Với Việt Nam, chỉ mấy ngày sau khi cách mạng tháng Tám thành công đã buộc phải đứng lên kháng chiến giữ nền độc lập, thống nhất đất nước. Hơn 70 năm qua, nhân dân Việt Nam đã phải tiến hành các cuộc kháng chiến để giành và giữ độc lập trước các thế lực ngoại bang (chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, chính quyền Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ), nhà cầm quyền Trung Quốc). Trong các cuộc kháng chiến đó, chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã luôn đứng bên cạnh Việt Nam.
Bài viết này sẽ tập trung làm rõ sự ủng hộ của Ấn Độ đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược; cuộc kháng chiến của Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược; cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc đầu năm 1979; vấn đề Campuchia (1979-1991) và vấn đề Biển Đông. Đó là những dấu ấn đậm nét của chính sách đối ngoại tích cực, nhân đạo, hòa bình của Cộng hòa Ấn Độ đối với Việt Nam trong thời kỳ này.
1. Ấn Độ với cuộc kháng chiến của Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược
Ngay sau cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, thực dân Pháp đã quay lại tấn công xâm lược nước ta lần thứ hai với âm mưu xâm lược và thống trị lâu dài nước ta. Nhân dân ta lại phải buộc cầm súng đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ. Trong 9 năm nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ và Ấn Độ mặc dù gặp không ít khó khăn của một nước vừa mới giành được độc lập, nhưng Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã sớm ủng hộ, cổ vũ tích cực cuộc kháng chiến chính nghĩa của chúng ta. Các cuộc biểu tình, tuần hành ủng hộ Việt Nam diễn ra nhiều nơi trên đất nước Ấn Độ rộng lớn. Tháng 6/1946 trên đường sang Pháp để đàm phán hòa bình, Bác Hồ đã ghé thăm Calcutta, gặp gỡ các chính khách Ấn Độ và nhận được sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân Ấn Độ. Tháng 1/1947, những người yêu nước Ấn Độ đã kêu gọi nhân dân nước mình hãy sát cánh với nhân dân Đông Dương và chỉ ra rằng, cuộc đấu tranh mà nhân dân Đông Dương đang tiến hành là một phần của cuộc đấu tranh của nhân dân châu Á chống xâm lược phương Tây để giải phóng dân tộc, vì thế, nó cũng là cuộc đấu tranh của nhân dânẤn Độ. Cũng trong năm đó, Mahatma Gandhi đã viết một bức thư cho nhân dân Việt Nam bày tỏ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh gian khổ mà chúng ta đang tiến hành. Chính phủ Ấn Độ đã tuyên bố ngày 21/1/1947 là “Ngày Việt Nam” và được tổ chức ở nhiều thành phố để kêu gọi ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta với sự tham gia đông đảo của sinh viên, công nhân và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trong cuộc biểu tình chống Pháp, ủng hộ nhân dân Việt Nam được tổ chức tại Calcutta với sự tham gia của hàng ngàn người, có 200 người đã bị thương, một người chết và hơn 500 người bị bắt trong cuộc biểu tình đó[1].
Tại Hội nghị Liên Á năm 1947, Ấn Độ đã bày tỏ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân dân Đông Dương. Tháng 4 năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ ở Việt Nam đang diễn ra một cách ác liệt, Chính phủ Ấn Độ đã áp dụng lệnh cấm máy bay chở quân đội và vũ khí cung cấp cho chiến trường Đông Dương bay qua lãnh thổ Ấn Độ. Cũng trong thời gian này, theo sáng kiến của Ấn Độ, một cuộc hội nghị 5 nước gồm Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Miến Điện (Myanmar ngày nay) và Indonesia, được tổ chức tại Colombo (Sri Lanka) bàn về việc giải quyết hòa bình vấn đề chiến tranh Đông Dương. Hội nghị đã ra Tuyên bố về chiến tranh Đông Dương do Ấn Độ soạn thảo. Nội dung Tuyên bố gồm 6 điểm; trong đó, kêu gọi các bên kiềm chế, không dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực; đòi Pháp cam kết tôn trọng độc lập hoàn toàn của Đông Dương. Trong Hội nghị Giơnevơ (1954) nhằm tìm giải pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương, do sự phản đối của Mỹ, Ấn Độ không được mời tham gia Hội nghị nhưng Thủ tướng J. Nehru vẫn cử đặc phái viên là Quốc vụ khanh K. Menon đến Giơnevơ quan sát diễn biến hội nghị. Ông đã tiến hành chiến dịch ngoại giao con thoi, vận động các nước lớn đưa ra thỏa thuận cam kết tôn trọng độc lập của các nước Đông Dương. Cùng với đoàn Liên Xô, phái viên của Thủ tướng Ấn Độ đã tiến hành nhiều cuộc gặp gỡ không chính thức với các đoàn tham gia hội nghị, góp phần thúc đẩy việc ký kết Hiệp nghị Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương vào tháng 7/1954[2].
