1. Chủ nghĩa dân tộc: khái niệm, đặc điểm và bản chất
Trước hết cần lưu ý rằng dân tộc trong chủ nghĩa dân tộc (nationalism) được đề cập ở đây là quốc gia dân tộc (nation-state hay country), không phải là những sắc tộc cụ thể (ethnicity). Vì vậy, chủ nghĩa dân tộc cũng được gọi là chủ nghĩa quốc gia. Chủ nghĩa dân tộc đề cập đến một hệ tư tưởng, tâm lý, tình cảm, một hình thái văn hóa của một nhóm người, hay một đảng phái, phong trào chính trị tập trung và đề cao quốc gia dân tộc mình. Là một khái niệm phức tạp, có tính đa chiều, chủ nghĩa dân tộc được nhìn nhận và định nghĩa dưới những góc nhìn khá đa dạng.
Theo Từ điển Bách khoa của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc là “hệ tư tưởng chính trị và biểu hiện tâm lý đòi hỏi quyền lợi độc lập, tự chủ và phát triển của cộng đồng quốc gia dân tộc”(1). Trong khi đó Atlas thế giới cho rằng chủ nghĩa dân tộc là một ý thức hệ chính trị “đề cập đến cảm xúc mạnh mẽ về lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc” của một cộng đồng người trong một quốc gia dân tộc cùng chia sẻ những đặc điểm về văn hóa, ý thức hệ, tôn giáo hoặc tộc người(2). Như vậy, chủ nghĩa dân tộc trong hai định nghĩa trên mang hàm ý tích cực, phản ánh sự gắn kết của cộng đồng dân cư trong một quốc gia dân tộc dựa trên lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và lợi ích dân tộc chung, đồng thời cũng phản ánh ý thức chính trị, tâm lý của một dân tộc đối với các quyền dân tộc cơ bản, chính đáng của quốc gia dân tộc mình. Chủ nghĩa dân tộc theo nghĩa tích cực, tiến bộ đó là đặc trưng cơ bản và là một động lực quan trọng của phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở Á, Phi và Mỹ Latinh chống thực dân đế quốc, giành và bảo vệ độc lập dân tộc trong thế kỷ XX.
Ngược lại, Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ quốc tế định nghĩa chủ nghĩa dân tộc “là xu hướng tư tưởng tuyệt đối hóa giá trị dân tộc mình, đặt dân tộc mình ở vị trí cao nhất trong toàn bộ hệ thống giá trị, đi đến chỗ khoa trương, bài ngoại, tự phụ, coi dân tộc mình cao hơn tất cả và gây thiệt hại cho dân tộc khác”(3). Cũng trong cách nhìn này, Từ điển Bách khoa Merriam-Webster nhìn nhận chủ nghĩa dân tộc là sự tự hào, “lòng trung thành và hiến dâng” đối với quốc gia, là việc “đề cao quốc gia dân tộc mình trên hết thảy những quốc gia khác và nhấn mạnh vào việc thúc đẩy văn hóa và lợi ích của quốc gia mình trái ngược với văn hóa và lợi ích của các dân tộc và các thực thể siêu quốc gia khác” dựa trên niềm tin rằng nó tốt hơn và quan trọng hơn của các quốc gia khác(4). Các định nghĩa này tập trung vào thái độ của những người mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đối với mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc. Nó phản ánh ý nghĩa tiêu cực của chủ nghĩa dân tộc.
Ở một chiều cạnh khác, Bách khoa thư triết học Đại học Stanford, Hoa Kỳ quan niệm rằng “chủ nghĩa dân tộc” là khái niệm dùng để diễn tả hai hiện tượng: 1) thái độ của các thành viên của một quốc gia đối với bản sắc quốc gia dân tộc của họ; và 2) hành động mà họ thực hiện khi tìm cách đạt được (hoặc duy trì) một số hình thức chủ quyền chính trị (như quyền tự quyết)(5). Định nghĩa này chỉ đề cập đến nội hàm của khái niệm mà không chỉ rõ xu hướng thái độ và hành vi của những người dân tộc chủ nghĩa.
