PGS.TS Hữu Đạt*. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt. Nxb Giáo dục, năm 2009.
Mục lục
Chương I. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và văn hoá giao tiếp
I. Khái niệm về văn hoá
1. Văn hoá là gì?
2. Ứng xử văn hoá
3. Truyền thống văn hoá
II. Khái niệm về người
1. Ngôn ngữ là gì?
2. Bản chất xã hội và chức năng của ngôn ngữ
3. Bản chất xã hội của ngôn ngữ và mối quan hệ của nó với văn hoá.
III. Mối quan hệ giữa người và văn hoá
1. Ngôn ngữ có vai trò lưu trữ và bảo tồn văn hoá
2. Ngôn ngữ có vai trò sáng tạo và phát triển văn hoá
Chương II. Ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp
I. Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc văn hoá
1. Tiếp xúc do hoàn cảnh địa lý, tự nhiên
2. Tiếp xúc do áp đặt hay bắt buộc
3. Tiếp xúc văn hoá và văn hoá giao tiếp
II. Văn hoá giao tiếp của người Việt Nam
1. Vai trò của ngôn ngữ trong chức năng giao tiếp và hình thành văn hoá giao tiếp
2. Tiếng Việt và văn hoá giao tiếp của người Việt Nam
Chương III. Kênh giao tiếp và hình thức giao tiếp
I. Các khái niệm cơ bản
1. Hình thức giao tiếp
2. Khái niệm về kênh giao tiếp
II. Các thành tố giao tiếp
Chương IV. Bản chất của quá trình giao tiếp
I. Bản chất của quá trình giao tiếp
II. Phạm vi giao tiếp
Chương V. Các quan hệ giao tiếp trong gia đình
I. Quan hệ vợ chồng và việc thực hiện các vai giao tiếp của vợ chồng người Việt
II. Quan hệ cha - con (mẹ - con) và việc thực hiện các vai giao tiếp trong gia đình người Việt.
III. Quan hệ ông - cháu (bà - cháu) và việc thực hiện các vai giao tiếp trong gia đình người Việt.
IV. Quan hệ anh (chị) - em và việc thực hiện các vai giao tiếp trong gia đình người Việt.
V. Giao tiếp trong gia đình họ tộc. Cách cấu tạo một số từ ghép chỉ quan hệ họ hàng.
1. Giao tiếp trong gia đình, họ mạc
2. Cách cấu tạo các từ ghép chỉ quan hệ gia đình
Chương VI. Các hoạt động giao tiếp mang tính xã hội làng xã
I. Hoạt động giao tiếp trong lễ hội
II. Hoạt động giao tiếp trong các đám hiếu, đám hỷ
1. Hoạt động giao tiếp trong đám hỷ
2. Hoạt động giao tiếp trong đám hiếu
Bài giới thiệu
Bản sắc văn hoá dân tộc trong tiếng nói
Lê Linh
(Bài in trên báo Văn nghệ số 3 ngày 16-01-2010)
Có thể nói, hơn nửa thế kỷ qua, những vấn đền như cơ cấu ngữ pháp, hệ thống từ vựng, ngữ âm, ngữ nghĩa và phong cách tiếng Việt đã được nghiên cứu khá sâu trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, việc tìm hiểu các đặc trưng ngôn ngữ liên quan đến bản sắc văn hoá của dân tộc Việt, nhất là trong giao tiếp thì hầu như chưa có mấy sự quan tâm. Trong khi đó, sự phát triển của ngành văn hoá học hiện đại lại đang chờ đợi nhiều câu trả lời từ phía nghiên cứu ngôn ngữ học. Bởi hơn bao giờ hết, sự phát triển của văn hoá mỗi dân tộc không chỉ bao gồm các vấn đề như dân tộc học, nhân học, lịch sử…theo nghiên cứu truyền thống mà còn bao gồm cả các vấn đề về văn học, ngôn ngữ theo các khuynh hướng nghiên cứu hiện đại. Nói một cách khác, nghiên cứu văn hoá, dù theo cách nào cũng không thể không chú ý đến ngôn ngữ. Chính ngôn ngữ đã trực tiếp hay gián tiếp làm nên văn hoá dân tộc không chỉ với góc độ nó là yếu tố bảo lưu, là dấu tích của văn hoá qua các thời kỳ mà còn cả những đặc điểm loại hình mang phẩm chất riêng của một thực thể ngôn ngữ. Đây chính là một trong các hướng nghiên cứu được PGS.TS Hữu Đạt quan tâm trong nhiều năm trở lại đây. Ngoài một số bài báo và công trình nghiên cứu đã cho công bố trước đó, công trình “Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” của ông do Nxb Giáo dục ấn hành Quý IV năm 2009 là một chuyên luận nghiên cứu sâu về vấn đề này. Với số lượng gần 300 trang sách ( khổ 14,5x20,5), cuốn sách là sự tích hợp sâu sắc những kiến thức của tác giả về các vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, được trình bày trong 8 chương. Trong đó, chương 1được tác giả dành riêng để trình bày các vấn đề liên quan đến nguồn gốc của tiếng Việt và những đặc điểm loại hình mang tính đặc trưng của tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập phân tích tính. Một trong các ngữ liệu được tác giả dẫn ra để minh chứng cho tính độc đáo của tiếng Việt so với các ngôn ngữ khác loại hình ( tức các ngôn ngữ Âu châu) là hệ thống từ xưng hô. Qua việc so sánh từ xưng hô ngôi thứ nhất và thứ ba của tiếng Viêt với các từ xưng hô ngôi thứ nhất ( I, Je, Ja ) và ngôi thứ ba ( He,/she; el; on/ona ) của các ngôn ngữ Anh, Pháp, Nga, Hữu Đạt đã làm nổi bật tính phong phú, đa dạng của hệ thống từ xưng-gọi trong tiếng Việt với các sắc thái nghĩa tinh tế, cụ thể mang màu sắc của văn hoá phương Đông. Trong đó có sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các từ xưng hô trong hệ thống cũng như việc lâm thời sử dụng các từ chỉ quan hệ thân tộc, họ hàng làm các từ xưng gọi được dùng trong quan hệ xã hội ( tr 36-43).Với cách trình bày súc tích, nhưng rõ ràng, tác giả đã đem đến cho bạn đọc những hình dung vừa khái quát vừa cụ thể về bản sắc của tiếng Việt. Nó là cơ sở giúp cho người đọc nhận diện ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá được tác giả trình bày ở chương 2. Tại chương này, nhiều vấn đề liên quan đến văn hoá được giải thích sâu hơn, đó là: vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong quá trình bảo lưu và sáng tạo ra văn hoá. Từ những dẫn liệu của văn học dân gian, của thành ngữ, tục ngữ cũng như cách nói năng, giao tiếp thường ngày, tác giả đã phân tích các thành tố nghĩa trong việc thể hiện các đặc trưng văn hoá dân tộc và con đường hình thành các biểu tượng văn hoá của người Việt. Các thành tố nghĩa được tác giả khảo sát kỹ trong các cấp độ ngôn ngữ khác nhau mà rõ nhất là ở cấp độ từ, cấp độ câu và cấp độ văn bản. Để làm rõ vấn đề này, tác giả đã so sánh một số cách thức biểu tượng trong tiếng Việt với tiếng Nga, tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác nhằm làm nổi bật nhứng nét tiểu biểu của văn hoá truyền thống Việt Nam, một nền văn hoá nông nghiệp có sự phát triển sớm về trồng trọt và chăn nuôi (tr 94-104). Một số biểu tượng được tác giả quan tâm khảo sát để làm cứ liệu so sánh là biểu tượng “con rồng”, “con trâu” trong văn hoá Việt Nam và biểu tượng “con ngựa”, “con la”… trong văn hoá châu Âu. Những so sánh này liên quan đến cách tri nhận ngôn ngữ- một trong các khía cạnh quan trọng nhất của ngôn ngữ học tri nhận. Các ví dụ tiêu biểu về đặc trưng văn hoá được phản ánh qua ngôn ngữ có thể coi là các dấu ấn văn hoá còn để lại đậm nét trong kho tàng ca dao, thành ngữ, tục ngữ- vốn là viên ngọc quý của tư duy sáng tạo mang tính tập thể, được đúc kết qua nhiều thế hệ.
