vào đời sống kinh tế, trong xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. Con người nằm ở vị trí trung tâm và là nhân tố có vai trò quyết định trong xây dựng kinh tế, xây dựng văn hóa kinh tế ở nước ta. Tư tưởng khởi nghiệp và phong trào khởi nghiệp sáng tạo từ con người tới doanh nghiệp và toàn xã hội vừa tạo ra xung lực lại vừa là kết quả của văn hóa kinh tế mà chúng ta xây dựng.
4. Một vài kết luận
- Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế là giá trị, chất lượng, trình độ phát triển của chính trị, của kinh tế với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản, trọng yếu nhất của đời sống xã hội. Văn hóa là bảo đảm nhân văn của phát triển chính trị và phát triển kinh tế vì con người, vì sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng.
- Xây dựng văn hóa chính trị và văn hóa kinh tế phải được tiến hành đồng thời và đồng bộ, với sự nhất quán của định hướng văn hóa và mục tiêu phát triển con người, do chính trị và kinh tế là những lĩnh vực khác nhau, thống nhất mà không đồng nhất nên những yếu tố văn hóa tác động vào chính trị, vào kinh tế cũng khác nhau, cho dù cũng có những chỉ số chung, nổi bật nhất là học vấn, đạo đức và luật pháp.
- Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại; kinh tế quyết định chính trị nhưng chính trị lại không thể không giữ vị trí ưu tiên trong lãnh đạo, trong quyết định phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế. Xây dựng văn hóa chính trị và văn hóa kinh tế có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết không tách rời nhau, như Lênin đã chỉ dẫn.
- Tác động qua lại giữa văn hóa chính trị và văn hóa kinh tế có thể hình dung qua mối quan hệ lớn giữa các chủ thể Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ(8), sao cho Ý Đảng - Lòng Dân - Phép Nước thống nhất, đồng thuận cao nhất, thực chất và hiệu quả nhất, lấy việc phục vụ cuộc sống người dân, vì dân làm mục đích và thước đo - đó là văn hóa chính trị thống nhất với văn hóa kinh tế.
- Nếu “người ta cần đến kinh tế để khỏi bị chết đói”, “cần đến chính trị (sáng suốt, đúng đắn) để khỏi rơi vào tự sát” (mất phương hướng, sai lầm về nguyên tắc...) như Lênin nói... thì văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế là bảo đảm cho việc phòng tránh nguy cơ đó thành công.
Thực hành dân chủ, thực hành đạo đức cách mạng, triệt đểchống quan liêu, tham nhũng, làm cho Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, niềm tin của dân với Đảng và chế độ được củng cố, được tăng trưởng cùng với tăng trưởng kinh tế... - đó là lời giải thực tiễn cho việc xây dựng, thực hành văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế.
____________________
(1), (2) Xem: Phạm Xuân Nam - Hoàng Chí Bảo: “Cái kinh tế” và “Cái xã hội” trong phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
(3) Các mối quan hệ lớn cần nhận thức và giải quyết trong đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
(4) C.Mác: Bản thảo kinh tế - triết học, 1844.
(5) C.Mác - Ph.Ăngghen: Gia đình thần thánh, 1845.
(6), (7) ĐCSVN: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
(8) BCHTW, Ban chỉ đạo tổng kết: Tổng kết lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2017