1. GIỚI THIỆU
Người Ấn đã có mặt ở Sài Gòn sau khi Pháp đặt chân đến không lâu. Ban đầu là các người lính Ấn Độ gốc Tamil và các nông dân mang theo các nông súc cung cấp thực phẩm cho quân viễn chinh Pháp đi tàu từ Ấn Độ đến Nam Kỳ (6). Một số họ ở lại Sài Gòn định cư làm ăn, sau đó là các người Ấn từ Pondicherry, Chandernagore vùng thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ và các vùng thuộc Anh ở Ấn Độ và Malaysia. Họ làm nghề cảnh sát, thu thuế, buôn bán, cho vay tiền, chăn gia súc (bò, dê) cung cấp sữa.
Bắt đầu từ năm 1881, nước Pháp dưới thời đệ tam cộng hòa, cho những người Ấn làm việc ở các cơ quan của Pháp ở các thành phố buôn bán thuộc Pháp Chandernagore, Pondicherry, Mahe, Yanaon và Karikal được có quốc tịch Pháp khi họ tuyên bố từ bỏ chế độ đẳng cấp (Hindous renonçants), phân biệt giai cấp trong xã hội người Ấn. Những người này có quyền lợi bỏ phiếu và lợi thế tài chính khi họ di dân đến những thuộc địa khác của Pháp, vì họ được xếp vào loại “công dân Pháp” (6). Vì thế có nhiều người Ấn đã đi đến Đông Dương làm việc và làm ăn sau năm 1881.
Đến cuối thế kỷ XIX, số người Ấn buôn bán ở Sài Gòn tăng vọt, có đến 19 tiệm buôn bán đổi tiền ở các đường Catinat, rue Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay), khu chợ Cũ và 29 tiệm làm dịch vụ cho mượn tiền (escompteur, banquier) ở đường rue d’Adran (Hồ Tùng Mậu) (2). Ngoài nghề lái xe ngựa, gác-dan (guardian), cảnh sát, có một nghề thông dụng của người Ấn là cung cấp sữa bò, sữa dê (laitier). Họ chiếm đa số nghề này ở khắp Sài Gòn và Chợ Lớn. Có đến 9 nhà cung cấp sữa ở Sài Gòn, Khánh Hội và 6 người ở vùng Chợ Rẫy, Chợ Lớn ở gần các chợ (1890).
Người Ấn thường được người Pháp gọi là Malabar hay Chettys, người Việt gọi là Chà Và hay Chệt-ti hay Sẹt-ti, Xá-tri (từ Chệt thì được dùng để chỉ người Hoa, Chệc hay Chệt). Từ Chệt-ti là do từ gốc Nattukottai Chettiars, chỉ những người Ấn gốc Tamil từ Pondicherry. Người Ấn đến Sài Gòn và Nam Kỳ rất đa dạng, đa số từ Pondichery (Tamil) nhưng cũng có người ở các thành phố hay các bang khác như Bombay (Gujarati, Sindhi), Punjab (Punbjabi, Sikhs, Pathan), Chandernagore (Bengali). Họ theo các đạo khác nhau Ấn giáo, Hồi giáo, Sikhs và Ki-tô giáo. Người Ấn gốc Bombay và Tamil Hồi giáo thường làm nghề bán vải, may quần áo, nữ trang, trong khi đa số người Tamil Ấn giáo làm nghề cho vay tiền, lái xe, buôn bán sữa.
2. NHỮNG DOANH NHÂN NỔI TIẾNG Ở SÀI GÒN
Vào cuối thế kỷ XIX, doanh nhân Ấn gốc Tamil từ Pondicherry đầu tiên thành công trên thương trường và có thế lực ở Sài Gòn là ông Dharmananthan Prouchandy. Xuất thân từ gia đình khá giả theo đạo Ki-tô ở Pondicherry, ông đến Nam Kỳ vào năm 1870 và đi vào lãnh vực hàng hải. Ông mua hai tàu hơi nước vào năm 1891 và 1892 chở khách trên các tuyến trên sông Mekong, nhất là ở vùng Châu Đốc, Hà Tiên và Cam Bốt, nơi Công ty dịch vụ chuyên chở đường sông Nam Kỳ (Compagnie des Messageries fluviales de Cochinchine) không hoạt động đầy đủ đáp ứng nhu cầu của dân trong vùng. Tàu xà-lúp Prouchandy và Alexandre đã được phó soái Nam Kỳ cho phép mang cờ Pháp hoạt động chở khách trên đường sông ở Nam Kỳ.