Trong quá trình phân tích và miêu tả những đặc điểm của giao tiếp tiếng Việt hiện đại, Hữu Đạt rất chú trọng đến sự khác biệt của các hình thức giao tiếp và bản chất của quá trình giao tiếp. Trong công trình này, ông nhấn mạnh đến các nhân tố chi phối hoạt động của các vai giao tiếp như: tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, khả năng ngoại ngữ cũng như các yếu tố bản thể và quyền uy…( tr114-122). Sự chi phối của các nhân tố này trong tiếng Việt được ông lý giải như là một biểu hiện của văn hoá giao tiếp. Chẳng hạn, trong giao tiếp tiếng Việt, nhân tố tuổi tác có tác động mạnh đến việc dùng từ xưng hô ( như: ông, bà, anh, chị, mày,tao…) cũng như việc sử dụng các từ tình thái ( như : à, ư, ạ, nhé, nhỉ, vâng. dạ…).Qua sự can thiệp của nhân tố giới tính đến hoạt động giao tiếp ở mỗi giai đoạn phát triển tiếng Việt, người ta có thể thấy quá trình vận động của văn hoá từ chế độ xã hội phong kiến sang xã hội hiện đại. Cúng chính ở đây, bạn đọc có thể liên hệ đến vai trò tích cực của các cuộc cách mạng xã hội đối với sự vận động và phát triển của ngôn ngữ nói chung, của tiếng Việt nói riêng trong quá trình làm thay đổi bản chất và làm giàu có thêm những giá trị văn hoá của dân tộc ( chương V).
Nửa phần sau của công trình “Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” ( từ chương V đến chương VIII) là các nghiên cứu cụ thể về hoạt động giao tiếp của người Việt trong phạm vi gia đình và trong phạm vi xã hội cũng như các nghi thức lời nói thường gặp nhất trong ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Các quan hệ giao tiếp như quan hệ vợ - chồng, cha – con, ông – cháu, anh – em được miêu tả rất sinh động và lý thú đã nói lên tính phức tạp của kiểu xưng-gọi thay vai, một hình thức giao tiếp rất phổ biến trong các vùng nông thôn Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Các kiểu xưng hô này (tr 150-177), theo tác giả, có tính ưu việt là, trong giao tiếp, người nói luôn thể hiện sự tôn trọng thể diện của đối tượng tham gia giao tiếp. Nhưng mặt khác, chính nó lại bộc lộ sự hạn chế là làm cho khối lượng các từ xưng gọi tăng lên tới mức cồng kềnh, gây ra hiện tượng đồng âm khác nghĩa. Đây là một vấn đề khá nan giải đối với người nước ngoài khi học tiếng Việt.
Trong quá trình khảo sát mối tương quan giữa hệ thống từ xưng hộ được dùng trong phạm vi gia đình và phạm vi xã hội, Hữu Đạt đã làm sáng tỏ những nét đặc trưng của văn hoá dân tộc được phản ánh qua từ ngữ và cách thức giao tiếp từ trong gia đình, họ tộc tới phạm vi làng, xã, và rộng hơn là phạm vi xã hội nói chung. Ông cho rằng, tính tích cực của sự chuyển hoá giữa các từ xưng-gọi dùng trong phạm vi gia đình sang phạm vi xã hội là nó làm cho quan hệ giữa các đồng nghiệp trong cơ quan, trong doanh nghiệp… trở nên thân mật, gần gũi. Nhưng mặt khác, chính cái đặc điểm có tính ưu việt này tự nó lại làm giảm đi hiệu lực của công tác quản lý hành chính do ngôn ngữ giao tiếp giữa các thành viên trong các guồng máy xã hội bị “gia đình hoá” , trở nên xuề xoà, dễ dãi, không còn tính khách quan cần thiết trong quá trình giải quyết công việc.
Có thể nói, công trình “Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” là một chuyên luận chú trọng nhiều đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá. Do vậy, theo góc độ này, văn hoá được nhìn nhận như là cái nội hàm bên trong, là cái phần nghĩa được hình thành ở cấp độ sâu hơn trong phần ngữ nghĩa của khái niệm được hình thành bởi vỏ hình thức ngữ âm của từ. Đây là những phần khá lý thú giúp bạn đọc có thể tìm hiểu thêm cách tri nhận của người Việt Nam về nhiều sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới xung quanh con người. Đối với người nước ngoài, đọc những trang phân tích của Hữu Đạt sẽ rất hữu ích. Bởi, như người ta thường nói, học ngoại ngữ không đơn thuần chỉ là học qui tắc ngữ pháp, cách phát âm và vốn từ vựng của ngôn ngữ ấy mà học ngoại ngữ, suy cho cùng là học một nền văn hoá cúa thứ tiếng mà mình đang quan tâm. Có lẽ vì ý thức rõ điều này cho nên, ngoài việc phân tích khá kỹ hệ thống từ tiếng hô cũng như cách đặt tên của người Việt, Hữu Đạt còn đưa ra nhiều ví dụ để so sánh phương thức cấu tạo các từ ghép chỉ quan hệ thân tộc, họ hàng trong tiếng Việt với các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga để làm rõ cái bản sắc của văn hoá phương Đông được biểu hiện trong một bộ phận của hệ thống từ ghép tiếng Việt ( tr 189-192).
Có lẽ, những đặc điểm văn hoá dân tộc khiến người đọc dễ hình dung và nắm bắt nhất là phần khảo sát các nghi thức lời nói như: nghi thức chào hỏi, mời mọc, cảm ơn…cũng như phần miêu tả các hoạt động giao tiếp ngôn ngữ trong các đám hội hè, hiếu, hỷ…Cũng chính ở các phần này, qua sự phân tích của Hữu Đạt, người đọc càng có dịp hiểu sâu thêm bản chất của nền văn hoá Việt Nam là thứ văn hoá trọng tình, trọng nghĩa. Điều đó lý giải tại sao, trong giao tiếp người Việt vốn ưa thích nói vòng để tránh làm mất thể diện của đối tượng giao tiếp, một nguyên tắc được rất nhiều nhà nghiên cứu dụng học và các chuyên gia về lý thuyết giao tiếp trên thế giới đề cập. Ngoài ý nghĩa thực hành, chương cuối của cuốn sách còn góp phần làm sáng tỏ một số lý luận về hiện tượng nói vòng, một kiểu giao tiếp vốn không chỉ tồn tại riêng với tiếng Việt.
Nói tóm lại, công trình “đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” là một công trình nghiên cứu công phu bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá cũng như vai trò của ngôn ngữ trong quá trình hình thành bản săc văn hoá dân tộc. Nó không chỉ có giá trị về phương diện nghiên cứu mà còn rất hữu ích đối với việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và dạy tiếng Việt cho người Việt từ góc độ văn hoá.
Hà Nội, mùa đông năm Kỷ Sửu
Chương VI
Các hoạt động giao tiếp mang tính xã hội làng xã
Quan hệ giao tiếp xã hội là quan hệ giao tiếp giữa những người không có cùng huyết thống. Theo cách hiểu như vậy thì quan hệ giao tiếp xã hội sẽ bao gồm nhiều lĩnh vực: quan hệ xóm giềng, làng xã, quan hệ cơ quan, quan hệ nơi cộng đồng, quan hệ đối ngoại...
