Tuy nhiên trong vòng bảy, tám năm gần đây các hoạt động giao lưu văn hoá có tần số dày hơn và tạo thành những điểm nhấn ghi dấu những sự kiện quan trọng của hợp tác hai bên. Bài viết này xin được phân tích một số nguyên nhân tại sao văn hoá không được coi là điểm quan tâm của các nhà hoạch định chính sách hợp tác giữa Việt Nam - EU, đồng thời cũng đề cập đến những dấu hiệu cho thấy quá trình ấm dần của những giao lưu văn hoá giữa hai phía.
EU đã đặt ra 4 mục tiêu chủ yếu trong quan hệ với Việt Nam(1), đó là: 1) Hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam và cải thiện điều kiện sống cho người nghèo; (2) ủng hộ quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới bằng cách đưa kinh tế Việt Nam gia nhập hệ thống thương mại thế giới, hỗ trợ cho các cải cách kinh tế và xã hội; (3) Hỗ trợ cho quá trình Việt Nam tham gia vào một xã hội mở dựa trên một nhà nước mạnh, hệ thống luật pháp và quyền con người; (4) Nâng cao vị trí của Liên minh châu Âu ở Việt Nam. Trong chiến lược hợp tác với Việt Nam cho giai đoạn 2000 - 2005 Dự án Nghiên cứu châu Âu ở Việt Nam được coi là một bước đột phá. Hiện nay, EU đang dự định tiến hành các dự án tăng cường giáo dục, hợp tác văn hoá được coi là nằm trong mảng văn hoá nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào giáo dục với các hỗ trợ kĩ thuật, còn các dự án văn hoá vẫn chưa được định hình. Vì sao các nhà hoạch định chính sách hợp tác của EU không mấy mặn mà với các hoạt động hợp tác văn hoá? Điều đó được giải thích trước hết là do bản thân EU cũng còn đang lúng túng trong việc xác định cho mình một diện mạo văn hoá chung giữa các nước trong cộng đồng EU. EU vốn là một liên minh gắn kết với nhau bởi những mục tiêu kinh tế chung, dần dần phát triển thành liên minh chính trị quân sự, riêng về vấn đề văn hoá thì dường như vẫn còn nhiều e ngại và né tránh. Những chương trình truyền hình riêng của EU gặp phải thái độ thờ ơ của cư dân các nước thành viên, tiếng Anh vốn được phổ biến trên thế giới bị tẩy chay ở một số nước châu Âu như là nguy cơ của “đại chúng hoá” văn hoá thông qua một thứ văn hoá và ngôn ngữ đại chúng, việc chấp nhận ngôn ngữ của tất cả các nước thành viên và những rắc rối, tốn kém do chúng gây nên cũng không làm người dân EU phải vội vã hơn để có một thứ ngôn ngữ chung giản tiện. Nguyên nhân của nó, hẳn nhiều người cũng hình dung ra, đã được Ngài Mr Marcelino Oreja (1997)(2) nhận định như sau: “Nguyên nhân chính là do các nước thành viên có cách nhìn khác nhau đối với văn hoá. Nhiều nước lo ngại rằng Cộng đồng sẽ sử dụng quyền lực để quản lí hoạt động văn hoá. Họ sợ rằng Brussel sẽ can thiệp vào chính sách văn hoá của họ và rằng diện mạo văn hoá cũng như ngôn ngữ của họ sẽ bị đe doạ. Các nước thành viên khác lại e ngại việc một tổ chức nào đó sẽ xen vào lĩnh vực văn hoá, ở mức độ nhà nước hoặc Cộng đồng, cũng như ý tưởng hình thành Bộ Các vấn đề Văn hóa là xa lạ đối với họ”.