Theo biên bản của buổi họp Hội đồng quản hạt (Conseil colonial) ngày 03/12/1898 cho biết xà-lúp hơi nước Alexandre của ông Prouchandy trên tuyến đường Châu Đốc - Hà Tiên bắt đầu chở khách từ năm 1891. Trong các năm 1892-1893, nhà nước cũng giao tàu này chở thêm thư từ giữa bưu điện Châu Đốc và Hà Tiên. Hội đồng quản hạt năm 1893 đã trợ cấp dịch vụ này 600 đồng cho ông Prouchandy. Nhưng sau khi có nhiều sự trễ nải, Hội đồng quản hạt đã rút trợ cấp này vào tháng 10 năm 1894 và năm 1894-1895 đã từ chối đơn trợ cấp của ông Prouchandy. Năm 1896-1897, Hội đồng quản hạt đã đồng ý trợ cấp với điều kiện cải thiện tàu phục vụ tiện nghi cho tốt, vận tốc nhanh và phục vụ thường xuyên hơn. Theo báo cáo của quan quản lý tỉnh Châu Đốc thì xà-lúp Alexandre chỉ đến Hà Tiên khi ở bến tàu Châu Đốc có đông hành khách hơn số hành khách đi Nam Vang hay Takeo và tàu Alexandre đã cũ lại dơ, không an ninh cho hành khách. Vì thế, Hội đồng quản hạt năm 1897 đã từ chối trợ cấp trở lại 600 đồng (10). Ông Dharmananthan Prouchandy trước đó cũng đã định lập công ty tàu biển phục vụ chuyên chở khách trên tuyến đường Sài Gòn - Bangkok vào năm 1893 nhưng nhà đương cuộc Pháp ở Sài Gòn đã không cho phép cạnh tranh với Công ty Dịch vụ Hàng hải (Messageries Maritimes) (11).
Người cháu của ông Dharmananthan Prouchandy là Saverikannu Prouchandy, con của người anh, mới 16 tuổi đến Sài Gòn lập nghiệp vào năm 1886 dưới sự hướng dẫn của chú là Dharmananthan. Nhưng người chú đã không chăm sóc mà lại bắt ông Saverikannu làm lụng cực khổ trong xưởng làm nước soda của mình. Cuối cùng, Saverikannu bỏ nhà ra đi, trở nên vô gia cư và bị nhà cầm quyền gởi trở về Pondicherry (13). Ông Saverikannu sau đó trở lại Sài Gòn và quyết chí tạo ra sự nghiệp riêng. Ban đầu làm chức vụ thư ký đi thâu thuế ở nhiều tỉnh và có vốn đầu tư mua đất đai, cho mượn tiền và chẳng bao lâu trở nên giàu có, sở hữu rất nhiều nhà cửa, đất đai ở Sài Gòn và các tỉnh. Ông cũng sở hữu các đồn điền cao su, các trại nuôi ngựa và tham gia vào môn đua ngựa ở trường đua, thắng một số giải. Trong lúc Saverikannu giàu có thì người chú lại xuống dốc trong thương mại, làm ăn thất bại và mất vào thập niên 1920. Severikannu trở về Pondicherrry lập gia đình, sau đó trở lại Sài Gòn cuối năm 1919 và cư ngụ ở biệt thự số 76 đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay). Nhưng chẳng may ông bị bệnh và mất sớm vào năm 1928.