Từ những định nghĩa nêu trên và nhìn vào thực tiễn chính trị quốc tế, có thể thấy rằng, bên cạnh hình thái tiến bộ được hiểu như lòng yêu nước và tự hào dân tộc, ý thức gắn bó và tinh thần cống hiến cho lợi ích quốc gia dân tộc chính đáng, ở hình thái thứ hai, chủ nghĩa dân tộc dù được thể hiện dưới những sắc thái đa dạng, trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng vẫn mang nghĩa tiêu cực, cực đoan với những đặc điểm và hệ lụy như đề cao, khuếch đại, thậm chí tuyệt đối hóa tính ưu việt, giá trị, tầm quan trọng và lợi ích của quốc gia dân tộc mình mà không tôn trọng đúng mức, thậm chí xem thường, bỏ qua và sẵn sàng chà đạp lên các giá trị và lợi ích của các dân tộc khác. Điều này đã thúc đẩy các hành vi thiếu công bằng, bất bình đẳng, thậm chí là định kiến, áp đặt, cưỡng ép và phân biệt đối xử trong quan hệ quốc tế. Cũng vì đề cao thái quá dân tộc mình, những người dân tộc chủ nghĩa theo đuổi tư tưởng, chủ nghĩa cục bộ, bản vị mà không xem trọng, thậm chí chống lại hợp tác, liên kết và hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Với việc xem quốc gia dân tộc mình như là ưu việt, tối thượng, chủ nghĩa dân tộc còn dẫn tới những hình thái cực đoan hơn như phản đối hoặc chống lại bất kỳ hình thái ý thức hệ nào khác biệt hoặc mâu thuẫn với dân tộc mình, thúc đẩy chiến tranh, xâm lược, thậm chí diệt chủng, thảm sát và thanh lọc dân tộc(6). Vì thế chủ nghĩa dân tộc thường được xem như làm suy giảm bang giao và hợp tác quốc tế, suy giảm lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, trực tiếp hay gián tiếp gắn với những hệ lụy tiêu cực, những hình thái tư tưởng cực đoan, dẫn tới mâu thuẫn, nghi kỵ, thù địch, xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia(7).
Một hình thái tiêu cực khác của chủ nghĩa dân tộc là việc lợi dụng quyền tự chủ, tự quyết dân tộc để kích động và theo đuổi chủ nghĩa ly khai. Khuynh hướng này đã gây ra xung đột, chiến tranh và thanh lọc sắc tộc, vùng miền, hay giữa nhân dân với chính quyền ở nhiều nơi trên thế giới. Những biểu hiện của hình thái này có thể kể đến vấn đề người Tamil ở Sri Lanka; người Kurd ở Iraq, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ; hay giữa người Serbia với người Bosnia và người gốc Albania ở Nam Tư cũ. Đây hiện vẫn là một vấn đề nhức nhối ở nhiều nước châu Phi, thậm chí ở giữa lòng châu Âu mà điển hình là vấn đề Bắc Ireland và Scotland ở Liên hiệp Vương quốc Anh hay xứ Catalonia ở Tây Ban Nha.
Chủ nghĩa Mác cho rằng trong xã hội có giai cấp thì không có dân tộc và chủ nghĩa dân tộc phi giai cấp. Chủ nghĩa dân tộc mácxít chân chính là chủ nghĩa dân tộc cách mạng, tiến bộ, nó xa lạ với chủ nghĩa dân tộc sô vanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc thượng đẳng, chủ nghĩa dân tộc địa phương và chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi. Chủ nghĩa dân tộc mácxít gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế, phấn đấu cho sự bình đẳng, hợp tác, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và toàn nhân loại, hướng tới xóa bỏ mọi hình thức phân biệt giai cấp, dân tộc, chủng tộc.
Chủ nghĩa dân tộc và lòng yêu nước mặc dù đều phản ánh mối quan hệ của các thành viên với quốc gia dân tộc mình và có những nét tương đồng nhất định, nhưng hai khái niệm này có những điểm khác nhau cơ bản:
Một là, trong khi lòng yêu nước xuất phát từ tình cảm gắn bó, trung thành với đất nước mình, do đó là nền tảng và động lực cho tự do, độc lập, quyền tự quyết và phẩm giá của các dân tộc trước áp bức, thống trị và bất công thì chủ nghĩa dân tộc là lòng yêu nước được đẩy tới mức cực đoan, biến thành một tình cảm sô vanh, tự phụ và kiêu ngạo, trở thành tâm lý sùng bái và tự hào thái quá đối với dân tộc mình mà coi thường các dân tộc khác, và do đó nó là mầm mống của áp bức, bất công và phân biệt chủng tộc. Lòng yêu nước do đó mang tính thụ động và tự vệ còn chủ nghĩa dân tộc thì mang tính hung hăng, áp đặt(8).