Tham gia tích cực trong quá trình tiến tới ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954 và sau đó, với trọng trách là Chủ tịch Ủy ban Quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định này, Ấn Độ đã hoạt động tích cực để Hiệp định được thực hiện, đem lại hòa bình cho Việt Nam và Đông Dương. Thủ tướng J. Nehru nói: “Phương châm, chính sách của chúng ta là nỗ lực cho hòa bình ở Đông Dương. Chúng ta sẽ dùng tất cả trí não, lòng kiên nhẫn và tinh thần cương quyết để thực hiện nhiệm vụ đó”[3]. Chuyến thăm Việt Nam vào tháng 10/1954 của Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru và con gái Indira Gandhi chỉ một tuần sau khi Hà Nội được giải phóng, là chuyến thăm đầu tiên của một nguyên thủ nước ngoài đến Việt Nam vào giai đoạn đó, là sự động viên to lớn đối với nhân dân Việt Nam.
Tháng 2/1956, hai nước đã quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Tổng lãnh sự. Đây là sự động viên, cổ vũ to lớn đối với nước ta. Bởi vì, một mặt, Ấn Độ là một nước lớn ở khu vực, có uy tín lớn trong Thế giới thứ Ba; mặt khác, khi đó cách mạng nước ta đang ở giai đoạn hết sức khó khăn do chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành đàn áp khốc liệt lực lượng yêu nước và cách mạng ở miền Nam bằng chính sách “diệt Cộng, tố Cộng”.
2. Ấn Độ với cuộc kháng chiến của Việt Nam chống Đế quốc Mỹ xâm lược
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đế quốc Mỹ với âm mưu xâm lược nước ta từ lâu, đã ngang nhiên xé bỏ hiệp định Giơnevơ, nhảy vào miền Nam xâm lược nước ta. Một lần nữa, dân tộc ta lại phải đương đầu với kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới.
Trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1959 - những năm sau khi miền Bắc nước ta mới được hoàn toàn được giải phóng và cách mạng miền Nam đang gặp nhiều khó khăn do chính sách đàn áp lực lượng cách mạng vô cùng tàn bạo của kẻ thù, thái độ của Ấn Độ trong việc thi hành hiệp nghị Giơnevơ về Việt Nam ở giai đoạn này là tích cực. Từ giữa năm 1966 trở đi, bà I. Gandhi - người có cảm tình với Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam - lên làm Thủ tướng. Chính phủ I. Gandhi ngày càng ủng hộ tích cực đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam. Biểu hiện đầu tiên của sự thay đổi này là chính phủ Ấn Độ công khai yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam. Ngày 19/5/1967, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ nói: “Nếu Mỹ ngừng ném bom không điều kiện thì sẽ tạo ra một bầu không khí cho việc tổ chức nói chuyện hòa bình cấp cao’’[4].
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được sự ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của nhân dân Ấn Độ. Nhiều cuộc biểu tình, mít tinh khắp đất nước đã được tổ chức để ủng hộ nhân dân ta, tố cáo và lên án cuộc chiến tranh không quân và hải quân chống miền Bắc Việt Nam, đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam, chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc, đòi công nhận Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong những năm 1964-1975, trên đất nước Ấn Độ luôn diễn ra các cuộc tuần hành, mít tinh rầm rộ với đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và vang lên khẩu hiệu: “Tên anh, tên tôi đều là Việt Nam!”, đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam. Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, việc Mỹ và Trung Quốc xích lại gần nhau, một mặt gây bất lợi cho cách mạng Việt Nam nhưng mặt khác, về khách quan đã có tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ: Ấn Độ quyết định nâng cấp quan hệ ngoại giao hai nước lên cấp Đại sứ (1/1972). Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử quan hệ hai nước.