Người cháu của Saverikannu Prouchandy là Léon Prouchandy lúc đó đang lập nghiệp ở Sài Gòn, lấy người vợ góa phụ còn trẻ của Saverikannu và kế vị trông coi sản nghiệp to lớn của Saverikannu. Cuộc đời sự nghiệp của Léon Prouchandy gắn liền với lịch sử tranh đấu dành độc lập của Ấn Độ liên quan đến Subhas Chandra Bose, lãnh tụ Chính phủ lâm thời Ấn Độ tự do do Nhật Bản thiết lập và hỗ trợ trong các năm 1940-1945 để giành độc lập từ người Anh và căn nhà số 76 Paul Blanchy là trụ sở của Hội Quốc dân Ấn Độ (India Nationalist Society, I.N.S.) và ban thư ký của Liên đoàn Độc lập Ấn Độ (Secretariat of Indian Independence League, I.I.L.). Chính Léon Prouchandy cũng là người phát động phong trào “cải cách y phục” của người Ấn ở Sài Gòn năm 1933 mà ta sẽ bàn đến sau.
Đầu thế kỷ XX, người Ấn đã trở thành một cộng đồng có thế lực về kinh tế chính trị không thua kém nhiều so với người Hoa ở Sài Gòn. Đa số có quốc tịch Pháp vì đến từ thuộc địa Pondichery, một nhượng địa Pháp ở Ấn Độ, nên lá phiếu của họ trong bầu cử vào Hội đồng Thành phố rất quan trọng. Các chính trị gia người Pháp, như ông thị trưởng Paul Blanchy, đều muốn có sự ủng hộ của họ.
Trên đại lộ Charner ở số 58-60-62-64 (sau này địa điểm này là khách sạn Palace Hotel) là cửa hàng bán lụa, vải của công ty Ấn Độ Pohoomull frères (Pohoomull Brothers) nổi tiếng. Công ty này có chi nhánh tại nhiều nước từ Ai Cập, Bắc Phi (Algiers, Tenerife, Port Said), Gibraltar Địa Trung Hải, Budapest, Durban, Cape Town, đến Viễn Đông như Hồng Kông, Singapore, Manila, Kuala Lumpur, Quảng Châu (Trung Quốc), Kobe, Yokahoma (Nhật Bản). Công ty do 4 anh em Pohoomull thành lập ở tỉnh Sind năm 1858 và trong thập niên 1870 đã có mặt ở Ai Cập. Ở Sài Gòn, công ty còn có cửa tiệm ở đường rue d’Ormay và các chi nhánh ở các tỉnh Nam Kỳ.
3. SINH HOẠT KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA
Khi nghe tin thi hào Tagore sẽ viếng Sài Gòn vào năm 1924, cộng đồng người Ấn gồm nhiều giáo phái đã đóng góp vào quỹ tiếp đón gồm có người Ấn Độ đã bỏ chế độ giai cấp (Hindous renonçants) 1.308$, Ấn Độ Chettys (những người này từ tỉnh từ Tamil Nadu) 1.500$, Ấn theo Hồi giáo 1.000$, Ấn Độ chưa từ bỏ giai cấp ở Sài Gòn (Hindous non renonçants) 361$ và Chợ Lớn 250$. Ấn thương gia Bombay (Commerçants Bombay) 300$. Điều này cho thấy, người Ấn mặc dù theo nhiều giáo phái và từ các vùng khác nhau đã khá đoàn kết ở Nam Kỳ.
Về hoạt động văn hóa, các ngày lễ hội của người Ấn theo Ấn giáo hàng năm được tổ chức rất đình đám ở trung tâm Sài Gòn trên đường Ohier. Tờ Écho Annamite (25/01/1929) có đăng tin về một lễ hội của người Ấn như sau:
“Lễ hội của người Chettys[1]
Đêm nay sẽ có bắn pháo bông lớn như hàng năm. Dường như năm nay các người Sẹt-ti đã mua một ngàn hai trăm đồng tiền pháo…. Nếu gió thuận và không cản trở chi thì chắc rằng sẽ có một cảnh tuyệt đẹp.
Theo lệnh của Hội đồng Thành phố và do nhiều sự than phiền của công chúng, những người thờ phượng nữ thần tiền bạc không được làm tổn thương thân thể bằng kim công khai trong quần chúng, như một số những người cuồng tín thường làm”.