Tuy nhiên, trong tiếng Việt, không có sự đối lập hoàn toàn rạch ròi giữa quan hệ giao tiếp trong gia đình và quan hệ giao tiếp xã hội. Trái lại, trong nhiều trường hợp giữa chúng còn có sự chuyển hoá, thâm nhập vào nhau rất tinh tế. Vì rằng, có không ít quan hệ giao tiếp mà trong đó một người vừa mang chức năng của người trong gia đình lại vừa mang chức năng của người trong xã hội. Mặt khác, chính hoàn cảnh giao tiếp cũng có tính nước đôi như thế.
Trong các kiểu quan hệ giao tiếp mang tính xã hội thì quan hệ giao tiếp làng xã thể hiện rất rõ nét đặc trưng của văn hoá Việt Nam. Vì quan hệ giao tiếp làng xã là một kiểu quan hệ có tính đặc thù rất cao tạo thành một mô típ văn hoá của người Việt gọi là văn hoá làng.
Văn hoá làng có thể được coi là một trong các tiêu chuẩn kiểm nghiệm về tính bảo lưu của các giá trị văn hoá truyền thống. Ở nhiều vùng quê văn hoá làng có sức sống rất mạnh mẽ. Ngoài những tinh hoa văn hoá nó còn không ít những thói quen, tập quán mang tính bảo thủ lạc hậu mà sự kiên cố của nó được phản ánh qua một câu thành ngữ "phép vua thua lệ làng".
Văn hoá làng được biểu hiện ở nhiều mặt như kiến trúc, xây dựng (thể hiện qua đình chùa, miếu mạo đến kiểu thiết kế đường làng ngõ xóm), thói quen, nếp sống văn hoá, tập tục, lễ hội...
Trên phương diện giao tiếp thì văn hoá làng được bộc lộ qua những qui ước (bằng cách truyền miệng hoặc ghi lại thành hương ước) về sinh hoạt tập thể mang tính cộng đồng. Đó là cách thức tổ chức lễ hội, tổ chức các cuộc họp ở làng ở xã, ở cách tổ chức hiếu, hỷ... trong họ mạc và trong làng xóm. Tổ chức lễ hội là một kiểu hoạt động giao tiếp mang tính sinh hoạt văn hoá cộng đồng rất cao. Nó thường được tổ chức vào mùa xuân, hoặc các ngày rằm, ngày lễ có gắn với lịch sử địa phương hoặc các nhân vật truyền thuyết được tôn xưng là anh hùng hoặc có công "khai thiên lập địa".
I. Hoạt động giao tiếp trong lễ hội
Nói tới lễ hội là người ta nói tới mọt không khí sinh hoạt văn hoá mang đậm tính cộng đồng. Trong lịch sử phát triển dân tộc, lễ hội không phải là hình thức sinh hoạt tập thể ở làng nào cũng có. Hoặc có khi nó là hình thức đã tồn tại khá lâu đời ở một địa phương nhưng do những hoàn cảnh như chiến tranh hoặc những sự xáo trộn lịch sử nó không còn giữ lại được mà chỉ còn lại trong trí nhớ của một số cụ già.
Trong đời sống tinh thần ở làng quê cũng như ở trong một số nơi trong thành phố, lễ hội có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó là nơi giao lưu gặp gỡ của người tứ phương nhằm học hỏi lẫn nhau những tinh hoa văn hoá, làm phong phú cho cuộc sống của mỗi người như: văn hoá ăn, văn hoá mặc, văn hoá giao tiếp, nghệ thuật múa hát... Mặt khác nó còn là một hình thức giáo dục rất sâu sắc về tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng. Cho nên, mỗi lễ hội là một biểu hiện tổng hoà của các hình thức văn hoá. Trong đó văn hoá giao tiếp là một thành tố cơ bản, là sự nối kết cho mọi hoạt động. Thiếu nó, lễ hội không thể tồn tại.
Ta có thể hình dung rằng, hoạt động giao tiếp trong lễ hội bao gồm hai phần rõ rệt: phần lễ và phần hội.
- Ở phần lễ: ngôn ngữ mang tính chất trang trọng và thiêng liêng. Các văn bản bao giờ cũng được soạn thảo trước, có sự gọt giũa, trau chuốt cẩn thận. Ở phần này ngôn ngữ giao tiếp gồm hai bộ phận:
+ Ngôn ngữ mang tính nghi thức hành chính: đó là bản chúc văn của người đại diện cho làng xã đọc trước công chúng tuyên bố lý do tổ chức lễ hội, ý nghĩa của lễ hội và lời chúc mừng. Ngôn ngữ của loại văn bản này thiên về tính chất của phong cách ngôn ngữ hành chính. Người đọc cần phải đĩnh đạc, đọc chậm rãi với ngữ điệu trang nghiêm. Lời văn của văn bản phải ngắn gọn, xúc tích, chứa nhiều nội dung thông tin. Trong văn bản không sử dụng các câu đưa đẩy, những cách nói mang tính hình tượng, có tính nước đôi về ý nghĩa.
+ Ngôn ngữ hành lễ: là ngôn ngữ dùng trong nghi thức lễ tết. Quá trình hoạt động giao tiếp, xét về mặt nội dung, tập trung ở phần này và được điều khiển bởi người đóng vai chủ lễ (chủ xướng). Nếu phân tích kỹ thì ngôn ngữ hành lễ bao gồm hai mặt: âm thanh lời nói và ngôn ngữ âm nhạc. Đây là đặc điểm làm cho ngôn ngữ hành lễ khác hẳn ngôn ngữ nghi thức hành chính và khác với hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ở phần hội. Cho nên, trong quá trình thực hiện các bước của ngôn ngữ hành lễ, người giữ trống cái có vai trò đặc biệt. Nó không phải là thứ nhạc nền của lời nói âm thanh, mà thực hiện với tư cách là hành vi phối hợp tạo ra những chỉnh thể thống nhất của "văn bản" hành lễ. Điều này thể hiện rõ ở việc người đánh trống phải biết điểm nhịp chính xác. Tiếng trống ở đây không những tạo ra những chỗ ngắt nghỉ giống như chỗ kết thúc của một đoạn văn mà nó còn có vai trò như một "dẫn ngữ" giúp cho việc chuyển đoạn được nhuần nhuyễn. Như thế, trong hoạt động giao tiếp, nó tham gia với chức năng của liên kết "văn bản" và đồng thời thực hiện việc chuyển tiết tấu của hoạt động giao tiếp.
Lượng "thông tin" của tiếng trống phát ra từ tiếng cắc tiếng tùng, tiếng khoan tiếng nhặt, nhịp bốn nhịp ba, tiếng mạnh tiếng yếu... là dấu hiệu báo trước cho ngữ điệu của lời nói âm thanh xuất hiện sau đó. Người đi xem lễ hội rất chú ý đến việc người đánh trống có hay hoặc không hay, người chủ tế và người xướng lễ ở mỗi công đoạn có "trình độ" hay không có "trình độ". Ở góc độ này hoạt động giao tiếp trong lễ hội nhích dần và tiếp cận đến hoạt động giao tiếp mang tính nghệ thuật. Chính vì thế các ông xướng lễ (như ông Đông xướng, ông Tây xướng, ông độc văn...) đều phải tập rượt kỹ từ cách phát âm, luyện giọng, cách nhấn nhá âm thanh (xử lý ngữ điệu), cách dùng các tiếng đệm "ê a" sao cho đạt tới một trình độ nghệ thuật. Trong đó, khả năng về đại từ là một trong các yếu tố cần chọn đầu tiên. Trong ngôn ngữ hành lễ, người có chất giọng tốt đương nhiên tạo được lợi thế quan trọng trong hoạt động giao tiếp của mình.
+ Ngôn ngữ hình tượng
Trong phần lễ, đây là một hoạt động giao tiếp mang tính sinh động dễ thu hút sự hứng khởi của đám đông. Ở đây, hoạt động giao tiếp được thực hiện qua vũ đạo của một cá nhân hay tập thể. Nói theo cách nói của người học, thì phần tin được truyền đi ở phần này được thực hiện bằng hành động phi ngôn ngữ: cử chỉ, điệu bộ, đường nét, vũ đạo của người sắm vai.
Thông thường vũ đạo múa có kèm theo lời hát đế phụ hoạ hay lời hát của chính những người đang đứng trong đội hình múa hát. Khi thể hiện hình tượng bằng các động tác vũ đạo, một khoảng sân đình sẽ là một sân khấu thu nhỏ. Hỗ trợ cho hành động múa hát bao giờ cũng có một bộ nhạc gõ làm nền phối hợp với nhạc dây (nhị, hồ) hoặc có khi phối hợp với cả nhạc hội (kèn, sáo...).
Hoạt động giao tiếp này thường ở cuối buổi lễ. Nó tạo ra những giây phút sôi động nhưng có tác dụng thư giãn sau những giây phút trang nghiêm được tiến hành ở các hoạt động giao tiếp lúc đầu. Tính giáo dục của phần hoạt động giao tiếp này chủ yếu là tác động vào tư duy hình tượng của người xem. Các hình tượng được truyển tải thường liên quan đến các nhân vật được tôn thờ ở làng hoặc các hình thái tín ngưỡng, các sinh hoạt trồng cấy, lao động sản xuất ngành nghề của địa phương...
- Ở phần hội
Phần hội là phần có nhiều hình thức đa dạng như: hội vật, hội bơi chải, hội bắt vịt, hội nấu cơm thi, hội múa võ, hội đánh cờ, hội ném vòng, hội rước văn... Vì vậy ngôn ngữ giao tiếp cũng như các hoạt động giao tiếp nói chung rất phong phú. Tính chất của người giao tiếp ở phần hội chủ yếu là khẩu ngữ tự nhiên hay còn gọi là phong cách khẩu ngữ sinh hoạt tự do.
Người đi dự phần hội chủ yếu nhằm giao lưu, vui chơi, giải trí. Ngôn ngữ được sử dụng thiên về ngôn ngữ bình luận, giàu màu sắc biểu cảm với việc sử dụng khá nhiều các thán từ.
II. Hoạt động giao tiếp trong các đám hiếu đám hỷ
Trong xã hội Việt Nam, việc hiếu, việc hỷ tuy là của mỗi gia đình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Bởi vì qua những công việc này, người ta có thể hình dung được mối quan hệ của gia đình tín chủ với xã hội và mức độ giao lưu, tính cộng đồng ở mỗi làng quê.
1. Hoạt động giao tiếp trong đám hỷ
Theo thói quen, chúng ta thường quan niệm đám hỷ là đám cưới. Ý nghĩa này bắt nguồn từ việc ra đời chữ "song hỷ" từ Trung Quốc gắn với tập tục cưới xin của một số nước phương Đông. Nhưng nếu quan niệm "hỷ" là vui thì đám hỷ bao gồm việc cưới xin, thăng chức, khao thọ, làm nhà... Trong tất cả các công việc vui mừng vừa kể trên, hoạt động giao tiếp của người Việt có chung một nét đặc trưng là chia vui cùng gia đình tín chủ.
Do mục đích giao tiếp như vậy nên hoạt động giao tiếp trong đám hỷ thiên về nghi thức chào mời và nghi thức khen ngợi. Trong đám hỷ người ta hết sức tránh dùng ngôn ngữ tranh luận để khỏi tạo ra không khí căng thẳng làm ảnh hưởng đến cuộc vui chung.
Trong hoạt động giao tiếp ở đám hỷ, có các nghi thức cần chú ý - Nghi thức chào mời của chủ nhà.
Đây là một nghi thức rất được chú trọng trong đám hỷ. Bởi vì, theo quan niệm truyền thống thì ngay cả đối với văn hoá ăn, người Việt vẫn coi tinh thần làm trọng, đặt tinh thần lên trên hết. Như trên đã nói, tinh thần này được đúc kết qua câu thành ngữ "Lời chào cao hơn mâm cỗ". Do đó, trong đám hỷ, việc ăn cỗ bao giờ cũng đi sau. Có không ít gia đình khi có công có việc làm cỗ rất to, rất nhiều, nhưng rốt cục lại rất ít người đến. Có đám cưới, nhà rất giàu mà lại thừa đến 60, 70 mâm. Điều đó nói rằng, đối với đám hỷ, sự giàu nghèo của gia đình tín chủ không phải là điều quyết định đến sự thành công của công việc. Điều cốt lõi là ở thái độ ứng xử và văn hoá giao tiếp của chủ nhà trong quá trình sống cũng như lúc có công việc vui. Công việc đầu tiên của hoạt động giao tiếp trên thực tế đã diễn ra từ trước lúc tổ chức chính thức công việc. Nó được thực hiện ở nghi thức mới.
Thông thường, khi có việc hỷ, người ta phải lo công tác chuẩn bị từ trước đó hàng tuần, thậm chí có khi hàng tháng (nếu là việc đại hỷ). Với các việc hỷ như khao thọ, làm nhà, thăng chức, đỗ đạt... ở làng quê người ta chỉ cần khẩu mời (mời bằng miệng). Nhưng với một số nhà giàu ở thành phố người ta còn dùng giấy mời, hay thiếp mời. Tuy hình thức mời đơn giản, nhưng người thực hiện việc khẩu mời phải có thái độ trân trọng. Trước hết, người đi mời phải là người lớn có quan hệ thân tộc với chủ nhà. Ở nhiều làng quê, việc sai trẻ đi mời là điều cấm kỵ với hai lý do:
- Không có ý tôn trọng
- Tính trách nhiệm không cao, quên quên nhớ nhớ, có khi làm sai lạc cả nội dung hoặc giò giấc.
Ở làng xã, việc thực hiện nghi thức mời cũng phải tuân thủ theo tính tôn ti, trật tự. Nếu người thực thi nghi thức mời không thực hiện đúng các qui tắc được hình thành theo phong tục tập quán rất dễ vấp phải những phản ứng của khách: Hoặc là khách lẳng lặng không đi, hoặc là nói thẳng ra miệng bằng những lời chê trách nghiêm khắc.
Chẳng hạn, khi đi mời phải mời các ông già bà cả có vai vế cao trong họ mạc, làng xã trước, sau đó theo thứ tự mời dần xuống các vai dưới và người ít tuổi. Nếu người đi mời tự ý xáo trộn thứ tự thì những người cao tuổi hoặc vai trên sẽ cự tuyệt với cuộc hỷ của gia chủ.
Tính trân trọng trong hoạt động giao tiếp ở đám hỷ qua nghi thức mời được thể hiện ở hai phương diện:
a - Tính tôn ti thứ bậc
b - Thời gian
Ở nông thôn, đây là những qui tắc nghiêm ngặt. Khi có việc vui, lời mời được coi là chân thành chỉ khi nó đi trước ngày có công việc ít nhất là một ngày. Việc hỷ càng lớn thì lời mời càng phải được báo sớm hơn. Nếu đến ngày vui mới thực hiện nghi thức mời, người được mời thường có mặc cảm về sự thiếu trang trọng và thường tìm lý do thoái thác một cách tế nhị.
Ở thành phố, nghi thức này thường có sự linh hoạt và không bị "cố chấp" do những hoàn cảnh:
- Thời gian và công việc của khách không giống nhau.
- Địa điểm khách mời phân tán, không tập trung. Trong đó nhiều người không biết nhau.