Tuy hình thành muộn nhưng ý tưởng về một chính sách văn hoá chung vẫn là điều mà Uỷ ban châu Âu hướng tới. Năm 1977, Uỷ ban châu Âu đã đề đạt lên Hội đồng châu Âu yêu cầu cộng đồng châu Âu (EC) cần phải tham gia vào các khía cạnh kinh tế và xã hội của văn hoá. Sự thờ ơ của người dân EU đối với việc bầu Quốc hội châu Âu vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 đã khiến Uỷ ban châu Âu phải quan tâm hơn nữa tới việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi ý thức của người dân sống trong từng quốc gia riêng lẻ thành ý thức sống trong một siêu quốc gia (supranational). Trong những năm 1982 - 1986, các thiết chế của EU tham gia tích cực hơn vào các vấn đề liên quan đến văn hoá. Tuyên bố Solemn về Liên minh châu Âu năm 1983 khuyến khích các hoạt động trong lĩnh vực văn hoá trên cơ sở một chương trình văn hoá chung toàn châu Âu trong từng nước thành viên. Sáng kiến này đã được triển khai bởi Uỷ ban vì một châu Âu của mọi người (Committee for a People’s Europe) do ngài Pietro Adonnino làm chủ tịch được Hội đồng châu Âu thành lập năm 1984 nhằm đề ra các biện pháp để nâng cao một hình ảnh chung của EC trong mắt người dân châu Âu và thế giới. Một loạt các sáng kiến được đề xuất như hộ chiếu EC, bằng lái xe EC, thẻ cấp cứu y tế, cờ EC, cấp kinh phí cho một kênh truyền hình riêng của EC để phát đi các “thông điệp của châu Âu”, bài hát chung của châu Âu, lấy ngày 9 tháng 5 hằng năm làm “Ngày châu Âu”. Các kiến nghị khác cũng được Uỷ ban mong muốn thực hiện là nghiên cứu di sản và những đóng góp chung của châu Âu đối với văn minh loài người thông qua một số thiết chế, chẳng hạn Viện hàn lâm Khoa học châu Âu, chú trọng đến lịch sử phát triển châu Âu trong các chương trình giáo dục, hay thông qua việc thiết lập một mạng lưới truyền thông và nghe nhìn trên toàn châu Âu. Văn kiện của Uỷ ban châu Âu năm 1988 tuyên bố rằng “Liên minh châu Âu vốn đang trong quá trình hình thành không coi các mục tiêu kinh tế và xã hội là mục đích duy nhất, liên minh này còn bao gồm những hình thức thống nhất mới dựa trên những gì thuộc về một nền văn hoá châu Âu”(3)
Văn hoá được coi là một công cụ để nâng cao diện mạo châu Âu (european identity) và lần đầu tiên nó đã được đặt ra thành một điều luật chính thức trong Hiệp ước Maastricht (Title to the Culture)(4), điều 128, trong đó nói rằng Cộng đồng đóng góp cho sự phát triển nền văn hoá của các nước thành viên và của toàn thể châu Âu. Tuy điều 128 đều được mọi người cho là phương thức để kiểm soát hoạt động của Uỷ ban trong lĩnh vực này như một tác nhân kích thích, một số quốc gia cho rằng hoạt động văn hoá ở cấp châu Âu có thể đe doạ sự độc lập của chính sách văn hoá của quốc gia đó. Lợi ích của một siêu quốc gia EU với của từng quốc gia riêng lẻ trong lĩnh vực văn hoá đã dẫn tới việc “không có một “chính sách” văn hoá của Cộng đồng, Cộng đồng chỉ có trách nhiệm khuyến khích hoạt động văn hoá trong các quốc gia thành viên, hỗ trợ và giúp đỡ họ “nếu cần thiết”. Thẩm quyền của Cộng đồng trong lĩnh vực văn hoá tiếp tục bị hạn chế hơn trong Hiệp ước Amsterdam năm 1997, với quy định trong điều 4 “Cộng đồng sẽ chú trọng tới lĩnh vực văn hoá dưới những điều khoản khác trong Hiệp ước này” đã được sửa đổi bổ sung thêm cụm từ “đặc biệt nhằm tôn trọng và thúc đẩy sự đa dạng văn hoá của các quốc gia thành viên”. Hiến chương về những Quyền cơ bản năm 2000 cũng đã đề cập đến trong điều 22 “Liên minh sẽ tôn trọng sự đa dạng văn hoá, tôn giáo và ngôn ngữ”.
Như vậy có thể nói từ năm 1992, ý tưởng tiến tới hình thành một chính sách văn hoá châu Âu hầu như không tiến triển. Quan điểm duy nhất được chấp nhận vẫn là giữ nguyên sự đa dạng của văn hoá và ngôn ngữ của từng quốc gia, tuy việc sử dụng 20 ngôn ngữ chính thức (từ 11 ngôn ngữ của EU 15) trong EU hiện nay đã gây ra không ít rắc rối và lãng phí cũng như là đề tài của nhiều tranh luận và nghiên cứu.
Bất chấp những hạn chế do Hiệp ước Maastricht - Amsterdam đề ra, Uỷ ban châu Âu vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các sáng kiến liên quan đến văn hoá, như đã chỉ ra trong Chương trình Khung đầu tiên của Cộng đồng châu Âu về hỗ trợ Văn hoá (2000 - 2004)(5). Chương trình này nhận định “văn hoá không chỉ được coi là một hoạt động phụ mà là một động lực trong xã hội, tạo nên sức sáng tạo, sức sống, đối thoại và liên kết”. Chương trình này đã coi văn hoá là yếu tố liên kết xã hội, đồng thời cũng là một động lực thúc đẩy kinh tế thông qua việc tạo công ăn việc làm trong lĩnh vực kinh doanh văn hoá, du lịch, đầu tư vào các sản phẩm văn hoá. Trong nỗ lực hướng tới một diện mạo văn hoá chung của châu Âu, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “một diện mạo văn hoá chung trong không gian châu Âu không chỉ là một phần mang tính phụ trợ đối với kinh tế chính trị của quá trình hội nhập mà nó còn bổ sung những khả năng để đối phó với những điều kiện kinh tế xã hội không thuận lợi trong EU”(6).
Trong bối cảnh EU còn đang tìm kiếm cho mình một chính sách văn hoá chung, khi xác lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam năm 1990, EU đã nhằm chủ yếu vào các mục tiêu hợp tác kinh tế thương mại và không đề cập tới hợp tác văn hoá. Đến năm 1995, Hiệp định Khung được kí kết giữa hai bên cũng không cho thấy dấu hiệu của sự quan tâm đến việc nâng cao các hợp tác văn hoá. Trong khi đó, năm 1995 là năm Mĩ tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Người Mĩ đã từng thừa nhận một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn tới thất bại của họ trong chiến tranh ở Việt Nam là do họ đã không hiểu một cách tường tận về văn hoá nước này, do đó đã không hiểu được người Việt Nam và tâm thức của họ. Và để bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, một trong những hoạt động đầu tiên là các giao lưu văn hoá. Nếu như người Mĩ đã sử dụng những chiến lược kiểu “ngoại giao bóng bàn” với Trung Quốc hay “ngoại giao bóng đá” với Irắc, thì trong trường hợp với Việt Nam, Mĩ đã sử dụng một cách có hiệu quả “ngoại giao văn hoá”. Các quan chức cấp cao của Mĩ luôn luôn có xu hướng muốn khoe trình độ hiểu biết của mình về văn hoá Việt Nam. Tổng thống Bill Clinton khi tới Việt Nam đã lẩy câu Kiều:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Hay trước đó ngoại trưởng Mĩ Christopher, trong bài phát biểu của mình đã trích dẫn câu “Thiên khởi trung hưng, Thế khai văn vận” ý muốn nói khi thời thế thuận lợi, xã hội phát triển, người ta bắt đầu chú trọng đến văn hoá. Lĩnh vực văn hoá người Mĩ lựa chọn là văn học và văn học chiến tranh, các tác giả được lựa chọn là Lê Lựu với Thời xa vắng và Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh. Tương tự phía Mĩ cũng có những tác giả viết về chiến tranh được coi như những đối tác trong trao đổi văn hoá. Vào những năm 1993 - 1994 một loạt các bài viết về nước Mĩ, về những chuyến đi của các nhà văn tới nước Mĩ đã được đăng tải rầm rộ trên các báo, đặc biệt là báo Văn nghệ, gây sự chú ý và tò mò của độc giả. Để lí giải vì sao người Mĩ lại lựa chọn những tác giả này như những người tiên phong trong việc hàn gắn quan hệ giữa hai nước hẳn phải cần những nghiên cứu công phu, ở đây tác giả bài viết này chỉ muốn đề cập tới khía cạnh lựa chọn lĩnh vực hợp tác để hướng tới một chiến lược hợp tác có hiệu quả.