Trong thập niên 1930 thì người Ấn có vị trí thương mại khá phong phú ở Sài Gòn. Theo niên giám Annuaire 1933-1934, trên một đoạn đường Catinat có các cửa hàng bán sỉ (marchands en detail) của các người Ấn như sau:
1. General cigarettes Store “A Abdoullah”, 9 rue Catinat.
2. J. Mohamadalty, 33 rue Catinat.
3. T. M. Aboubakar, 79 rue Catinat.
4. Mougarmadou-Abdoulcadar, 99 rue Catinat,
5. Cou Ismael, 121 rue Catinat,
6. Mougarmadousoultane, 151 rue Catinat,
7. Mou-Mougamadouméidine, 155 rue Catinat,
8. D. Candassamy, 161 rue Catinat,
9. J. M. Mohamed-Ismael 179 rue Catinat.
Các thương gia người Ấn chiếm lĩnh thị trường cho vay mượn, mà rất nhiều nông dân người Việt trong lúc đầu mùa trồng lúa thường phải vay mượn họ với lãi suất rất cao. Họ có cửa tiệm cho vay ở nhiều tỉnh thành Nam Kỳ lục tỉnh. Ngay cả những người Pháp trong tình trạng khó khăn túng quẫn cũng mượn người Xá-tri và họ thường bị rơi vào vòng nợ nần. Người Xá-tri cho vay, vì thế, dưới mắt của nhiều người dân đủ các tầng lớp đều mang tiếng xấu. Đã có nhiều vụ kiện tụng qua những khoản vay nợ như vậy.
Theo tờ Công luận báo (L’Opinion) mà báo L’Écho Annamite ngày 21/12/1920 có đăng lại như sau:
“Chetties và lãi suất khủng khiếp
Qua phán quyết lâm thời ngày 17 tháng 11 năm 1920, Tòa án Dân sự Sài Gòn đã từ chối yêu cầu của người khiếu nại, một người Xá-tri, kiện đòi một trong những con nợ của mình, một nông dân người bản địa, phải thanh toán với giá tiền khoảng 60 đồng mỗi năm, lãi suất tích lũy trên một số tiền ghi mượn là 4.000 đồng.
Trường hợp sau đó đã ra trước Tòa án cấp phúc thẩm, kéo dài khoảng hai tuần, lập luận của những người Xá-tri là như sau:
Đó là lập luận mà ông Girard, luật sư biện hộ cho người Xá-tri, đưa ra (Người Xá-tri là một người làm ngân hàng được cấp giấy phép, vì thế, ông ta không phải bị ràng buộc bởi Nghị định ngày 15 tháng 5 năm 1914 giới hạn tỷ lệ lãi suất 1% mỗi năm, nhưng giống như các người làm ngân hàng ở chính quốc, ông ta được hưởng quy chế của pháp luật năm 1918, luật này không có giới hạn nào về lãi suất cao nhất trong các vấn đề thương mại).
Các lập luận chống lại lập luận trên của người Xá-tri, được đưa ra bởi ông Lambert có thể được tóm tắt như sau: “Giấy phép không có nghĩa là người Xá-tri thành một người làm ngân hàng. Hay nói theo cách khác thật đúng nghĩa, ngân hàng là một cơ sở thương mại chuyên tâm trong dịch vụ xử lý ngoại hối và giảm giá, đăng ký phát hành các chi phiếu, giấy tờ có giá trị luật pháp.
Người Xá-tri không làm gì hết trong những điều này. Nếu ông ta đồng ý cho vay thương mại thì đó chỉ là bản hiệu ngoại lệ. Những giấy tờ chi phiếu ông ta phát ra không có giá trị pháp luật.
Trái lại, các người Xá-tri đồng ý chấp nhận trong rất nhiều khoản tiền cho vay dưới tiêu đề dân sự hoặc tư nhân. Ông ta mượn tiền từ ngân hàng theo lãi suất đúng theo quy định luật pháp và cho vay lại với lãi suất cao, nhưng điều này ở đây không phải là dịch vụ ngân hàng.
Làm sao có thể xác định được một khoản vay là thương mại hay dân sự? Nó là dân sự khi nó được cấp cho một cá nhân, như trong trường hợp này, cho một nông dân trồng lúa để canh tác đất của ông ta.
Người Xá-tri rất hiểu điều này nên đã mang con nợ của mình ra trước tòa án dân sự, chứ không ra trước Tòa án thương mại, như theo điều số 636 của Bộ luật Thương mại”.
Vụ kiện đã được phán xét. Tại kỳ họp mới nhất, ở phòng đầu tiên của Tòa án cấp phúc thẩm dưới sự chủ trì của ông St Michel Dunezat, trợ lý bởi các ông Garrigue và de Rozario, tòa đã phán xét vụ kiện này.
Tòa án phải quyết định một vấn đề lớn: “Người Xá-tri, nói chung có được xem như là một người chủ ngân hàng hay không? - Chính xung quanh câu hỏi này mà vụ kiện này và ba trường hợp tương tự khác đã tập trung dựa vào trong tất cả các khía cạnh.
Tòa án, trong những từ phán xét của vụ kiện, đã trả lời là: không. Người Xá-tri không phải là một người làm việc trong lãnh vực ngân hàng. Hành động theo nguyên tắc này, rõ ràng tòa đơn giản xác nhận sự phán xét của tòa án dân sự trước đó. Tòa tuyên bố sự kháng cáo của người Xá-tri vô căn cứ và bắt người Xá-tri kháng cáo phải trả chi phí tòa, tuy nhiên, con nợ phải hoàn trả số tiền lãi được tính ở mức 12% mỗi năm theo nghị định của ngày 15 tháng 5 năm 1914.
Trong phán quyết của mình, tòa án sau đó đã định nghĩa vay mượn dân sự và tuyên bố rằng trong mỗi trường hợp thuộc loại như vậy, điều cần thiết, trước hết là phải xác định chất lượng của khoản vay. Trong các trường hợp thuộc về thương mại thì người Xá-tri là người hoạt động trong lãnh vực ngân hàng, có nghĩa là ông ta không bị phụ thuộc vào bất kỳ hạn chế trong tỷ lệ lãi suất.
Phán quyết này do đó đặt mọi thứ vào một trật tự rõ ràng hết mơ hồ và người Xá-tri, trước đây có thể cho vay dưới vỏ bọc của ngân hàng với lãi suất cắt cổ, thì giờ đây bị buộc phải tuân theo các điều khoản của Nghị định 1914 trong các giao dịch với các cá nhân. Đây là sự kết thúc của triều đại ngự trị của ông Xá-tri!
Nhưng cơ bản, có phải không có, từ nhiều năm qua, tình trạng không thể chấp nhận? - người bản xứ khi cho vay tiền một người bản xứ khác (tiền này không ra khỏi thuộc địa và giúp cho họ phát triển thịnh vượng), người bản xứ này không có quyền cho vay với lãi suất hơn 12% mỗi năm trong khi bên cạnh anh ta, người Xá-tri, sau khi vay 12%, cho người khác mượn với lãi suất 50 và 60% một năm.
Và số tiền mà người Xá-tri đoạt được, không mất bất kỳ nỗ lực cá nhân, và, do đó, không có một chút ích lợi gì cho thuộc địa mà ông ta góp vào? - Số tiền này rời thuộc địa đi đến Ấn Độ!
Tòa án, trong phán quyết của mình, vì vậy, chấm dứt sự lạm dụng bất hợp pháp mà những người nước ngoài được hưởng lợi trên sự thiệt thòi của người dân bản xứ Đông Dương.
Phán quyết này là một sự kiện đáng hoan nghênh”.
Để có thể giúp đỡ người Việt có cơ hội mượn được vốn làm ăn, nhu cầu thành lập quỹ tín dụng là cần thiết. Khi Công ty Tín dụng An Nam (Société Annamite de Crédit) được thành lập vào năm 1926 và hoạt động hiệu quả thì tình hình vay lãi cắt cổ không còn trầm trọng như trước đó. Tuy vậy, báo Écho Annamite ngày 27/6/1930 đã tiếp tục kêu gọi ủng hộ và cho biết tin tức về sự thành lập của quỹ cho các nông dân vay của Công ty Société Annamite de prêt do ông Hồ Văn Lang ở Khánh Hưng, Sóc Trăng và một số người khác thành lập. Báo kêu gọi mọi người An Nam đóng góp vào vốn cho quỹ để giúp đồng bào thay vì họ phải đi mượn vào mỗi vụ mùa tiền vốn từ các người Xá-tri và Hoa với giá lãi suất cắt cổ.
Trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng từ năm 1929 đến 1934, trong lúc mọi thành phần trong xã hội đều gặp khó khăn kinh tế. Nạn Sét-ti (Chettys) cho mượn tiền lãi suất cắt cổ có lúc đã làm chính quyền phải trục xuất một số Sét-ti ra khỏi Nam Kỳ như tờ Phụ nữ Tân văn ngày 06/4/1933 đã có đăng tin như sau (chính tả giữ nguyên).
“Năm tên Chà-và Chetty bị trục-xuất
Quan thống-đốc mới ký một đạo nghị-định trục xuất năm tên Chà-và Chetty ra khỏi cảnh-giới Nam-kỳ.
Trong bọn nầy có một tên cho vay rất to lớn mà lâu nay ai cũng biết danh. Thấy nói bọn nầy bị trục xuất về tội niết-sách các chủ nợ Annam sao đó.
Sau khi hay tin, hết thảy bọn chà Chetty ở đây – chắc có mấy người cố-vấn tây chỉ vẽ - đã đồng lòng với nhau để phản kháng, lại cũng có đánh điện-tin về kêu nài với chính phủ Ăng-lê ở Ấn-độ.
Đối với vụ nầy, bạn đồng-nghiệp “Opinion” có bày tỏ ý-kiến rằng giữa lúc người Pháp và người Nam đương xúm nhau kiếm phương-thế gì đặng cứu lấy cái tình-hình kinh tế khó-khăn, mà có một ít người ngoại-quốc, đã chẳng họa theo thì chớ, cái nầy lại nhè các chủ nợ Annam mà làm khó dễ, thì chánh-phủ ra lịnh đuổi cổ đi để răn đe kẻ khác là phải rồi, chẳng có chi đáng phàn-nàn cả”.
Tiếp theo tờ P.N.T.V. (24/8/1933) cho biết thêm về sự căng thẳng giữa người Việt và Chetty như sau:
“Bọn Chetty bị bác đơn rồi
Năm rồi bọn Chetty ở đây thấy tình-hình dân trong nước sanh nhai một cách khó-khăn, không còn thế cho vay lấy lời nữa, nên đồng lòng xin trả lại ba-tăng[2] lại cho địa-phương.
Địa-phương không chịu, vì bọn Chà-và tuy không cho vay nữa nhưng cũng còn đòi tiền lời, nên buộc bọn Chà-và phải đóng ba-tăng như thường.
Bọn Chà-và chống lại, gởi đơn qua Pháp nhờ Hội-đồng quốc-vụ (Conseil d'état) phân xử.
Vừa rồi có tin rằng đơn của bọn Chetty đã bị Hội-đồng quốc-vụ bác rồi, thế là từ đây bọn “dơi đen” phải đóng ba-tăng lại.”
Trong thời điểm này, trong cộng đồng Ấn Độ ở Sài Gòn, có một sự kiện đáng chú ý ảnh hưởng đến lối sống và sự hòa nhập của người dân Ấn, nhất là những người Ấn gốc Tamil theo Ấn giáo, vào xã hội Pháp - Việt. Ông Léon Prouchandy, một người yêu nước theo phong trào bất hợp tác do Gandhi khởi xướng để giải phóng dân tộc Ấn, là người cổ võ người Ấn thay đổi y phục cổ truyền mặc sa-rong, vận chăn, bỏ tóc búi và theo cách ăn mặc y phục phương Tây để canh tân vào thời đại mới như người Nhật và người Hoa đã làm.
Ông đã viết thơ liên lạc với ông Mohammad Ismail (Chủ tịch Hội người Ấn Hồi giáo), Arunassalam Chettiar (Chủ tịch Hội Nattukotai Chettiars), Kumarappa Chettiar (Chủ tịch Hội người Ấn giáo), Somasundaram Chettiar (Quản lý đền của người Nattukottai Chettiars), Karpanapillai, Chinnasamy Vandayar, Kishnasamy Devar, Subramania Pillai, Subbaraya Pillai (Quản trị đền Mariamman), Kathiappa Devar (chủ địa ốc), Appa Pillai (người làm ngân hàng) cũng như những người Tamil theo đạo Ki-tô từ Pondicherry như ông, kêu gọi họ ủng hộ theo cách mặc y phục Tây phương Ông còn viết thư về Ấn Độ kêu gọi dân Ấn theo phong trào cải cách y phục (11).
Tờ Phụ nữ Tân văn (26/10/1933) có đăng về người Ấn ở Sài Gòn đã theo lời kêu gọi của ông Léon Prouchandy như sau:
“Chetty bỏ cái chăn vải rồi!
Mấy ngày rày thấy anh em ở đường Ohier (Sài Gòn) đi kiếm mua vải dữ lắm. Hỏi mua vải chi vậy, bọn Chetty nói: “Từ nay trở đi, chúng tôi không mặc thứ y-phục cũ: áo sơ-mi, vận chăn mà sẽ mặc toàn Âu-phục như người Âu-châu vậy”
Sự thay đổi quốc-phục nầy, ở bên Ấn-độ đã thi hành rồi, nên đồng-bào của ông Gandhi ở nước ta cũng phải làm theo.
Một sự tiến bộ của Chetty!”
Một người Ấn có tiếng tăm ở Sài Gòn trong thập niên 1930 là ông Abdul Aziz, người Tamil theo Hồi giáo. Ông J. M. Mohamed Ismael ở số 179 rue Catinat chính là anh của ông Abdul Aziz.
Ông Mohamed Ismael cùng với anh em lập ra Công ty Mohamed Ismael Frères có cửa tiệm bán thuốc lá, nhập khẩu hàng và đổi tiền ở số 179 rue Catinat (theo Guide pratique) (5). Ông còn có một cửa hàng buôn bán vải ở số 38 rue Viénot (đường Phan Bội Châu ngày nay, cạnh chợ Bến Thành).
Công ty Ismael chắc cũng có liên hệ với các doanh nhân bán vải người Hoa ở Chợ Lớn vì theo tin trên tờ Sài Gòn ngày 24/02/1942 có đăng như sau:
“Tối thứ bảy rồi ở nhà hàng Soài-Kinh-Lâu (Cholon) có 1 bữa tiệc rất lớn. Má-chín Hồ-văn-Sấm thay mặt hãng nhập cảng Ismael thết-đãi trên 200 chủ tiệm buôn Huê-kiều Saigon Cholon.”
Người em của ông Mohamed, ông Abdul Aziz (1905-1958), sau này đến Sài Gòn từ nam Ấn Độ (thành phố Koothanullur, thuộc tiểu bang Tamil Nadu) theo gót các anh lập nghiệp ở Sài Gòn. Ông Abdul sau này là người xây đền thờ Hồi giáo ở đường 66 rue Amiral Dupré (này là Đông Du) vào thập niên 1930 và là Chủ tịch Cộng đồng người Ấn Hồi giáo ở Sài Gòn lúc ấy. Khác với ông Léon Prouchandy, đóng góp tài sản của cải cho chính phủ lâm thời Ấn Độ tự do và Liên đoàn Độc lập Ấn Độ (Indian Independence League), trong thời gian Nhật chiếm đóng Đông Dương, ông Aziz đã từ chối cộng tác với Nhật và Liên đoàn Độc Lập Ấn Độ do Nhật lập ra và do đó bị Nhật bắt trong một thời gian.