- Người thành phố ít nhiều ảnh hưởng cách nghĩ công nghiệp: lấy tiện lợi,
đơn giản làm chính.
Đối với việc đại hỷ, như việc hôn lễ, trước đây các hoạt động giao tiếp thường được tổ chức thành 4 công đoạn:
- Lễ chạm ngõ
- Lễ ăn hỏi
- Lễ dạm
- Lễ cưới
Tuỳ từng vùng quê, các công đoạn này được thực hiện theo những cách khác nhau về cách thức cũng như thời gian giãn cách giữa các công đoạn. Mặt khác, nó cũng được áp dụng khác nhau ở hoàn cảnh thời bình hoặc thời chiến. Nhìn chung, khuynh hướng hiện đại là tránh sự cầu kỳ để tiết kiệm thời gian, công việc, mà vẫn thể hiện được đầy đủ ý nghĩa. Do đó bốn công đoạn trên hiện nay t hường được rút gọn lại còn hai: lễ dạm hỏi và lễ cưới.
Ngoài lý do trên, có thể giải thích sự thay đổi này bằng những tác động của quan niệm xã hội do quá trình đi lên từ nếp sống phong kiến sang nếp sống dân chủ. Trước đây, phần lớn việc hôn nhân của con cái đều do cha mẹ quyết định theo quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Đó là một phong tục phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước châu Á khác như Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Inđônêxia, Campuchia, Brunây... Trước khi hôn lễ, cô dâu chú rể hầu như không có tiếp xúc, do đó cần phải có các thao tác làm quen qua các lễ nghi: chạm ngõ, ăn hỏi... Ngày nay, theo nếp sống dân chủ, không phải chỉ ở thành thị mà ngay cả ở nông thôn, trai gái được tự do tìm hiểu, khi đã thống nhất tư tưởng mới đi đến quyết định kết hôn. Khi ấy những thủ tục chạm ngõ, ăn hỏi trở nên rườm rà, không cần thiết. Đó cũng là một lý do khiến cho việc hôn lễ ở thời hiện đại giảm lược đi các thủ tục, các nghi thức giao tiếp giữa hai gia đình.
Tuy nhiên, ngoài hình thức áp đặt của cha mẹ, các hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng ở một số dân tộc đã tạo ra một hoàn cảnh giao tiếp rất đặc biệt để nhiều cặp trai tài gái sắc có thể tự tìm đến với nhau. Họ tìm hiểu nhau qua những đối thoại bằng lời ca gọi là hát đối đáp. Qua câu hát, họ gửi gắm cho nhau bao niềm tin hy vọng, bao lời nguyện ước, thề bồi. Tình cảm yêu thương gắn bó, ý chí quyết tâm của nhiều đôi lứa đã tạo ra một tục lệ rất đặc biệt ở nhiều nước Đông Nam Á gọi là tục lệ cướp dâu. Tục lệ này có ở nhiều nước Đông Nam Á lục địa và hải đảo như Philipin, Indônêxia... Nghĩa "cướp" trong tục cướp dâu không dùng với nghĩa thông thường là "đi cướp lấy cô dâu". Thực chất nó là cuộc đấu tranh để giành lấy cô dâu trong hoàn cảnh nghiệt ngã của sự gả bán phong kiến. Cướp dâu không mang ý nghĩa "chiếm đoạt" mà mang ý nghĩa "đồng lòng" giữa cô dâu và chú rể cùng những người tích cực ủng hộ họ. Cho nên trong một chừng mực nhất định có thể coi đây là một biểu hiện tích cực của văn hoá chống lại luật pháp phi dân chủ.
Tính chất của hôn lễ mang tính áp đặt, gả bán đã tạo ra một hoạt động giao tiếp mang tính cưỡng bức. Việc hỷ vô hình có khi lại trở thành việc buồn do tình trạng thách cưới quá cao, mang tính mua bán. Tình thế giao tiếp thay đổi, con người trở thành món hàng thì ý nghĩa của việc hỷ không còn giá trị. Các cuộc giao tiếp có khi trở thành sự mặc cả, giằng co. Có không ít trường hợp hạnh phúc của các lứa đôi đã tan vỡ ngay khi chưa thành hôn vì hai phía gia đình không đạt được sự thoả thuận.
Trong thời đại mới, việc kết hôn không còn có sự cưỡng bức hay áp đặt của cha mẹ, gia đình thì tính gả bán không còn có chỗ để tồn tại. Nam nữ yêu nhau trên cơ sở tự nguyện. Do đó các thủ tục quanh việc cưới xin chủ yếu mang nghi lễ ngoại giao trên cơ sở bàn bạc dân chủ cùng có trách nhiệm giải quyết. Vì vậy tính chất giao tiếp không bị rơi vào tình trạng "đàm phán" căng thẳng mà mang tính vui vẻ tự nhiên.
Sự khác biệt cơ bản trong mẫu giao tiếp phụ thuộc vào tính chất của hôn nhân. Nếu cuộc hôn nhân là sự gả bán thì trong giao đãi không có câu: "Sau thời gian tìm hiểu kỹ càng giữa hai cháu". Chúng ta quan sát hai mẫu giao tiếp sau đây:
-Thưa các cụ, các ông, các bà...!
Hôm nay ngày lành tháng tốt, được sự đồng ý của hai gia đình ông bà... thân sinh ra cháu Nguyễn Thị... gia đình chúng tôi xin được dâng cơi trầu (một lễ mọn) trước bàn thờ gia tiên. Trước là kính trình tổ tiên, sau xin phép thưa chuyện các cụ kể từ nay cho phép cháu Trần Văn... nhà chúng tôi được phép đi lại với tư cách là con rể của ông bà... và là con cháu của các cụ bên nhà"#.
Đây là loại mẫu giao tiếp thường được dùng trong nghi lễ dạm hỏi trước đây. Sau năm 1954, khi nếp sống văn hoá mới mang tính dân chủ được hình thành, mẫu này đã được bổ sung một ý rất quan trọng.
"Hôm nay ngày lành tháng tốt, được sự đồng ý của hai gia đình, với sự giúp đỡ tích cực của cơ quan đoàn thể, sau một thời gian dài tìm hiểu, tình cảm giữa hai cháu Trần Văn... và Nguyễn Thị... đã đến lúc chín muồi. Hôm nay, cho phép tôi thay mặt nhà trai..."
Như vậy, có thể nói rằng, sự tiến bộ của pháp luật, của nếp sống văn hoá mới đã có tác động tích cực làm thay đổi hẳn bản chất của các hoạt động giao tiếp cũng như các phương tiện ngôn ngữ nhằm thể hiện chúng.
Đặc điểm nổi bật của hoạt động giao tiếp trong đám hỷ là có mục đích chia vui cùng gia chủ. Vì thế ngay cả khi còn tồn tại hình thức "gả bán trong hôn nhân thì mọi sự căng thẳng chỉ diễn ra ở khâu "trù bị". Đến ngày tân hôn của đôi lứa, người ta phải dẹp đi mọi sự không hài lòng để nói những lời hay ý đẹp. Cách nói năng trong các hoàn cảnh như vậy đã phần nào phản ánh những đặc trưng văn hoá giao tiếp của người Việt. Nó thể hiện rất rõ những cách chào, cách mời, cách đáp lễ, cách chúc mừng, cách xếp đặt vị trí của mâm ăn...
Thông thường, trong một đám hỷ lớn, ngoài khâu chuẩn bị hậu cần, khâu tiếp tân rất quan trọng. Để có thể chu đáo với công việc, người ta phải cắt cử vị trí rõ ràng cho từng người: người đón khách từ cổng; người dẫn khách vào nhà, người đáp lễ, người dẫn khách vào vị trí... Ở nông thôn hiện nay, những nghi thức này đã được củng cố sau một thời gian dài chiến tranh. Vì thế, khi tiến hành, ai vào việc nấy rất thuần thục.
Khách đến ăn cỗ được tách ra làm mấy loại:
- Khách trẻ con: bao giờ cũng được ưu tiên ăn trước trong các dãy bàn kê ngoài sân, thậm chí cả ngoài vườn.
- Khách người lớn gồm người lớn tuổi và tầng lớp thanh niên. Họ thường ngồi tách riêng theo các khu vực qui định. Thanh niên ngồi với thanh niên, người già ngồi với người già.
Nhiều vùng quê thuộc trung du Bắc Bộ như Sơn Tây, Phú Thọ... thành phần lớn tuổi bậc "các cụ" lại được tách làm hai giò: giò cụ ông, giò cụ bà (nhóm cụ ông, nhóm cụ bà) ngồi riêng biệt lập, có khi ngồi hẳn ở hai nhà khác nhau. Tuy nhiên, giữa họ vẫn có một điểm chung là: trước khi về các giò của mình, họ phải "có nhời" chúc mừng với đại diện của gia chủ. Sau khi vị đại diện "có nhời" đáp lễ, người khách sẽ được mời đến vị trí ăn cỗ. Cho dù bữa cỗ được chuẩn bị chu đáo thế nào, vị đại diện vẫn phải mời cơm bằng một câu "khiêm ngữ":
- Xin đa tạ sự nhiệt tình của ông (bà). Bây giờ cũng đã đến bữa, xin mời ông (bà) xơi bữa cơm dưa muối để chia vui cùng gia đình.
Nhìn chung, trong các câu đáp từ và mời mọc không mấy ai dùng từ "xơi rượu". Một mặt, đó là thái độ khiêm tốn của người nông thôn Việt Nam. Mặt khác do sự chi phối của ý tưởng trọng tinh thần trong văn hoá ăn, người ta phải dùng cách nói khiêm ngữ cho phù hợp với tinh thần ấy.
Ở nông thôn, mỗi lễ cưới thường kéo dài 3 ngày. Ngày đầu tiên là ngày dựng rạp, mổ lợn. Ngày này bữa ăn được tổ chức theo kiểu ăn thường (có thức ăn nhưng các món không bày thành cỗ). Việc ăn uống chủ yếu cho những người phục vụ là tầng lớp thanh niên và một số ít anh em có quan hệ gần gũi nhất. Buổi tối tiếp khách theo kiểu trầu nước và tiệc trà, hoạt động giao tiếp ít mang tính nghi lễ mà thiên về chúc tụng vui vẻ. Đây là một buổi tối đông vui nhất của lễ cưới. vì khách có mặt gồm cả những người không thuộc "diện ăn", chủ yếu đến chúc mừng theo tình làng nghĩa xóm.
Ngày thứ hai là ngày chính lễ, người ta ăn uống từ 8 giờ sáng đến khoảng 11, 12 giờ trưa. Theo thông lệ, việc ăn uống phải chấm dứt trước giờ ngọ để còn chuẩn bị cho cuộc rước dâu (đón dâu). Các gia đình nào kinh tế vào bậc trung thì tổ chức hôn lễ xong tiến hành hạ rạp ngay vào buổi chiều. Gia đình nào khá giả thì việc hạ rạp được tiến hành vào sáng hôm sau.
Xét về cấu trúc ngôn ngữ dùng trong hoạt động giao tiếp thì lời lẽ chúc tụng hoặc đáp lễ của các đám rước thuộc các vùng nông thôn thường rất dài dòng, thể hiện rõ sự thân tình nhưng pha trộn màu sắc ngoại giao và đôi nét của sự khách khí.
Trước đây khi có đám cưới, người thôn quê thường mừng nhau bằng cách giúp gạo hay giúp lợn. Thủ tục này được tiến hành từ trước lúc tổ chức lễ cưới. Ngày nay do chịu ảnh hưởng của nếp sống văn hoá thành phố, người ta đã chuyển sang kiểu "văn hoá phong bì". Trong ngày cưới người ta mừng cô dâu chú rể bằng tiền nhưng không gán vào sự vụ lợi mà chủ yếu ở ý nghĩa tình cảm. Phong bì rất ít khi được chuyển trực tiếp qua tay mà thường được đặt trên một cái đĩa. Sau khi khách nói lời chúc mừng xong, gia chủ đáp lễ,phong bì mới được cất đi.
Hoạt động giao tiếp trong đám hỷ ở thành phố có nhiều điểm khác hẳn ở nông thôn. Thứ nhất, việc ăn uống thường được tổ chức tập trung ở khách sạn hoặc nhà hàng khoảng từ 11 giờ đến 13 giờ. Việc đón tiếp, mời khách không cầu kỳ như ở nông thôn. Khách được mời đến, đủ mâm là ăn, không phân biệt rạch ròi vai vế, già trẻ hoặc nam nữ. Đây là một khía cạnh rất tiến bộ của tinh thần dân chủ, nhưng mặt khác cũng có sự kém vui vì có nhiều mâm các vị khách không quen biết nhau. Họ chỉ thực hiện việc ăn theo "trách nhiệm" rồi mừng xong là về, ít có cuộc trò chuyện rôm rả. Do đó, người nông thôn ra thành phố ăn cỗ thường có ấn tượng tẻ nhạt.
Mặt khác, ở nhiều đám cưới thành phố cuộc hỷ đã trở thành "cuộc lo" cho nhiều người do nạn "chạy đua phong bì" vì mục đích ngoài hôn nhân. Có người đến với đám hỷ không vì mục đích chia vui với gia đình theo phong tục của văn hoá truyền thống. Họ biến những hoạt động giao tiếp mang tinh thần văn hoá thành những cuộc mua bán quyền thế, chức vụ hoặc hàm ơn trả nghĩa. Phong bì của những người này thực chất đã chứa chất những yếu tố tiêu cực, phản lại văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
2. Hoạt động giao tiếp trong đám hiếu
Thực ra, người Việt Nam gọi đám tang là đám hiếu chủ yếu để tránh việc gợi ra sự u buồn và nhấn mạnh tinh thần nhân văn của Á Đông là tinh thần trọng hiếu của đạo làm con. Tinh thần này được đúc kết qua các lời dạy của cha ông:
Trai thì trung hiếu làm đầu
Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình
(Ca dao)
Về tính chất, việc hiếu là việc của con cháu nhưng trên thực tế, người Việt Nam có tinh thần "chia ngọt sẻ bùi" kiểu "tối đèn tắt lửa có nhau" nên nó lại là việc chung của làng xã, của cơ quan.
Tuỳ theo quan niệm về tang lễ ở mỗi dân tộc mà hoạt động giao tiếp ở đám hiếu lại có những cách biểu hiện khác nhau. Có một số dân tộc theo đạo Hồi như Malaixia, Inđônêxia quan niệm, trong tang lễ mà khóc thì tiếng khóc sẽ cản trở việc linh hồn người chết thanh thản trở về cõi vĩnh hằng. Vì vậy ở các dân tộc này có tục lệ cấm khóc [31]. Ngược lại ở Việt Nam và một vài dân tộc khác lại quan niệm khác hẳn: Khóc là biểu hiện sự thương nhớ. Vì thế trong tang lễ con cháu phải khóc lóc, càng khóc lóc thê thảm càng thể hiện chữ "hiếu" một cách sâu nặng. Thậm chí, trong dân gian vẫn thường nói đến "khóc hay" và "khóc không hay" trong đám tang. Khóc hay là khóc theo kiểu kể lể công cha nghĩa mẹ theo vần vè. Khóc không hay là khóc mà không kể lể theo lối văn vần. Do đó trước đây, nhiều nhà giàu muốn lấy tiếng đã bỏ tiền ra mời những người đến khóc thuê. Những người này là thợ khóc, có tài ứng đối rất nhanh. Họ chỉ cần nắm qua lý lịch của con cháu gia chủ là có thể biến hoá thành những bài khóc ai oán gây ra những cảm kích, chấn động lòng người.
Hoạt động giao tiếp ở đám hiếu khác hẳn ở đám hỷ. Nếu ở đám hỷ, nghi thức mời phải tiến hành chu đáo từ trước thì ở đám hiếu nghi thức mời được miễn hoàn toàn với lý do "tang gia bối rối". Mặt khác, trong tâm niệm người Việt Nam , ý thức "nghĩa tử là nghĩa tận" đã tạo nển một sắc thái riêng của văn hoá ứng xử với người chết. Khi sống dù có va chạm, xích mích thế nào nhưng khi người khác nằm xuống thì người sống phải có tinh thần "đại xá" để có mặt tiễn biệt người chết và an ủi thân nhân người mới qua đời.
Thông thường đến đám hiếu người ta thường đem theo các đồ phúng viếng như vàng hương, chè và phong bì. Với những người đi công tác hoặc ở cơ quan thì có vòng hoa.
Lời chia buồn với tang gia thường ngắn gọn không dài dòng như lời chúc ở đám hỷ. Lời đáp lễ của tang chủ cũng rất ngắn gọn, thường chỉ có mấy chữ: "chúng tôi xin chân thành cảm ơn". Sau khi khách thắp hương, vái người chết xong, tang chủ phải kính cẩn vái lại. Sau khi ngồi chơi uống nước trước khi khách ra về bao giờ cũng có một người thay mặt tang chủ mời khách dự buổi ăn cơm vào hôm sau để chia buồn cùng gia đình.
Nghi thức giao tiếp trong đám hiếu chủ yếu có hai phần:
+ Phần ở nhà và phần ngoài đồng.
a. Phần ngoài đồng: được tính bắt đầu từ lúc đưa linh cữu ra khỏi nhà. Dọc đường đi, nếu đường xa thì đám nghỉ hai lần, nếu đường ngắn thì nghỉ một lần. Thời gian nghỉ trung bình từ 7 đến 10 phút. Đây là lúc gia phủ phải có đại diện tiếp tân mời khách ăn trầu, ăn thuốc. Trời nắng thì phải có nước phục vụ.
Khi linh cữu đưa tới nghĩa trang, người ta làm lễ hạ huyệt bằng cách thắp hương, sau đó đắp đất đầy mộ. Trước khi cho xẻng đất đầu tiên xuống mộ, tang chủ phải dừng tiếng khóc để người đại diện cho chính quyền địa phương (thường là cán bộ phụ trách mặt trận) đọc bản điếu văn. Nội dung điếu văn ngắn gọn kể lại lai lịch, tên tuổi của người qua đời cùng nét cá tính tiêu biểu nhất. Su khi phần đọc điếu văn kết thúc, con cháu người chết bắt đầu khóc trong tiếng kèn như tiễn biệt linh hồn. Một vài người nhà ném đất xuống huyệt tượng trưng hoặc thả thêm vài đồng tiền giấy trước khi đội phục vụ dùng đất đắp mộ.
Khi mộ đắp xong xuôi, đại diện tang chủ có ý kiến phát biểu cảm ơn sự nhiệt tình của khách, cáo lỗi về những thiếu sót trong tang lễ và mời các tang khách về nhà "ăn bữa cơm nóng chia buồn với gia đình".
Ngoài các thủ tục trên, hiện nay ở một số vùng quê còn có thêm một thủ tục gọi là lễ cầu hôn. Buổi lễ này được tiến hành trước lúc vị đại diện cho gia đình tang chủ phát biểu. Người ta hành lễ bằng cách dùng một băng vải lớn dài khoảng hơn chục hoặc hai chục mét nối từ mộ lên đường cái. Băng vải này do các cụ bà đứng dọc hai bên cầm tay, tạo thành cái cầu tượng trưng dẫn hồn người chết bay về phương cực lạc.
Phần việc ngoài đồng, lễ cầu hồn bao giờ cũng kéo dài nhất, trung bình từ 45 phút đến 90 phút. Có khi các cụ bà rất say sưa kể hạnh đến nỗi phải vài lần mới "dừng nổi" được. Sau lễ cầu hồn, người nhà tang chủ cảm ơn bằng cách thưởng tiền cho "các vãi". Con cháu lần lượt vào thướng. Người thướng càng đông thì con cháu người chết càng có tiếng là có hiếu.
b. Phần ở nhà: chủ yếu tập trung ở khâu tiếp tân lúc khách đến chơi uống nước chia buồn và lúc ăn cơm. Tất cả những lúc này chủ nhà phải luôn quan tâm đến khách, phải có người đáp lễ, có nhời cảm ơn trước lúc khách ra về, có người nhiệt tình mời khách ở lại ăn cơm. Ở nông thôn, trước lúc ăn cũng giống như đám hỷ, mỗi mâm phải có một người đại diện đến mời theo kiểu "có nhời" mới được gọi là chu đáo.
Người Việt Nam có câu "trẻ làm ma, già làm hội". Nếu người chết càng cao tuổi thì càng phải làm trò thật vui. Người ta dành hẳn một đêm cho công việc tế lễ.
Trước đây những người phục vụ cho công việc này gọi là đám thợ kèn. Hiện nay, người ta không thích coi đó là nghề làm thuê nên đổi tên gọi là ban nhạc hiếu. Tuỳ từng nơi từng chỗ, ban nhạc này được trang bị các loại nhạc cụ khác nhau. Nhìn chung, bộ nhạc chủ yếu là nhạc hơi, nhạc dây và bộ nhạc gỗ.
Trong khi thực hiện các thủ tục tế lễ, người trong ban nhạc thường đóng vai để khóc thay cho con cháu của tang chủ. Tiền thướng (càng) hậu thì bài hát thường dài, đầy đủ. Tiền thướng ít, bài hát thường ngắn vì bị cắt xén, tiếng khóc cũng ít thảm hơn.
Thường thường trong tang lễ, tiết mục vui và sinh động nhất là tiết mục "chèo đò" đưa linh hồn người quá cố về Tây Trúc. Ở tiết mục này, tài nghệ của ban nhạc bộc lộ trên rất nhiều phương diện: ở khả năng diễn xuất, khả năng tạo tình huống, khả năng đối thoại với chủ... Nếu ban nhạc gặp các gia đình khá giả bao giờ cũng chủ động tạo ra nhiều miếng trò hiếm để làm thành cơ hội bắt con cháu tang chủ phải "thể hiện chữ hiếu" của mình. Con cháu người quá cố càng giàu thì thuyền đến Tây Trúc càng gặp nhiều khó khăn: khi dầm bị gẫy phải có tiền làm lại, khi ông lão lái đò bị đói mỏi tay cần mua thức ăn tiếp sức, khi thuyền rách phải mua thuyền mới hoặc sửa chữa, khi gặp quỉ sứ dọc đường phải có tiền hối lộ, khi thuyền lạc đường phải thuê người dẫn lối... Tóm lại sẽ có rất nhiều tình huống để ban nhạc tiến hành các hoạt động giao tiếp, với toàn bộ các thành viên trong gia đình tang chủ.
Nếu trên thực tế có nhiều ban nhạc coi đây là loại chiếu chèo hoặc sân diễn kiểu kịch cương của các cụ ngày xưa để phô diễn tài nghệ của mình theo tinh thần phục vụ thì đó là một nét rất đẹp của văn hoá giao tiếp trong tang lễ. Nhưng cũng có không ít ban nhạc hiếu lại biến việc làm có ý nghĩa ấy thành một cơ hội để moi tiền tang chủ thì đó là một việc rất tiêu cực và phi văn hoá.