Trong những năm cuối của giai đoạn triển khai Chiến lược phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam - EU 1995 - 2000 có sự khởi sắc của các giao lưu văn hoá. Tuy nhiên như trên đã nói do EU còn chưa xác định một nội dung văn hoá chung cho họ thì chủ thể tham gia giao lưu văn hoá trực tiếp với Việt Nam là các nước thành viên EU. Và lĩnh vực văn hoá được lựa chọn để giao lưu trước hết là phim ảnh, âm nhạc. Năm 1999, Liên hoan phim châu Âu do các nước thành viên Liên minh châu Âu và Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam đồng tổ chức đã diễn ra lần đầu tiên tại Hà Nội và kể từ đó cứ hai năm một lần liên hoan này lại được tổ chức và cho đến nay đã trải qua bốn kì với những thành công đã được ghi nhận. Số lượng phim được lựa chọn để trình chiếu ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú, nó cho thấy nét đa dạng của điện ảnh châu Âu cũng như những đa dạng về văn hoá, về cuộc sống, quan điểm thẩm mĩ của mỗi nước trong EU. Hầu hết các phim được công chiếu là từ những nước EU có Đại sứ quán ở Việt Nam. Năm 2003 lần đầu tiên có sự tham gia của hai nước không có sứ quán thường trực tại Việt Nam (Hi Lạp, Luxambua) và cộng đồng người Bỉ nói tiếng Hà Lan. Năm 2005, Liên hoan phim lần thứ 4 là Liên hoan hội tụ được đông đủ nhất các nước tham gia, lần đầu tiên có sự tham gia của hai nước thành viên mới gia nhập EU năm 2004 là Cộng hoà Séc và Ba Lan. Những bộ phim đến từ châu Âu đã truyền đạt những thông điệp mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời cũng thể hiện những quan điểm thẩm mĩ độc đáo của người châu Âu. Chẳng hạn bộ phim Mây của Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp được chiếu trong liên hoan năm 2003 dài 76 phút đặc biệt chỉ dành tâm điểm cho những cảnh quay về mây. Bộ phim dựa trên những bức thư của một người mẹ gửi cho con trai mình ngay từ khi nó còn là bào thai trong bụng mẹ. Ngôn ngữ của điện ảnh đã thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của người mẹ dành cho con mà hình tượng nghệ thuật chủ yếu ở đây là cảnh những đám mây. Có thể nói các bộ phim của châu Âu nặng tính tự sự, những tìm tòi khám phá các hình tượng nghệ thuật mới và thiếu vắng những pha gay cấn, những kĩ xảo điện ảnh, những cảnh quay hoành tráng của phim Hollywood. Tiết tấu phim chậm, các cảnh quay tinh tế, đi vào chiều sâu là điều mà khán giả có thể cảm nhận từ phim châu Âu.
Một thể loại nghệ thuật nữa mà các nước EU muốn gửi tới Việt Nam là nhạc Jazz, một thể loại nhạc không phải là dễ nghe đối với tất cả mọi người. Cho tới nay đã có bốn liên hoan nhạc Jazz châu Âu được tổ chức ở Việt Nam. Năm 2004 diễn ra liên hoan lần thứ 4 và lần này có sự tham gia của đông đảo các nghệ sĩ chơi nhạc Jazz của Việt Nam. Được bắt nguồn từ những ngẫu hứng, nhạc Jazz cho phép người nghệ sĩ thể hiện hết sự thăng hoa trong sáng tác và diễn đạt của mình. Một số các loại hình khác được đưa vào chương trình giao lưu là nghệ thuật sắp đặt, hội hoạ. Như vậy có thể thấy EU, mà đại diện là các nước thành viên đã đem đến Việt Nam ấn tượng về những đường nét văn hoá châu Âu hiện đại, một nền văn hoá giành cho những người “thưởng thức nghiêm túc”, mà trên hết cả là đem đến một văn hoá phim ảnh, âm nhạc, hội hoạ “với nhiều phong cách khác nhau” mà ở đó người nghệ sĩ có thể “hoàn toàn thể hiện được chính bản thân mình mà không có bất cứ giới hạn nào về phong cách. Nó đưa đến cái nhìn về một thế giới vượt lên trên các ranh giới”. Đặc biệt các ban nhạc Jazz Ginman de Lux từ Đan Mạch hay Mezcal Jazz Unit Duo Diaz - Carbou từ Pháp với phong cách ngẫu hứng và tự do sáng tạo bất tận của mình đã kết hợp các giai điệu châu Âu với các âm thanh của Việt Nam (không chỉ là giai điệu nhạc Việt Nam mà là cả các âm thanh của một cuộc sống hiện đại). Khán giả đã đón nhận những liên hoan âm nhạc này với niềm thích thú, tuy nhiên, như trên đã nói, khán giả của những thể loại này giới hạn trong số rất ít những người thật sự hiểu biết về âm nhạc. Âm nhạc, phim ảnh... châu Âu là thứ văn hoá rất kén khán giả. Và đó phải chăng cũng là một thông điệp từ châu Âu gửi đến Việt Nam.