Hai là, trong khi những người yêu nước thể hiện tình yêu, niềm tin và lòng tự hào về những giá trị tốt đẹp của dân tộc mình nhưng không xem dân tộc mình là ưu việt hơn các dân tộc khác, những người dân tộc chủ nghĩa xem dân tộc mình là “cao hơn, ưu việt hơn hết thảy các dân tộc khác”(9). Vì vậy, lòng yêu nước thừa nhận quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc, tôn trọng các dân tộc khác còn chủ nghĩa dân tộc thì không. Những người yêu nước có xu hướng khoan dung với những chỉ trích, sai lầm và sẵn sàng tiếp thu, học hỏi những cái mới, tốt đẹp từ các dân tộc khác, trong khi chủ nghĩa dân tộc không thừa nhận những sai lầm quá khứ của dân tộc, không khoan thứ cho những chỉ trích bên ngoài, thậm chí coi đó là sự xúc phạm đối với dân tộc mình. Có thể nói, lòng yêu nước “coi trọng trách nhiệm hơn là chỉ đề cao lòng trung thành đối với tổ quốc mình”(10).
Ba là, lòng yêu nước dựa trên tình cảm, tình yêu và chủ nghĩa nhân văn, do vậy nó dựa trên hòa bình và hướng tới hòa bình; còn chủ nghĩa dân tộc cực đoan bắt nguồn từ sự cạnh tranh, kình địch và oán giận, nó mang tính hung hăng, hiếu chiến về bản chất. Về điều này, nhà văn người Anh George Orwell đã từng có một câu nói nổi tiếng rằng chủ nghĩa dân tộc là “kẻ thù tồi tệ nhất của hòa bình”(11).
Bốn là, những người yêu nước tin và coi trọng xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc, trong khi những người dân tộc chủ nghĩa có xu hướng biệt lập, cục bộ, vị kỷ.
Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy cũng cần được phân biệt để nhận rõ bản chất và mối quan hệ của hai khuynh hướng chính trị này cũng như hiểu thực chất các hình thức biểu hiện đa dạng của hiện tượng mà nhiều người xem là chủ nghĩa dân túy trong nền chính trị thế giới hiện nay. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy có mối liên quan gần gũi mà đôi khi không dễ phân biệt. Trên thực tế, lập trường, tư tưởng, phát ngôn và hành động của một số phong trào, đảng phái và nhà chính trị thể hiện sự hòa quyện giữa chính trị dân túy với dân tộc chủ nghĩa. Mặt khác, có những tư tưởng, phát ngôn và hành động mang tính dân túy nhằm đánh vào tâm lý của quần chúng nhân dân, lôi cuốn sự ủng hộ của một bộ phận quần chúng nhưng bản chất là chủ nghĩa dân tộc, trong khi đó, một số người được xem là dân tộc chủ nghĩa nhưng thực tế họ chỉ sử dụng những phát ngôn và hành vi nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc và tập hợp quần chúng phục vụ cho mục đích chính trị của mình.
Như vậy không phải tất cả những người dân túy đều mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ngược lại, không phải tất cả những người dân tộc chủ nghĩa đều là những nhà dân túy. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy có thể được phân biệt trên một số khía cạnh sau đây:
Một là, chủ nghĩa dân túy có cơ sở nguồn gốc từ nhân dân và hướng tới người dân (People) trong khi chủ nghĩa dân tộc có xuất phát điểm và mục tiêu là quốc gia dân tộc (Nation).
Hai là, chủ nghĩa dân tộc về bản chất tập trung vào khía cạnh bản sắc và ý thức thuộc về nhóm (dân tộc, quốc gia) trong khi chủ nghĩa dân túy “thiên hơn về quyền lực, giai cấp và giải pháp”, “về ý tưởng và lý tưởng mà vượt qua yếu tố nhóm”(12).
Ba là, chủ nghĩa dân tộc đối lập “chúng ta” với tư cách là những người trong cùng một quốc gia với “họ” với tư cách là những người thuộc quốc gia dân tộc khác được nhìn nhận như là một mối đe dọa tiềm tàng với “dân tộc của chúng ta”(13). Trong khi đó, hạt nhân của chính trị dân túy là tách biệt và đối lập giữa tầng lớp bình dân như là nhóm dưới và nhóm giữa của xã hội với tầng lớp tinh hoa chính trị, được coi là tầng lớp trên trong quốc gia đó. Vì vậy, những người dân túy và đảng dân túy xem mình là đại diện thực sự của quần chúng nhân dân đấu tranh với giới cầm quyền đương thời của quốc gia, trong khi những người dân tộc coi họ như là đại diện cho quốc gia dân tộc mình trong mối quan hệ với các dân tộc bên ngoài.