Về ý nghĩa của sự kiện này, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhận định: “Việc Chính phủ Ấn Độ quyết định nâng cấp quan hệ ngoại giao với ta là một thắng lợi có ý nghĩa đối với đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta”. Sau sự kiện này, báo chí Ấn Độ đã liên tục đưa tin, bình luận về việc nâng cấp quan hệ ngoại giao, ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân ta, lên án việc leo thang chiến tranh của Mỹ và hành động trì hoãn việc ký hiệp định Pari (10/1972). Ngày 24/4/1972 tại hội nghị Công đoàn châu Á họp ở New Delhi, Thủ tướng I. Gandhi nói: “Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam anh hùng là một bài học cho tất cả chúng ta. Yêu cầu tự do và phát triển của chủ nghĩa dân tộc đem lại sức mạnh đoàn kết cho bất cứ dân tộc nào. Một nước nhỏ đã có thể đương đầu với một nước mạnh nhất thế giới. Còn có tấm gương chói lọi nào hơn về sự bất diệt của tinh thần con người. Tôi không nghi ngờ rằng, nhân dân Việt Nam sẽ chiến thắng trong một tương lai không xa nữa”. Đặc biệt, khi Mỹ leo thang chiến tranh, dùng B.52 ném bom đánh phá ác liệt Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh, thành khác của Việt Nam; Ấn Độ là nước đầu tiên không thuộc phe xã hội chủ nghĩa lúc đó đã tố cáo Mỹ rất mạnh mẽ. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Thủ tướng I. Gandhi đã gửi điện mừng tới Chính phủ và nhân dân ta. Chiều ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Chính phủ Cộng hòa Ấn Độ chính thức công nhận Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hai bên thỏa thuận thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ. Ngày 22/5/1975, sau khi trục xuất đại diện của chính quyền Sài Gòn, Chính phủ Ấn Độ quyết định chuyển giao trụ sở Tổng lãnh sự của chính quyền Sài Gòn cho đại diện của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN, của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới; sự ủng hộ của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam.
3. Ấn Độ với cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
Từ sau khi Việt Nam độc lập và thống nhất, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chuyển biến theo chiều hướng xấu. Sau một quá trình căng thẳng trong quan hệ hai nước, nhất là sau khi tập đoàn diệt chủng Khmer đỏ (chế độ do Trung Quốc hậu thuẫn) bị lật đổ, đầu tháng 2 năm 1979, với chiêu bài “dạy cho Việt Nam một bài học”, nhà cầm quyền Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung.
Ấn Độ đã sớm lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa này của Trung Quốc. Ngay khi nhà cầm quyền Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính phủ, các đảng phái chính trị, nhiều tổ chức xã hội cùng đông đảo nhân dân Ấn Độ lên án mạnh mẽ hành động của Trung Quốc, đòi quân đội Trung Quốc phải rút ngay lập tức khỏi Việt Nam, ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc. Thủ tướng Ấn Độ bày tỏ hy vọng chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình lập tức mà trước hết là phải rút hết quân đội Trung Quốc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Ngày 17/5/1979, phát biểu tại Nghị viện về chính sách đối ngoại, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ - ông A.B. Vajpayee đánh giá cao tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân Việt Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc. Ông nói: “Ấn Độ đã ngay lập tức lên án chiến tranh của Trung Quốc đối với nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[5]. Chính bản thân ông đã rút ngắn chuyến thăm Trung Quốc để phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Ngày 7/7/1980, tại Hà Nội, ông Grixuaie, Chủ tịch Hội Luật gia Ấn Độ trong cuộc trao đổi với Luật sư Phan Anh, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc và cảm phục tinh thần chiến đấu chống cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc, bày tỏ sự ủng hộ đối với nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc[6]. Ngày 12/9/1980, trong chuyến thăm Hunggari của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Ấn Độ, ông M. Pheruki, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ấn Độ đã nêu rõ: Hai Đảng đã bày tỏ tình đoàn kết với nhân Việt Nam, Lào và Campuchia trong cuộc đấu tranh chống hành động xâm lược của những người cầm quyền Trung Quốc và ủng hộ những biện pháp củng cố hòa bình và an ninh ở khu vực Đông Nam Á[7]. Trong thời gian Trung Quốc tiến hành xâm lược Việt Nam, đông đảo các tầng lớp nhân dân New Delhi, đại diện các đảng phái chính trị Ấn Độ, đông đảo phụ nữ Ấn Độ, các chiến sĩ tự do Ấn Độ,… tiến hành biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc ở Ấn Độ để phản đối cuộc chiến tranh của Trung Quốc và yêu cầu họ phải rút quân ngay lập tức về nước và Trung Quốc “không được đụng đến Việt Nam”.
4. Ấn Độ ủng hộ Việt Nam trong “vấn đề Campuchia” (1979-1991)
Cuộc xung đột ở Campuchia (1979-1991) hay “vấn đề Campuchia” là một trong những cuộc xung đột kéo dài, căng thẳng, phức tạp nhất trên thế giới từ cuối thập niên 70 đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Nó không chỉ là những cuộc tấn công, phá hoại của lực lượng Khmer Đỏ đã bị lật đổ, xung đột giữa các phe phái ở đất nước Chùa Tháp mà còn có sự can thiệp của những thế lực bên ngoài. Vấn đề Campuchia không những phá hoại nghiêm trọng đối với môi trường hòa bình, ổn định ở Campuchia mà gây căng thẳng trong quan hệ giữa các nước trong khu vực: giữa ba nước Đông Dương với các nước ASEAN, giữa Việt Nam với Trung Quốc,…
Sau khi giúp lực lượng cách mạng Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng và lập Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, theo yêu cầu của chính phủ mới này, quân đội Việt Nam đã có mặt tại Campuchia để giúp Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia bảo vệ thành quả cách mạng, chống tái lập chế độ diệt chủng. Đây là việc làm chính nghĩa, cứu một dân tộc khỏi nguy cơ bị diệt chủng, lẽ ra cần được đánh giá cao. Tuy nhiên, hành động chính nghĩa và hợp pháp này của Việt Nam đã bị Trung Quốc, ASEAN và một số nước khác lên án, vu cáo là hành động “xâm lược” và đòi Việt Nam “phải ngay lập tức rút quân khỏi Campuchia”. Trái ngược với quan điểm của các nước ASEAN và Trung Quốc, Ấn Độ đã ủng hộ hành động đó của Việt Nam; cho đó là “việc làm chính nghĩa”, “cần thiết”, là sự “giúp bạn khi họ gặp hoạn nạn”, là sự đóng góp tích cực của Việt Nam đối với sự nghiệp hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á; Ấn Độ cũng đã ủng hộ quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề Campuchia…[8]. Đây là quan điểm tích cực, nhân đạo của Ấn Độ. Với quan điểm này, Ấn Độ đã bị một số nước trong ASEAN lên án, cô lập nhưng điều đó không làm thay đổi được quan điểm, lập trường Ấn Độ.
5. Ấn Độ với vấn đề Biển Đông
Biển Đông nằm ở Đông Nam Á, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, có vị trí địa-chính trị, địa-kinh tế, địa-quân sự rất quan trọng. Biển Đông nằm án ngữ trên một trong những tuyến đường giao thông biển huyết mạch hàng đầu của thế giới - con dường hàng hải nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương; châu Âu - châu Á; Trung Đông - châu Á với một khối lượng hàng hóa khổng lồ thế giới đi qua. Đây cũng là nơi mà cuộc tranh chấp chủ quyền diễn ra rất phức tạp và ngày càng leo thang căng thẳng. Trung Quốc với tham vọng độc chiếm Biển Đông đã vi phạm luật quốc tế, xâm phạm lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế,… nhiều nước, nghiêm trọng nhất là đối với Việt Nam.
Ở vấn đề phức tạp này, quan điểm của Ấn Độ là tích cực, khách quan và nhìn chung trùng khớp với quan điểm Việt Nam, đồng thời cũng phù hợp với lẽ phải, luật pháp quốc tế và chính vì vậy về khách quan, Ấn Độ đã ủng hộ Việt Nam.
Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải ở Biển Đông và phản đối những quan điểm, hành động trái ngược với điều này; chủ trương giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi, trong đó có Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002; phản đối hành động đơn phương gây căng thẳng; tôn trọng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Quy tắc ứng xử Biển Đông (COC). Bất chấp tình hình Biển Đông ngày càng phức tạp do hành động leo thang của Trung Quốc, Ấn Độ vẫn tiếp tục hợp tác với Việt Nam trong các hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông. Hành động này ngoài việc bảo vệ lợi ích của Ấn Độ ở Biển Đông còn góp phần vào việc giúp Việt Nam củng cố chủ quyền ở Biển Đông. Ấn Độ ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế về vấn đề Biển Đông[9].
* * *
Từ những trình bày ở trên cho thấy, trong các cuộc kháng chiến giành độc lập tự do cũng như bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc từ năm 1945 đến nay của Việt Nam, Ấn Độ đã để lại dấu ấn đậm nét trong chính sách đối ngoại đối với Việt Nam. Đó là: Ấn Độ đã tích cực ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, luôn đứng bên cạnh Việt Nam, kể cả những lúc Việt Nam gặp khó khăn nhất và nhận sự tổn thất về mình. Đây là một điều hiếm có trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Sự ủng hộ của Ấn Độ đối với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chúng ta trong sự nghiệp đấu tranh giành, giữ độc lập, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự ủng hộ đó cũng góp phần nâng cao uy tín của Ấn Độ trên trường quốc tế; góp phần quan trọng vào sự nghiệp hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Trong các cuộc kháng chiến đó, mặc dù tình hình đất nước còn nhiều khó khăn nhưng chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã luôn đứng bên cạnh Việt Nam, bất chấp sự chỉ trích, lên án từ những thế lực chống đối. Chính phủ và nhân dân Ấn Độ cùng vui, buồn, chia sẻ những hy sinh, gian khổ của nhân dân ta. Mỗi lúc Việt Nam gặp khó khăn là có Ấn Độ bên cạnh. Sự ủng hộ, giúp đỡ của Ấn Độ đối với các cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta đã góp phần vào thắng lợi của dân tộc ta qua các cuộc kháng chiến đó và theo chúng tôi, là dấu ấn đậm nét trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Việt Nam ở vào thời kỳ rất đặc biệt này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Cảnh Huệ
- Nguyễn Cảnh Huệ (2016), “Ấn Độ luôn bên cạnh Việt Nam - Qua những tư liệu, sự kiện lịch sử quan hệ hai nước từ năm 1975 đến nay”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế Việt Nam - Ấn Độ: Bối cảnh mới, Tầm nhìn mới Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tháng 8.
- Nguyễn Cảnh Huệ (2017), “Ấn Độ với vấn đề Biển Đông”, in trong sách Nam Bộ - Đất và người, Tập 12, NXB ĐHQG TP Hồ Chí Minh, trang 591-620.
- Đinh Trung KiênQuan hệ Việt Nam -Ấn Độ, từ kinh nghiệm lịch sử đến hiện tại và tương lai”, Tham luận tại cuộc Hội thảo với chủ đề Quan hệ Việt Nam-Ấn Độ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Ấn Độdo Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Học viện Quan hệ Quốc tế tổ chức, Hà nội, ngày 5-6/1/2002.
- Vũ Dương Ninh (chủ biên) (1995), Lịch sử Ấn Độ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
- Vũ DươngNinh (1987), “Việt Nam - Ấn Độ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5-6, tr. 191
- Bản tin TTXVN ngày 8/7/1980, ngày 14/9/1980.
- Báo Nhân dân ngày15/8/1981, ngày 22/5/1979.
Nguồn: Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”
[1] Dẫn theo Vũ Dương Ninh (chủ biên) (1995), Lịch sử Ấn Độ, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.189.
[2] Dẫn theo Vũ Dương Ninh (1987), “Việt Nam - Ấn Độ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5-6 , tr.191.
[3] Dẫn theo Vũ Dương Ninh (chủ biên) (1995), Sđd, tr.191.
[4] Dẫn theo Đinh Trung Kiên (2002), “Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, từ kinh nghiệm lịch sử đến hiện tại và tương lai”, Tham luận tại cuộc Hội thảo với chủ đề Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Ấn Độ do Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Học viện Quan hệ Quốc tế tổ chức, Hà nội, ngày 5-6/1/2002.
[5] Theo Báo Nhân dân, ngày 22/5/1979; 15/8/1981.
[6] Theo Bản tin TTXVN, ngày 8/7/1980.
[7] Theo Bản tin TTXVN, ngày 14/9/1980.
[8] Xem thêm Nguyễn Cảnh Huệ (2003), “Tìm hiểu quan điểm của Chính phủ nước Cộng hòa Ấn Độ trong việc giải quyết vấn đề Campuchia (1979-1991)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (1), tr.75-83.
[9] Xem Nguyễn Cảnh Huệ (2017), “Ấn Độ với vấn đề Biển Đông”, in trong sách Nam Bộ - Đất và người, tập 12, NXB ĐHQG TP Hồ Chí Minh, trang 591-620.