Thời gian gần đây EU đã và đang tìm kiếm những cách tiếp cận để giới thiệu được hình ảnh EU một cách đại chúng hơn. Năm 2005, kỉ niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức Việt Nam - EU Phái đoàn của Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam đã chọn Ngày châu Âu 9 tháng 5 làm ngày Văn hoá Châu Âu. Để chuẩn bị cho sự kiện này Phái đoàn đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về EU và phát trên Đài Phát thanh từ ngày 19 tháng 2 đến 7 tháng 5 năm 2005 với 12 chương trình phát sóng nhằm vào 12 chủ đề khác nhau. Trước đó, năm 2004 Phái đoàn cũng đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam tổ chức cuộc thi tìm hiểu EU trên Quizshow Hành trình văn hoá. Giúp cho người dân Việt Nam hiểu biết hơn về EU, các hoạt động văn hoá gần đây đã được đầu tư và thúc đẩy hơn.
Về phía mình, Việt Nam đã có những cố gắng giới thiệu hình ảnh đất nước Việt Nam thông qua nền văn hoá giàu truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc đến với các nước thành viên EU. Trong Đề án tổng thể Quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu và Chương trình hành động của Chính phủ Việt Nam về phát triển quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu đến 2010 và định hướng tới 2015, Chính phủ Việt Nam chủ trương tăng cường các hoạt động trao đổi, giao lưu văn hoá nghệ thuật với các nước thành viên EU, nhất là với các nước mà Việt Nam đã kí hiệp định hợp tác văn hoá. Trong đó Chính phủ đại diện là Bộ Văn hoá chú trọng công tác thông tin đối ngoại, giới thiệu quảng bá hàng hoá, dịch vụ, du lịch, văn hoá nghệ thuật, hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, pháp luật và môi trường đầu tư của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trên các phương tiện thông tin truyền thông trong và ngoài nước, đồng thời nhấn mạnh tới việc chủ động, tích cực khai thác những tinh hoa văn hoá của các nước EU, cử người đi đào tạo cơ bản ở những nước này. Đường hướng là như vậy, tuy nhiên việc làm sao có thể quảng bá được hình ảnh Việt Nam với đầy đủ những đặc sắc của nền văn hoá dân tộc để hình ảnh đó được đón nhận ở EU thiết nghĩ không phải là vấn đề đơn giản, đặc biệt làm sao để người dân EU hiểu được cái hay cái đẹp và cái riêng của văn hoá Việt Nam, khác với văn hoá Trung Hoa và các nước Đông Nam á khác. Để có thể biến điều đó thành hiện thực cần có một chiến lược trước mắt và dài hạn với sự tư vấn của các nhà nghiên cứu, các nhà văn hoá và hoạch định chính sách văn hoá.
CHÚ THÍCH
1. http://www.delvnm.cec.eu.inten/develpcoop /delcoop-prọect.htm.
2. Oreja, M. (1997) Culture and European Integration. Foundations of the European Community’s cultural activities. http://europa, eu, int/en/comm/dg10/oreja/0603en.html
3. Ủy ban của Cộng đồng châu Âu (1988). Một châu Âu của mọi người. Trích của Giles Scott-Smith “Công dân châu Âu, liên kết xã hội và một xã hội mạng lưới”, xem http;//www.isanet. org/noarchive/scott smith.html.
4. Xem http://europa.eu.int/en/comm.dg10/ culture.
6. http://eropa.eu.int/en/comm/dg10/culture/ program-2000-part 3 -en.html.
7. Scott-Smith Giles. Đã dẫn
Nguồn : Tạp chí văn hóa nghệ thuật