Tháng 8 năm 1945, khi Nhật bắt đầu thua và đầu hàng đồng minh, Subhas Chandra Bose lúc đó đang ở Sài Gòn. Ngày 18/8/1945, Chandra Bose rời Đông Nam Á đi trên máy bay của Nhật từ phi trường Tân Sơn Nhất đến Nhật nhưng khi đến Đài Loan thì biến mất không tung tích (14). Không bao lâu sau, quân đội Pháp và Đồng minh đến nhà số 76 Hai Bà Trưng, lúc đó treo cờ Việt-Ấn-Nhật và bắt đi Léon Prouchandy. Khi ông được thả ra, ông đã trở thành người lãng trí, sau đó, ông được đưa trở về Pondicherry và mất tại đó. Hiện nay Chandra Bose được coi như một người anh hùng tranh đấu độc lập cho Ấn Độ, nhưng ít ai biết đến Léon Prouchandy.
Năm 1954, khi thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, Pandit Nehru đến thăm Sài Gòn, ông Aziz là người đại diện cho cộng đồng Ấn Độ đến phi trường đón tiếp và có buổi chào mừng gặp gỡ Nehru của cộng đồng ở giáo đường Hồi giáo trên đường Đông Du. Ông Aziz mất ở Sài Gòn năm 1958 và chôn cất ở nghĩa địa hồi giáo Sài Gòn. Hai anh em Mohammed và Abdul Aziz là những doanh nhân có tài đóng góp vào nền kinh tế và phát triển cộng đồng Ấn Độ và họ đã để lại di sản văn hóa đặc thù ở thành phố Sài Gòn.
Sau 1975, cộng đồng người Ấn hầu như biến mất, đa số trở lại Ấn Độ hay qua các nước khác. Các đền thờ đa số bỏ không. Gần đây, các đền thờ đã trở lại hoạt động nhưng một số không còn hoạt động đông đảo như xưa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Annuaire de la Cochinchine française pour l'année 1870, Imprimerie du Gouvernement, Saigon, 1869.
- Annuaire de l'Indo-Chine française... 1re partie: Cochinchine et Cambodge, Saigon, 1897.
- Nasir Abdoul-Carime, Réimpression de l’article d’G. Vidy, “La communauté indienne en Indochine”, Association d’ Echanges et de Formation pour les Etudes Khmères (AEFEK), in Sud-Est, Paris, November 1949: No.6: 1-8.
- Annuaire complet (européen et indigène) de toute l’Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934/éditeurs madame L. Lacroix-Sommé, messieurs R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Publisher: impr. A. Portail (Saigon), Date of publication: 1933.
- Guide pratique, renseignements et adresses. Saigon, J. Aspar (24 rue Catinat, Saïgon), 1934.
- Maxime Pilon, Danièle Weiler, The French in Singapore: An Illustrated History (1819-today), Didier Millet Pte. Ltd., Singapore, 2011.
- Écho Annamite, Chettys et usure, 21/12/1920, 25/1/1929.
- Lục tỉnh Tân văn 6/10/1918, 6/4/1933, 24/8/1933, 26/10/1933.
- Saigon 6/12/1933, 24/2/1942.
- Procès-verbaux du Conseil colonial: session ordinaire de 1897-1898, Cochinchine française, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1898.
- http://cidif2.go1.cc/index.php/essais/4252-a-tamil-martyr-from-pondicherry-in-netajis-freedom-struggle.
- Saverikannu Prouchandy, “‘Chevalier’ Saverikannu Prouchandy”, http://tlpms.in/saverikannu-prouchandy.php.
- http://www.thehindu.com/features/metroplus/society/The-last-picture.
Nguồn: Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”
[1] Có lẽ đây là ngày lễ Paush Purnima trong tháng Magha theo âm lịch, trong tháng này người Ấn sống khổ hạnh, làm nghĩa giúp người nghèo
[2] từ tiếng Pháp, patente, thuế môn bài mà các cửa tiệm phải đóng định kỳ