2. Chủ nghĩa dân tộc và những sắc thái mới trong thế giới đương đại
Thứ nhất, đó là những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh nước lớn, chủ nghĩa bành trướng, bá quyền và chính trị cường quyền hiện nay. Ở đó nước lớn gia tăng xu hướng cưỡng chế, hăm dọa và áp đặt nước nhỏ, bỏ qua hoặc tìm cách tước đoạt chủ quyền và các lợi ích quốc gia cơ bản của nước nhỏ, bất chấp các chuẩn mực ứng xử trong quan hệ giữa các quốc gia cũng như luật pháp quốc tế. Âm mưu và hành động nhằm độc chiếm Biển Đông hiện nay có thể gọi là một dạng biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc nước lớn.
Thứ hai, đó là sự xuất hiện và hồi sinh mạnh mẽ của các tư tưởng, các đảng phái, các phong trào mang tính phân biệt, bài ngoại, cực hữu, chống nhập cư, chống Hồi giáo ở châu Âu như Đảng Mặt trận quốc gia ở Pháp của Marine Le Pen, Đảng Tự do Áo, Đảng Độc lập Anh (UKIP), Đảng Liên đoàn Phương Bắc ở Italia, Đảng Nhân dân ở Đan Mạch, Phong trào Brexit ở Anh, Đảng Tự do Hà Lan, Đảng Con đường khác cho nước Đức (AfD), Đảng Dân chủ cực hữu Thụy Điển, Đảng cực hữu Golden Dawn ở Hy Lạp, và phần nào đó có thể kể đến tư tưởng “nước Mỹ trên hết”, cùng những chính sách chống nhập cư và Hồi giáo dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Thứ ba, đó là các hành vi của chủ nghĩa thực dụng, vụ lợi, theo đuổi, đề cao lợi ích quốc gia mang tính tư lợi, vị kỷ, hẹp hòi trong quan hệ quốc tế, chỉ biết tập trung vào việc đạt được quyền lợi cho quốc gia, dân tộc mình mà không quan tâm, thậm chí làm tổn hại lợi ích chính đáng của các quốc gia khác. Trong hình thức này, chủ nghĩa dân tộc cũng thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đối với cộng đồng quốc tế nói chung, với việc giải quyết những vấn đề chung của toàn nhân loại, không gắn lợi ích dân tộc với quốc tế.
Thứ tư, chủ nghĩa đơn phương, chối bỏ chủ nghĩa đa phương, chống toàn cầu hóa, theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ và các chính sách thương mại, đầu tư mang tính phân biệt đối xử có lợi cho quốc gia mình, hạn chế sự di chuyển các nguồn lực sản xuất ra bên ngoài, bảo vệ nền công nghiệp và các doanh nghiệp trong nước. Hình thức này được các nhà nghiên cứu gọi là chủ nghĩa dân tộc kinh tế(14). Những người theo đuổi chủ nghĩa dân tộc kinh tế không thừa nhận khía cạnh “đôi bên cùng có lợi, cùng thắng” trong việc hợp tác đa phương, thay vì vậy họ chỉ “tập trung vào một người chiến thắng duy nhất trong các cuộc thương lượng quốc tế”(15). Hệ thống chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump là biểu hiện rõ rệt của hình thức chủ nghĩa dân tộc này.