Các cụ có câu: "Sống dầu đèn chết kèn trống". Quả thật, trong đám tang thiếu tiếng kèn trống cũng có sự tẻ nhạt. Nhưng việc sử dụng kèn trống như thế nào cho phù hợp và có ý nghia là một vấn đề rất đáng chú ý trong ý thức đổi mới, xây dựng văn hoá giao tiếp lành mạnh ở nông thôn hiện nay.
Chú thích
[1] Trần Độ.1986. Văn hoá văn nghệ trong cách mạng XHCN ở Việt Nam. Nxb VH.
[2] Bùi Quang Thắng 2003. Hành trình vào văn hóc học. Nxb VHTT.
[3] J Fichter.1974. Xã hội học (bản dịch của Trần Văn Đĩnh, in lần 2) Nxb Hiện đại. Sài gòn.
[4]. Hoàng Vinh.1999. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta. Nxb VHTT.
[5].Đoàn Văn Chúc.1997. Xã hội học văn hoá. Nxb VHTT.
Tài liệu tham khảo chính
a. Akisina. A.A. Phoc Manovskaja. N.I. Nghi thức lời nói?
2. Allan Pease. Ngôn ngữ của cử chỉ ý nghĩa của cử chỉ trong giao tiếp. Đà Nẵng 1994.
3. Agmini. V.G.Xilman. J.I.Việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và các vấn đề phong cách M.1973.
4. Budagov. R.A. Vấn đề các phong cách ngôn ngữ. Tuyển tập ĐHTH. Tập VII,
M.1962.
5. Bôndalêtov. U.P.Vectapêtôva. Kh. Kh... Phong cách học tiếng Nga. L. 1989.
6. Các nước Đông Nam Á. H.1976.
7. Cao Xuân Phổ, Ngô Văn Doanh, Phan Ngọc, Ngô Thế Phong. Văn hoá ba nước Đông Dương. H.1992.
8. Cù Đình Tú. Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. H.1983.
9. Đào Văn Tiến. Về lễ hội ở Lào. VHDG. Số 2/1986
10. Đặng Đức Siêu. Chữ viết trong các nền văn hoá. H., 1982
11. Đỗ Quang Hưng. Con người Việt Nam trong môi trường văn hoá phương Tây cưỡng chế (1897 - 1945): những giải pháp tiếp nhận. VHTT. Số 2/1995
12. Đỗ Văn Ninh. Ngôi âm dương - DTH số 1, 2/1988
13. Đinh Gia Khánh. Huyền thoại về sự ra đời nước Phù Nam, nước Chiêm Thành và nước Campuchia. VHDG. Số 1/1991.
14. Đinh Gia Khánh. Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á. H., 1993.
15. Đinh Ngọc Bảo. Mối quan hệ khu vực qua các nền văn hoá khảo cổ thời tiền sử Đông Nam Á, NCĐNA. Số 3/1995.
16. Đinh Trọng Lạc. Phong cách học văn bản. H.,1994.
17. Golub. I.B.Phong cách học tiếng Nga hiện đại. M.1976.
18. Hữu Đạt. Về một vài kiểu cấu tạo từ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ học Việt Nam. H.1981.
19. Hữu Đạt. Phong cách học tiếng Việt hiện đại. H.,1999.
20. Hữu Đạt. Phương Cách - một vùng đất có nhiều di tích văn hoá, lịch sử. VHDG 5/1999
21. Hữu Đạt. Phong cách và các phong cách chức năng. VHTT. 2000.
22. Hall. D.G.E. Lịch sử Đông Nam Á. H., 1997.
23. Hùng Vương dựng nước. H.1970, 1972, 1973, 1974.
24. Hoài Việt. Ngàn xưa đất mẹ tinh hoa. H.1996.
25. Hồ Sĩ Vịnh (chủ biên). Văn hoá và con người. H.,1993.
26. Hồ Sĩ Vịnh, Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) Văn hoá Việt Nam - một chặng đường. H.,1994.
27. Hoàng Tuấn. Học thuyết âm dương và phương dược cổ truyền. H.,1994.
28. Hoàng Vinh. Góp phần bàn về định nghĩa văn hoá. H.,1986.
29. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược. Văn hoá truyền thống Tầy Nùng. H.,1993.
30. Kozina. M.N. Phong cách học tiếng Nga.M.1977.
31. Mai Ngọc Chử. Văn hoá các nước Đông Nam Á. H.1999.
32.Ngô Đức Thịnh. Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam. H.,1993.
33. Ngô Văn Doanh. Nhà mồ Tây Nguyên và văn hoá khu vực Thái Bình Dương. VHDG. Số 2/1990.
34. Ngô Văn Doanh. Văn hoá Champa. H.,1994.
35. Nguyễn Cao Luyện. Từ những mái nhà tranh truyền. H.,1977.
36. Nguyễn Hữu Ngọc. Người nước ngoài nghĩ về Việt Nam trong "về giá trị tinh thần Việt Nam". Tập II. H.,1983.
37. Ngô Văn Lệ. Sự thống nhất của Đông Nam Á nhìn từ khía cạnh tổ chức gia đình trong "Đông Nam Á ngày nay" Khoa Đông Nam Á trường Đại học Mở. TP. Hồ Chí Minh. Số 3/1995.
38. Nguyễn Duy Thiệu (chủ biên). Các dân tộc ở Đông Nam Á. H.,1997.
39. Nguyễn Đăng Duy. Văn hoá tâm linh. H.,1996.
40. Lương Thứ, Phan Thu Hiền, Phan Nhật Diêu. Đại cương văn hoá phương Đông. H.,1996.
41. Lâm Tô Lộc. Nghệ thuật múa dân tộc Việt. H.,1979
42. Lê Văn Hảo. Hành trình về thời đại Hùng Vương. H.,1982.
43. Lê Văn Quán. Khảo luận tư tưởng Chủ Dịch. H.1993.
44. Luật tục 1996. Luật tục Êđê. H.,
45. Phan Đại Doãn. Mấy nét về "văn hoá làng" ở vùng đồng bằng Bắc bộ: Con người và xã hội trong "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay". Tập I. (Đề tài KX 07 - 02)H.,1994.
46. Phan Ngọc. Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ Đông Nam Á trong "Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á". H.,1983.
47. Phan Ngọc. Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới. H.,1994.
48. Phan Ngọc. Sự tiếp xúc văn hoá của Việt Nam với Pháp. NCĐNA. Số 4/1994.
49. Phan Công Sơn. Gia lễ xưa và nay. Đồng Tháp 1997.
50. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Hồ Chí Minh. 1996.
51. Trần Quốc Vượng. Cơ sở văn hoá Việt Nam. H., 1997.
52. Trần Thị Thu Huyền. Âm dương ngũ hành với y học cổ truyền và đời sống con người. H.,1999.
53. Tân Việt. 100 điều cần biết về phong tục Việt Nam. H.,1996.
54. Vũ Dương Ninh (chủ biên). Lịch sử văn minh nhân loại. H.,1997.
=======================
*PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt là chuyên gia giảng dạy bộ môn Phong cách học và Ngôn ngữ văn học, đồng thời là tác giả nhiều tác phẩm văn học thuộc các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, sân khấu, thơ. Trong đó, có nhiều tác phẩm được bạn đọc yêu thích như: Hai đầu của bức thư tình, Các con đại tá (2 tập), Phía sau giảng đường, Những kẻ giấu mặt (tiểu thuyết); Chuyện thường ngày ở huyện, Nước mắt cô đào, Vì tôi yêu (sân khấu). Xem thêm http://ussh.vnu.edu.vn/profile/nguyen-huu-dat