Là một nước có quan hệ văn học lâu đời với Trung Quốc và cũng đang trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc, văn học nước ta trong giai đoạn này tiếp nhận được những gì từ những thành tựu văn học hiện đại Trung Quốc? Quan hệ văn học giữa hai nước trong giai đoạn này có gì đặc biệt? Tìm hiểu việc nghiên cứu - Giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc ở nước ta trước cách mạng tháng Tám năm 1945 sẽ góp phần làm rõ những vấn đề thuộc về quan hệ văn học nêu trên. Chúng tôi chọn khoảng thời gian trước cách mạng tháng Tám vì sau cách mạng tháng Tám quan hệ giữa văn học Việt Nam và Trung Quốc chuyển qua thời kỳ mới, khác trước về chất, cần có những nghiên cứu riêng.
1. Trong khoảng thời gian văn học Trung Quốc có những chuyển biến mạnh mẽ với sự phát triển thắng lợi của nền văn học mới, ở ta cũng có phong trào vận động xây dựng “nền Quốc văn mới” lấy quốc ngữ làm phương tiện, chú trọng khảo cứu, dịch thuật tinh hoa văn hoá Đông – Tây. Riêng đối với văn học Trung Quốc, chúng ta đã dịch hầu hết các tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc, dịch cả Từ Trẩm Á. Tuy nhiên suốt thời gian khá dài, ngót trên 20 năm, những biến động lớn ở Trung Quốc - cuộc vận động Tân Văn Hoá, phong trào Ngũ Tứ vận động ..., những tên tuổi lớn, kể cả Lỗ Tấn, cũng hầu như không được biết đến ở nước ta. Nếu có, cũng chỉ là những tiếng vọng mơ hồ, chẳng hạn:
Năm 1931 Vũ Ngọc Phan dịch in truyện Khổng Ất Kỷ của Lỗ Tấn trên tạp chí Pháp Việt số 59 (1-12-1931). Tuy nhiên bấy giờ Vũ Ngọc Phan cũng chẳng biết Lỗ Tấn là ai và không phiên âm được tên tác giả Lousin thành Lỗ Tấn, còn truyện thì phiên âm sai thành Khổng Sĩ Khí. Có tình trạng như vậy vì Vũ Ngọc Phan chuyển dịch từ một bản Pháp Văn trong “Anthologie des conteurs Chinois” (Tuyển tập truyện ngắn Trung Quốc) xuất bản ở Paris năm 1930. Tuy nhiên truyện ngắn này cũng đã kịp ảnh hưởng tốt đến Nam Cao khi ông viết Cái lò gạch cũ2. Có thể xem đó là cái “duyên đầu” của Lỗ Tấn với văn học Việt Nam.
Trong những năm ba mươi còn có thể ghi nhận một vài bài báo gọi là có nhắc đến chút liên quan đến văn học hiện đại Trung Quốc. Đó là bài của Lê Dư - Nguồn gốc văn học nước nhà và nền văn học mới (Nam Phong số 120/1933); của Trực Tâm - Cuộc vận động Tân văn hoá ở Trung Quốc (Phụ nữ Tân văn số 248/1930); của Nguyễn Tiến Lãng – Văn mới của người Tàu (Nam Phong số 210/1934); của Phan Khôi – Trên văn đàn thế giới, văn học Trung Hoa ở địa vị nào? (Đông Dương tạp chí số 28/1937); và năm 1941 có bài của Quán Chi - Nhớ lại Lỗ Tấn và lối văn bạch thoại nước Tàu (Trung Bắc chủ nhật số 61/1941)...
Nhìn chung, các bài báo trên chỉ giới thiệu hoặc nhắc sơ sài về cái lợi của việc dùng bạch thoại thay cho văn ngôn; có người đề cao công của Hồ Thích, Trần Độc Tú, có người đề cao công của Lỗ Tấn nhưng không ai thấy được thực chất và vai trò của Ngũ Tứ vận động, của nền văn học mới mà tinh thần của nó, theo giáo sự Đặng Thai Mai, “trước hết là một nền văn học chiến đấu, đại chúng và hiện thực”3. Nguyễn Tiến Lãng có nhắc đến thơ Từ Chi Ma, Quách Mạt Nhược, đến tác phẩm “Đời Ahy” của Lỗ Tấn, đến Lỗ Xá, Mao Thuẩn, Đinh Linh... nhưng cũng rất hời hợt, mơ hồ: “Xem qua đủ thấy người Tàu biết nhận cái ảnh hưởng của Thái Tây về hình thức cũng như về tinh thần. Đó cũng là một cái gương cho ta noi theo” (Bđd)
Khó có thể nói những bài viết trên là những bài có tính chất nghiên cứu, tìm hiểu văn học hiện đại Trung Quốc trên bình diện giao lưu văn học có ý thức. Và có thể nói, suốt trên hai mươi năm chúng ta không hề biết gì về sự thức tỉnh, về những thành tựu văn học mà lẽ ra sẽ có nhiều tác động tích cực đến một nền văn học đang trên tiến trình hiện đại hoá như văn học ta mấy mươi năm đầu thế lỷ. Thậm chí trong những năm bốn mươi, khi điều kiện tiếp xúc với văn học hiện đại Trung Quốc có vẻ dễ hơn trước, hiện đại không có gì nữa, chỉ có cách phải quay về những cái đẹp cổ xưa như sứ Giang Tây, thơ Đường!
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng “khoảng trắng” trong giao lưu văn học nêu trên, trong đó có nguyên nhân ngôn ngữ văn tự. Tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc, cả báo chí, đều viết bằng bạch thoại, trong khi người Việt Nam trước đó chỉ học cổ văn, khác cả về ngữ nghĩa lẫn ngữ pháp; bạch thoại hiện đại cũng không giống hẳn bạch thoại đời trước như lối văn trong Thuỷ Hử, Tây Du... Quả đó là rào cản lớn. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng hơn cả, theo chúng tôi, là chủ trương của Pháp cắt đứt quan hệ giữa hai dân tộc, nhất là thực dân Pháp đã có bài học thời kỳ “Tân thư”. Nhận xét về chính sách của thực dân Pháp lúc bấy giờ, giáo sư Đặng Thai Mai viết: “Trước tiên về tình hình chính trị Trung Quốc “hiện đại” thì các báo chỉ được phép mô tả cái cảnh nội chiến do bọn quân phiệt gây nên... Còn các phong trào đấu tranh cách mạng như Ngũ Tứ vận động văn hoá mới”4. Chính ông thời bấy giờ cũng “thấy mình lạc hậu đến nỗi không biết gì về Trung Hoa nữa rồi! Sao mà mười mấy năm nay bọn Pháp đã có thể phong toả biên giới văn hoá giữa Việt Nam với Trung Quốc kín mít thế này”5. Phải đến năm 1936, với Mặt trận dân chủ, tình hình có đổi khác chút ít, sách báo Trung Quốc của nhà xuất bản Tam Liên có thể lưu hành ở Sài Gòn, ở Hà Nội... Tuy nhiên, cũng phải đến những năm bốn mươi, với giáo sư Đặng Thai Mai, vănhọc hiện đại Trung Quốc qua một số tác giả, tác phẩm tiểu biểu mới được giới thiệu nghiêm túc và có tiếng vang.
2. Giáo sư Đặng Thai Mai mở đầu loạt công trình giới thiệu văn học mới Trung Quốc bằng bản dịch Người với thời gian - một bài thơ của Lỗ Tấn với lời giới thiệu trân trọng “một nhà nghệ thuật tiên tiến của nước Tàu” (Thanh Nghị số 23/1942). Sau đó cũng trên Thanh Nghị, ông dịch giới thiệu hàng loạt tác phẩm của Lỗ Tấn, đủ các thể loại: kịch Người qua đường (Thanh Nghị số 28/1943), tiểu thuyết A.Q chính truyện (Thanh Nghị số 48/1943), và một số tạp văn Lỗ Tấn trong dó có bài Vì sao tôi viết bộ A.Q chính truyện? (Thanh Nghị số 48/1943). Qua năm sau, 1944, giáo sư Đặng Thai Mai tập hợp lại, cho ra đời tập sách dày dặn Lỗ Tấn – thân thế, văn nghệ, trong đó phẩn khảo về Lỗ Tấn (55 trang) là một khảo luận công phu, mẫu mực theo phương pháp nghiên cứu Marxist, ẩn dưới cái nhìn của một học giả, khách quan, dễ thuyết phục. Với giáo sư Đặng Thai Mai, lần đầu tiên những cuộc vận động về cách mạng ở Trung Quốc, đặc biệt là tinh thần phản đế, phản phong của phong trào Ngũ Tứ được giới thiệu khá cụ thể ở nước ta6. Giáo sư Phan Cự Đệ nhận định: “Qua Lỗ Tấn – thân thế, văn nghệ (1944) người đọc thông minh có thể nhận thấy do ảnh hưởng của phong trào vô sản mà Trung Quốc đã có những nhà hiện thực lớn và chỉ có chủ nghĩ hiện thực kiểu Lỗ Tấn, Goocki mới có thể giúp cho độc giả tự tìm lấy một con đường chân lý”7. Phải chăng đó cũng là chủ ý của giáo sự Đặng Thai Mai!
Cùng với Lỗ Tấn, giáo sư Đặng Thai Mai còn đặc biệt quan tâm đến tạp văn Trung Quốc8, đến kịch của Trần Lâm, đặc biệt là của Tào Ngu9 - người đã đánh dấu bước tiến mới của kịch Trung Quốc hiện đại. Về bản dịch Lôi Vũ, giáo sư Trương Chính viết: “Vở kịch đã làm sôi nổi dư luận lên một dạo. Làng kịch của ta vốn rời rạc, bỗng hoạt động hẳn lên như một con bệnh được tiếp máu. Tôi vẫn thường nói với mình rằng, sở dĩ công chúng Việt Nam hoan nghênh nhiệt liệt Tào Ngu như thế là có phần đóng góp của ông Đặng Thai Mai. Và phần đóng góp đó không phải là nhỏ”10. Những nhận định tương tự như vậy, thiết nghĩ, lại càng đúng để nói về những đóng góp của giáo sư Đặng Thai Mai trong việc giới thiệu Lỗ Tấn, tạp văn Trung Quốc... Ông Vũ Đình Hoè, nguyên chủ bút báo Thanh Nghị, cũng viết: “Đặng Thai Mai có cống hiến đáng kể cho khoa văn, sử nước ta trong việc giới thiệu Lỗ Tấn”11.
Trong hoàn cảnh văn học công khai tiếng Việt đi vào lĩnh vực cá nhân chủ nghĩa, than khóc, mơ mộng, bi lụy, an bài, tư tưởng của các nhà văn rơi vào tình trạng bế tắc, những công trình giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc của giáo sư Đặng Thai Mai đặc biệt có ý nghĩa, đồng thời đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc sau suốt một thời gian dài bưng bít, quẩn quanh.
Con đường giáo sư Đặng Thai Mai đến với văn học tiến bộ Trung Quốc cũng là con đường đánh dấu sự đi lên không ngừng của một trí thức yêu nước – cách mạng. Ông đã thao thức, đã tìm kiếm và gặp Lỗ Tấn. Qua Lỗ Tấn, ông lại gặp cả một thời đại. Ông giới thiệu Lỗ Tấn, thời đại Lỗ Tấn, về sâu xa, có thể nói cũng chính là vì mục đích cách mạng. Giáo sư Đặng Thai Mai là người có công khai phá, mở đường trong việc giới thiệu văn học Trung hiện đại, cũng là người đầu tiên có tầm nhìn văn hoá - chiến lược cao trong việc xác định “Địa vị văn hoá Trung Quốc trong học thuật nước ta sau này” (Thanh Nghị đặc san, tháng 2-1945). Ông viết” “Rồi đây muốn đào tạo những nhà nghiên cứu xứng đáng về văn hoá Trung Quốc, ít nữa ta cũng cần có một học viện... Học viện đó lại cũng cần góp nhặt những kết quả các bộ môn để gây dựng hẳn một hệ thống, một khái quát cho toàn thể Trung Quốc học ở ta nữa. .. và trong đó, chữ Tàu sẽ vừa là một thứ từ ngữ có quan hệ với dĩ vãng nước mình, vừa là một thứ sinh ngữ có quan hệ ít nhiều đến đời sống, đến học thuật của ta”(Bđd). Quả là cái nhìn chiến lược của một nhà văn hoá lớn và có thể nói giáo sư Đặng Thai Mai là người đặt nền móng cho ngành Trung Quốc học ở nước ta.
3. Nhìn chung, từ khi thực dân Pháp xâm lược và làm chủ tình thế ở nước ta, quan hệ văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều chuyển biến, một mặt phá vỡ thế quan hệ truyền thống để bước ra tầm quan hệ quốc tế rộng hơn, mặt khác thực dân Pháp luôn có những chính sách, chủ trương hạn chế, hoặc cắt đứt mối quan hệ giữa nước ta với những trào lưu tiến bộ, đặc biệt là từ nước láng giềng Trung Quốc. Mất trên hai mươi năm chúng ta vô cùng lạc hậu với thời sự văn học hiện đại Trung Quốc. Đó là “khoảng trắng” vô cùng đáng tiếc.Tuy nhiên, những đóng góp của giáo sư Đặng Thai Mai trong việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc ở nước ta trước cách mạng tháng Tám là điều đáng tự hào.
Sau cách mạng tháng Tám, đặc biệt là sau hoá bình lập lại (1945), nhiều tác phẩm tiến bộ viết theo tinh thần Ngũ tứ được dịch, phổ biến rộng rãi ở nước ta, trong đó các tác phẩm của Lỗ Tấn vẫn chiếm địa vị “ưu tiên”. Điều đó cho thấy những bước mở đường của giáo sư Đặng Thai Mai trong một hoàn cảnh đen tối trước cách mạng là có ý nghĩa văn hoá - lịch sử to lớn.
CHÚ THÍCH
1. Hầu hết các nhà nghiên cứu ở nước ta đầu lấy năm 1919 – năm xảy ra phong trào Ngũ Tứ vận động ngày 4 tháng 5 làm mốc mở đầu nền văn học hiện đại Trung Quốc.
2. Theo Vũ Ngọc Phan - Hồi ức về phê bình văn học trước cách mạng tháng Tám. T/c Văn học số 9 – 1965.
3. Đặng Thai Mai - Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc, tập 1: 1919 –1927, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1958, tr. 21.
4. Đặng Thai Mai - Mối quan hệ mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc, Tập san nghiên cứu văn học số 7-1961.
5. Đặng Thai Mai - Mấy điều nhớ lại trên đường tiếp xúc với văn học Trung Hoa - Đặc san thơ văn gởi Trung Quốc – NXB Văn học, Hà Nội, 1959.
6. Trên báo Văn mới số 1 (10-10-1944) Đặng Thai Mai cũng có bài “những bước đầu tiên trong cuộc vận động tân văn hoá ở Tàu”.
7. Đặng Thai Mai tác phẩm – NXB Văn học, Hà Nội, 1978 - Lời giới thiệu (của Phan Cự Đệ), tr.14.
8. Đặng Thai Mai - Tạp văn trong văn học Trung Quốc ngày nay. NXB Mới, Hà Nội, 1945.
9. Kịch Lôi Vũ – Thanh Nghị từ số 77-1994. Kịch Nhật xuất – Thanh Nghị từ số 108 – 1945.
10. Trương Chính - Mấy ý nghĩ trong khi dịch tác phẩm văn học – T/c Những vấn đề nghiên cứu văn học số 6 –1960.
11. Vũ Đình Hoè - Hồi ký, tập I, NXB Văn hoá. 1944, tr.132.
Nguồn: tác giả