Vì đặc điểm cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc kinh tế là chỉ coi trọng lợi ích kinh tế của quốc gia, những người dân tộc chủ nghĩa có thể ủng hộ hoặc chống lại các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền kinh tế nước ngoài tùy thuộc vào sức mạnh và vị trí quốc tế của một nền kinh tế quốc gia cụ thể(16). Điều này thể hiện ở nghịch lý là một số quốc gia phát triển, được cho là khởi nguồn và đi tiên phong trong thúc đẩy toàn cầu hóa, cổ súy cho tự do thương mại nay lại quay sang chống toàn cầu hóa và bảo hộ mậu dịch. Trong khi đó, một số nước đang phát triển, được cho là đi sau trong tiến trình toàn cầu hóa lại tỏ ra nhiệt thành với toàn cầu hóa, tự do thương mại và hội nhập. Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa về kinh tế không chỉ có ở những người quay lưng với toàn cầu hóa, mà những tư tưởng cổ vũ cho toàn cầu hóa và tự do thương mại nhằm đạt được những lợi ích kinh tế và chính trị không công bằng, không minh bạch, không cùng thắng thông qua việc thực hiện cái mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là “chính sách đầu tư và mậu dịch mang tính cướp đoạt”, “chủ nghĩa thực dân về kinh tế” hay “ngoại giao bẫy nợ”cũng có thể xem là một dạng biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, người Việt Nam đã kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc. Người Việt mang trong mình tinh thần dân tộc rất mạnh mẽ và sâu sắc. Tinh thần dân tộc chủ nghĩa ấy được hun đúc qua thời gian, thấm đượm trong mỗi người Việt, được chưng cất thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Lịch sử đã cho thấy, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam không mang màu sắc cực đoan mà thể hiện tinh thần và khát vọng hòa bình, khoan dung, rộng mở, vì mục tiêu giữ gìn độc lập, tự chủ và phẩm giá của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế với tinh thần “là bạn với tất cả các nước”, nhưng vì lợi ích quốc gia dân tộc được xác định là mục tiêu cao nhất chỉ đạo mọi hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng, cả trong đường lối, chính sách và hoạt động thực tiễn, đối ngoại Việt Nam đương đại thể hiện sự kết hợp hòa quyện giữa dân tộc, quốc tế và nhân loại. Chính sách đối ngoại Việt Nam hiện đại đề cao chủ nghĩa đa phương, đề cao hòa bình, bình đẳng, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc, đồng thời chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, vị kỷ, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa bá quyền, chính trị cường quyền và những hành động đi ngược lại hòa bình, hợp tác và tiến bộ xã hội.
____________________________
(1) Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn.
(2) What Is Nationalism?, World Atlas, https://www.worldatlas.com.
(3) Đào Minh Hồng - Lê Hồng Hiệp (chủ biên): Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Khoa Quan hệ quốc tế - Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2013.
(4) Merriam-webster Dictionary, https://www.merriam-webster.com.
(5) Stanford Encyclopedia of Philosophy, Center for the Study of Language and Information (CSLI), Stanford University, https://plato.stanford.edu.
(6) Anne Sraders: “What is Nationalism? Its History And What It Means in 2018”, The Street, 5-7-2018, https://www.thestreet.com; Kimberly Amadeo: “Nationalism, Its Characteristics, History, and Examples”, The Balance, 13-6-2018, https://www.thebalance.com.
(7) Boyd C. Shafer: Faces of Nationalism, New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1972; Anthony D. Smith: Theories of Nationalism, 2nd ed, New York: Harper & Row, 1983; và Stephen van Evera: Hypotheses on Nationalism and War, International Security , Vol. 18, No. 4 (Spring, 1994), tr.5-39; Jamie Gruffydd-Jones: Dangerous Days: The Impact of Nationalism on Interstate Conflict, Security Studies, 26:4 (2017), pp.698-728; Rafa RIEDEL, “Economic Nationalism and Populism - Intertwining Relations”, University of Opole, DOI: 10.14746/ pp.2017.22.3.1.
(8) George Orwell: “Notes on Nationalism”, http://www.orwell.ru.
(9) What is the difference, if any, between nationalism and patriotism?, https://www.quora.com; Alice Chen: “Nationalism vs Patriotism. Simple explanation with examples”, https://www.myenglishteacher.eu; Nationalism vs. patriotism, The Washington Post, https://www.washingtonpost.com.
(10) Difference between Nationalism and Patriotism, http://www.differencebetween.net; Nationalism vs patriotism: Do you know the difference?, India Today, https://www.indiatoday.in.
(11) How dangerous is nationalism?, https://www.theodysseyonline.com.
(12) Dick Meyer: “Trumpism is nationalism, not populism”, Decode DC, 15-12-2016, http://www.decodedc.com.
(13) Jose Pinto: “Trump, a Nationalist and a Populist Leader”, Global Journal of HUMAN-SOCIAL SCIENCE: F Political Science, Vol. 18 Issue 1 Version 1.0, 2018.
(14) What Is Nationalism?, World Atlas, https://www.worldatlas.com; What is Nationalism? Its History And What It Means in 2018, https://www.thestreet.com; Pryke S.: “Economic Nationalism: Theory, History and Prospects”, Global Policy, No 3 (3), 2012, tr.281-291.
(15) Merkel warns Trump against ‘destroying’ UN, Channel News Asia, 30-9-2018, https://www.channelnewsasia.com.
(16) Rafa Riedel: “Economic Nationalism and Populism - Intertwining Relations”, University of Opole, DOI: 10.14746/pp.2017.22.3.1, tr.11.
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn