Quan hệ Việt Nam-Trung Hoa đã được xây dựng từ lâu đời. Trong lịch sử, người Việt Nam luôn có xu hướng đi về phía nam, nhưng không phải vì thế mà không có một luồng di dân từ Việt Nam sang Trung Quốc. Đầu thế kỷ XV, sau khi chiếm Đại Việt, nhà Minh đã đưa hàng ngàn thợ thủ công, nhà buôn, nhà sư và nhà nho sang các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Năm 1407, Trương Phụ đã đưa 7.700 thợ thủ công Việt Nam đến Nam Kinh1.
Người Việt Nam còn sang bên kia biên giới Trung Hoa vì những lý do khác nữa. Năm 1608 tổng đốc Lương Quảng báo cáo rằng có 700 tên cướp người Việt tràn vào châu Khâm2, và việc buôn bán phụ nữ trẻ em người Việt tồn tại ở khắp vùng biên giới Trung-Việt. Việc buôn bán trên biển của người Trung Hoa và Bồ Đào Nha cũng thu hút người Việt Nam đến các vùng ven biển Nam Trung Hoa. Thủy thủ Việt Nam cũng thường theo tàu thuyền Trung Hoa và phương Tây đến Quảng Châu và Ma Cao. Thế kỷ XVI, các cộng đồng công giáo ở châu Á đã đưa người Việt Nam đến Ma Cao.
Nhưng luồng di dân lên phía bắc chỉ phát triểndưới thời thuộc địa Pháp. Việc mở đường sắt Hà Nội-Côn Minh tiến hành từ 1903 đến 1913, đã thu hút khoảng 25.000 người Việt Nam sang Vân Nam làm việc. Sau khi đường sắt hoàn thành, số người Việt Nam còn ở lại trên tuyến đường này từ Hà Khẩu đến Côn Minh, thường xuyên có 2.000 người. Ngoài ra còn có những người đến đây làm việc trong các trường học của Pháp, các nhà thờ và hội truyền giáo, chi nhánh Ngân hàng Đông Dương, và mở hiệu ăn cũng như các nghề thủ công khác…Theo một tài liệu của Việt Nam thì năm 1930 ước tính có khoảng 10.000 người.
Ở các thành phố ven biển như: Quảng Châu, Ma Cao, Thượng Hải, không có con số thống kê cụ thể, nhưng biết rằng tại các khu nhượng địa của Pháp đều có người Việt trong binh lính đồn trú và viên chức làm việc trong các tòa lãnh sự, trường học, hội truyền giáo và các cơ sở thương mại…Tuy không có con số rõ rang nhưng ước tính vào năm 1930, có khoảng từ 1 đến 2 nghìn người Việt Nam làm đủ các nghề ở các thành phố nhỏ tại hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông.
Phong trào Đông du: sự di trú của những người cách mạng
Những người cách mạng Việt Nam chống lại chế độ thuộc địa Pháp đã tìm đến các tỉnh Nam Trung Hoa để lập căn cứ an toàn bên kia biên giới, để tiếp nhận những người mới gia nhập tổ chức và để tiếp xúc dễ dàng hơn với các tổ chức Trung Hoa, nhưng chủ yếu là để tìm nguồn đóng góp tài chính cho các hoạt động của mình. Tất nhiên họ nhằm vào sự giúp đỡ của các nhà cách mạng Trung Quốc đang nắm quyền. Khi vận động phong trào Đông du, Phan Bội Châu hướng về Nhật Bản, nhưng không bỏ qua tình hình ở Trung Quốc. Năm 1906, trước khi sang Nhật Bản theo yêu cầu của Phan Bội Châu, hoàng thân Cường Để đã đến Quảng Châu ở tại nhà một người em gái lấy chồng là nhà buôn Trung Hoa3.
Nhưng năm 1909, khi chính phủ Nhật Bản quyết định trục xuất khoảng 200 sinh viên Việt Nam, thì Phan Bội Châu phải tìm về Xiêm và các tỉnh Nam Trung Hoa. Sau cuộc cách mạng năm 1911, Phan chủ trương dồn lực lượng về Hoa Nam, vì lúc này ba tỉnh Trung Quốc giáp biên giới Việt Nam đang là căn cứ của lực lượng cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, người mà Phan đã từng gặp ở Nhật. Hoạt động của Phan Bội Châu và Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Quốc đã được nghiên cứu nhiều, nhưng cái mà ta quan tâm là những người cách mạng Việt Nam muốn bắt rễ tổ chức của mình trong những người Việt di cư tại đây và tìm cách đưa người sang học tập ở Trung Quốc. Báo cáo của Pháp năm 1913 nói rằng thanh niên trí thức Việt Nam thích sang học ở Quảng Châu hơn là Vân Nam, vì nơi này có nhiều trường trung học, đại học và học viện. Quả thật từ năm 1911, sau Cách mạng Tân Hợi, thành phố Quảng Châu tỉnh Quảng Đông đã trở thành nơi gặp gỡ của hầu hết các nhà cách mạng châu Á.
Nếu như ở Xiêm, Đặng Thúc Hứa đã đóng vai trò chủ chốt trong việc truyền bá tư tưởng yêu nước trong những cộng đồng người Việt, cụ thể là ở Udon Thani, thì ở Trung Quốc, trách nhiệm đó lại do một người Việt Nam mà ở phương Tây ít người biết đến: đó là Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng xuất sắc giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Hồ Học Lãm, trung gian giữa Trung Quốc và Việt Nam
Ông sinh năm 1884, ở làng Quỳnh Đôi, tỉnh Nghệ An, cha là Hồ Bá Trị, có tư tưởng chống Pháp nhưng chết sớm sau khi sinh ra ông. Chú của Hồ Học Lãm là Hồ Bá Ôn, tham gia khởi nghĩa Phan Đình Phùng, hy sinh năm 1883. Năm 1906, được họ hàng giúp đỡ, Hồ Học Lãm sang Nhật trong phong trào Đông du. Ông theo học Học viện quân sự Trấn Vũ ở Tokyo. Năm 1909 bị trục xuất, ông sang Trung Quốc, tìm đến Bắc Kinh. Nhờ một thư tiến dẫn gửi cho tướng Đoàn Kỳ Thụy, ông được vào Học viện quân sự Bảo Định gần Bắc Kinh. Ra trường năm 1911, ông trở thành sĩ quan trong quân đội Quốc Dân đảng Trung Hoa4.
Hồ Học Lãm hết lòng ủng hộ cách mạng Trung Hoa và tham gia các hoạt động yêu nước của người Việt ở các tỉnh Nam Trung Hoa. Ông còn là huấn luyện viên quân sự cho Quang Phục hội. Khi chiến tranh thế giới bùng nổ, ông muốn về nước hoạt động, nhưng Phan Bội Châu giữ ông lại vì biết ông có vị trí quan trọng trong quân đội Trung Hoa. Vào những năm 20, Hồ Học Lãm được đề bạt trung tá và làm việc ở Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân đội QDĐ. Nhờ có quan hệ tốt nên ông rất có uy tín ở cơ quan này, thỉnh thoảng ông còn tham gia dạy trường Hoàng Phố. Theo các nguồn tài liệu Việt Nam thì Hồ Học Lãm đã cùng học ở Học viện Trấn Vũ ở Tokyo và Học viện Bảo Định ở Bắc Kinh cùng với Tưởng Giới Thạch. Ông cũng đã giúp Tưởng nhiều trong thời kỳ chiến tranh Bắc phạt. Ngoài ra ông còn là bạn của Hồ Hán Dân, tỉnh trưởng Quảng Đông.
Hồ Học Lãm còn có nhiều quan hệ với những người cách mạng ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Là chú của Hồ Tùng Mậu (1896-1948), cộng tác viên gần gũi của Hồ Chí Minh. Vợ ông, Ngô Khôn Duy (1893-1980), là con gái của Ngô Quảng, một chiến sĩ của Phan Đình Phùng, đã lánh sang Xiêm sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tại đây Ngô Khôn Duy theo học các lớp yêu nước của Đặng Thúc Hứa, rồi được đưa sang Trung Quốc. Bà đã gặp và kết hôn với Hồ Học Lãm được Phan Bội Châu tác thành. Nguyễn Trí Đức (tức Lý Phương Đức – biên tập chú), một nữ chiến sĩ ở Xiêm cũng gặp Lê Hồng Sơn qua việc đi lại nhà Hồ Học Lãm. Lê Thiết Hùng, cháu họ Lê Hồng Phong, sau này cũng trở thành con rể Hồ Học Lãm.
Nói tóm lại, những người cách mạng thường có quan hệ gia đình với nhau. Sau Chiến tranh thế giới, Hồ Học Lãm tiếp tục hoạt động bí mật và có hiệu quả trong công việc kế thừa phong trào Đông du. Ông tiếp nhận những người do Đặng Thúc Hứa từ Xiêm gửi sang để đưa vào các trường quân sự ở Quảng Châu, Nam Kinh và Hàng Châu. Ông giúp tìm việc làm và nơi ở của họ, ông còn dạy Hồ Tùng Mậu học tiếng Trung Hoa và giới thiệu với Phan Bội Châu. Giữa năm 1924, Hồ Học Lãm cử Hồ Tùng Mậu về Nghệ An tuyển thanh niên đưa ra nước ngoài. Ta có thể đặt giả thuyết rằng việc tuyển chọn này thường dựa vào mối quan hệ gia đình do Hồ Học Lãm và Đặng Thúc Hứa quyết định5.
Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cách mạng Việt Nam ở miền Nam Trung Hoa dựa chủ yếu vào những người như Hồ Học Lãm và những người có quan hệ với ông kể cả ở trong và ngoài nước. Vị trí của họ trong chính quyền Trung Hoa và mối quan hệ họ hàng với nhau đã khiến họ trở thành những người trung gian tuyệt vời: họ là người tiếp xúc văn hóa-xã hội không thể thiếu ở bên ngoài đất nước. Họ quyên tiền, tạo mối quan hệ với ĐCS và QDĐ Trung Hoa và Việt Nam. Họ là mắt xích sống của màng lưới cách mạng. Louis Marty, trùm mật thám Đông dương đã đánh giá vai trò của Hồ Học Lãm khi đến thăm miền Nam Trung Hoa năm 1932: “Tôi quan tâm đến việc theo dõi không bao giờ lơi lỏng đối với những con người đó, qua y (Hồ Học Lãm) mà ta tìm được những người cách mạng đang hoạt động, vì y là trung tâm thu hút và thường xuyên che chở cho họ”6. Cho đến khi qua đời, năm 1942, nhà của Hồ Học Lãm là “ Bộ chỉ huy không chính thức”của các nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc cũng như của tất cả những người đến từ phương Tây và Nam Dương7.
Khi Hồ Chí Minh đến Quảng Châu cuối năm 1924, ông cũng nắm ngay tầm quan trọng của mối quan hệ Trung-Việt về chính trị và họ hàng để thành lập VNTNCMĐCH. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh dựa vào Hồ Tùng Mậu, cháu của Hồ Học Lãm, và vào Lê Hồng Sơn, một người gần gũi với hoàng thân Cường Để và Hồ Học Lãm. Còn với Hồ Học Lãm, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy đây là con người lý tưởng để nắm tình hình QDĐ Trung Hoa. Thật vậy, năm 1927, khi quan hệ giữa QDĐ và ĐCS Trung Hoa đang xấu đi, Hồ Chí Minh đã yêu cầu Lê Thiết Hùng, một người gần gũi với Hồ Học Lãm, tham gia quân đội QDĐ để thông tin cho ĐCSTH về tình hình đối phương, trong trường hợp Hồ Học Lãm không nắm được hết. Nhờ Hồ Học Lãm mà từ mùa hè đến mùa thu 1930, Hồng quân Trung Hoa đã “thường xuyên nhận được” tin tức “bí mật” về kế hoạch của Tưởng đối với ĐCSTQ, có lẽ là nói đến những cuộc càn quét vào khu Xô viết ở Giang Tây. Chính Hồ Học Lãm đã thông báo cho Hồng quân biết những cuộc tấn công lớn của QDĐ cuối năm 1933 đầu năm 1934 vào khu căn cứ.
Hồ Học Lãm là một trường hợp cụ thể về mối quan hệ liên kết cách mạng Việt Nam trong bối cảnh Nam Trung Hoa. Và đây không phải là trường hợp duy nhất.
Trường Quân chính Hoàng Phố và cách mạng Việt Nam
Việc có khoảng 100 thanh niên Việt Nam theo học ở Trường Quân chính Hoàng Phố phản ánh sự hấp dẫn của Trung Hoa đối với Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Miền Nam Trung Hoa là nơi chủ nghĩa cộng sản du nhập vào Trung Quốc, Đảng Cộng sản đã thành lập ở Thượng Hải năm 1921. Hồi đó các đại diện của Xô viết hợp tác với ĐCS và QDĐ ở Nam Trung Hoa, cách mạng Nga thu hút cả những người dân tộc và cộng sản Trung Hoa.Nếu Hồ Chí Minh làm công việc phiên dịch cho Borodin khi mới đến Quảng Châu, thì ông không phải là người duy nhất coi Quảng Châu như một bàn đạp cách mạng. Nhiều người cộng sản Trung Hoa được đào tạo ở Pháp đã trở về Quảng Châu và Thượng Hải để tăng cường cho ĐCSTH như Lý Lập Tam, Chu Ân Lai, Trần Diên Niên… Lý Lập Tam trở thành Tổng Bí thư ĐCSTH ở Thượng Hải năm 1928. Là người tổ chức tiểu tổ CSTH đầu tiên ở Pháp, Trần Diên Niên lãnh đạo tổ chức CS ở Quảng Đông và Quảng Tây. Còn Chu Ân Lai phụ trách về quân sự ở hai tỉnh này. Hồ Chí Minh đã gặp Chu Ân Lai ở Pháp và có lẽ còn gặp nhiều nhà lãnh đạo Trung Hoa khác ở Matxcơva năm 1923-19249.
Nếu Paris và Matxcơva là hai cực thu hút hấp dẫn nhất đối với cả một thế hệ trí thức Việt Nam, thì Quảng Châu cũng là một hình ảnh trong tâm trí của người Việt. Những đổi thay chính trị đầu thế kỷ XX làm rung chuyển nước “Trung Hoa mới” đã được người Việt Nam theo dõi kỹ. Quảng Châu trở thành trường huấn luyện cách mạng cho nhiều thanh niên Việt Nam, nơi họ có thể đến một cách bí mật bằng thuyền.
Sự hợp tác giữa QDĐ, ĐCS và Xô viết đã giúp cho Hồ Chí Minh tổ chức đào tạo một thế hệ người Việt ở châu Á. Nếu phong trào Đông Du nhằm vào Nhật Bản, thì Hồ Chí Minh lại muốn khai thác tình hình thuận lợi ở Quảng Châu để đẩy nhanh quá trình di cư sang miền Nam Trung Hoa. Đầu tiên là làm quen trong tổ chức Thanh Niên, sau đấy gửi đến trường Hoàng Phố, và với những người ưu tú nhất, thì gửi sang Liên Xô, một hành trình cách mạng lý tưởng. Tháng 6-1926, dựa vào những quan hệ họ hàng của Hồ Học Lãm và Đặng Thúc Hứa ở Trung bộ và ở Thái Lan. Hồ Chí Minh cử Hồ Tùng Mậu đi Xiêm và Nghệ Tĩnh để tuyển người cho Thanh Niên. Giữa năm 1925 và 1927, vào lúc các cuộc bãi khóa làm chấn động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã mở nhiều lớp huấn luyện trong tổ chức Thanh Niên ở Quảng Châu, những người Việt Nam đầu tiên theo chủ nghĩa cộng sản. Những người học trò Việt Nam trẻ tuổi đó đã được nghe những người cộng sản Trung Hoa do Hồ Chí Minh mời đến giảng, như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Lý Phú Xuân, Trần Diên Niên và Bành Bái10….
Đối với người Việt Nam, nơi gặp gỡ Trung-Việt về huấn luyện cách mạng vẫn là Trường Quân chính Hoàng Phố. Thành lập năm 1924, trường này do QDĐ và ĐCS Trung Hoa cùng quản lý, dựa trên mô hình Xô viết do Lev Trotski tổ chức mấy năm trước. Trường này có mục tiêu huấn luyện về quân sự và chính trị để đào tạo một đội ngũ sĩ quan và cán bộ chính trị cho quân đội mới và chính phủ Trung Quốc. Do tình hình cán bộ rất thiếu nên điều kiện nhập học dễ dàng. Đôi khi chỉ cần biết đọc, biết viết và nói tiếng Trung Hoa là có thể được chấp nhận. Các lớp học thường kéo dài 6 tháng, sau đấy phải phục vụ 3 năm trong quân đội QDĐ. Nhưng việc huấn luyện cũng rất tùy tiện, vì hoàn cảnh nội chiến và những mâu thuẫn giữa sự hợp tác giữa ĐCS và QDĐ11.
Dù sao Hồ Chí Minh cũng tìm cách đưa được học sinh của mình vào trường. Được vào trường Hoàng Phố là sẽ được nhà trường bảo đảm nuôi ăn. Vả lại trường còn đào tạo cho học sinh một hiểu biết cơ bản về tinh thần chống chủnghĩa thực dân và tư tưởng dân tộc. Và quan trọng hơn trong ý nghĩa lâu dài là cung cấp những hiểu biết quân sự. Chớ quên rằng một thứ huấn luyện chính trị-quân như vậy hoàn toàn bị cấm trong nền giáo dục thuộc địa ở Đông Dương. Theo một tài liệu gần đây thì từ 1925 đến 1927 có khoảng 300 học sinh Việt Nam ở Quảng Châu, trong đó có một số lớn học tiếng Trung Hoa12. Chu Ân Lai dạy trường Hoàng Phố thời đó đã giúp Hồ Chí Minh đưa học sinh Việt Nam biết tiếng Trung Hoa vào trường.
Có thể kể ra ở đây một số người nổi tiếng nhất. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn, cả hai nói thạo tiếng Trung Hoa, cùng học tại trường. Ra trường, Lê Hồng Sơn công tác một thời gian ngắn trong Bộ tham mưu của tướng Trương Phát Khuê13. Lê Hồng Phong tốt nghiệp năm 1925, còn là cựu học sinh trường không quân Quảng Châu, những người CSTH còn thu xếp để đưa ông sang học trường không quân ở Nga. Trương Văn Lệnh (Trương Vân Lĩnh – biên tập chú) tốt nghiệp năm 1926, sau đó chỉ huy một đơn vị trong quân đội QDĐ rồi thăng thiếu tá phụ trách thanh tra huấn luyện tại Trường Hoàng Phố. Đấy là những người Việt Nam đầu tiên theo chủ nghĩa cộng sản và là những người sáng lập ĐCSVN năm 1930.
Còn có thể kể đến những người tốt nghiệp Trường Hoàng Phố sau này trở thành những người lãnh đạo chính trị và chỉ huy quân sự: Lê Thiết Hùng (Lê Quốc Vọng), Nguyễn Sơn (Vũ Nguyên Bắc), Vũ Hồng Anh (tức Lê Hồng Sơn – biên tập chú), Phùng Chí Kiên, Lê Quốc Long, và có thể là Hoàng Văn Hoan, Hoàng Sâm. Nhiều người Việt Nam khác được gửi đến Trường Quân chính Nam Ninh14. Tháng 5-1928, một nhân viên của Pháp báo cáo rằng có 5 người Việt Nam theo học Trường Quân sự cao cấp ở Nam Kinh và 2 người ở Trường Đại học Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu, trong đó có Lê Thiết Hùng… Cuối cùng là Vương Thừa Vũ được đào tạo ở Trường Quân chính Vân Nam năm 1933.
Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là các phong trào Việt Nam và Trung Hoa ở châu Á thường theo đuổi cả trên lĩnh vực chính trị và quân sư ở miền Hoa Nam. Mối quan hệ Trung-Việt không phải chỉ dừng lại ở mặt chính trị. Sau này nhiều tướng lĩnh lãnh đạo quân đội Việt Nam sau khi giành được độc lập, là những sĩ quan đã từng được đào tạo ở Trung Quốc. Rõ ràng mặc dầu có cuộc đô hộ của Pháp, ảnh hưởng của Trung Hoa vẫn tồn tại lâu dài trên lĩnh vực quân sự tại Việt Nam.
Đảng cộng sản Trung Quốc và những người cộng sản Việt Nam trước chiến tranh
Trên lĩnh vực chính trị cũng vậy. Vận mệnh của cách mạng Trung Quốc và Việt Nam được ràng buộc chặt chẽ qua Công xã Quảng Châu tháng 12-1927. Trong đó có khoảng 20 người Việt Nam tham gia như: Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn, Lê Hồng Sơn, Phùng Chí Kiên, Lê Hồng Phong, Trương Văn Lệnh, Lý Tự Trọng, Hồ Tùng Mậu và Vũ Hồng Anh. Hồ Tùng Mậu và Vũ Hồng Anh trực tiếp lãnh đạo công nhân Trung Hoa chống QDĐ. Sau khi những người cộng sản phải rút lui, nhiều người Việt Nam như Phùng Chí Kiên còn trực tiếp đấu tranh cạnh những người Trung Hoa để xây dựng các căn cứ cộng sản ở Giang Tây. Phùng Chí Kiên trở thành người chỉ huy đại đội trong Hồng quân Trung Hoa. Tất nhiên chủ nghĩa quốc tế và nền thực dân phương Tây đã khiến những người cộng sản Trung Hoa và Việt Nam lại liên kết với nhau. Đường lối của QTCS cũng khuyến khích một sự hợp tác như vậy. Có những người Việt Nam tin tưởng ở cách mạng Trung Quốc như là của chính mình. Chớ quên rằng trong những người cộng sản Trung-Việt, nhiều người đã cùng học trong các trường ở Nam Trung Hoa, những người lãnh đạo đã biết nhau ở Pháp hay ở Matxcơva, và cuối cùng ngày càng có nhiều người nói thạo tiếng Trung Hoa. Tất cả đều tạo thuận lợi cho một sự hợp tác ngày càng chặt chẽ.
Những mối ràng buộc đó giúp cho chúng ta hiểu tại sao vào cuối những năm 1920 lại có khoảng 10 người Việt Nam trong ĐCSTH (trước khi thành lập ĐCSĐD). Hồ Chí Minh đã đưa Hồ Tùng Mậu đến với ĐCSTH tháng 3-1926, sau đấy trở thành đảng viên chính thức của ĐCSTH. Năm 1931 Hồ Tùng Mậu tham gia thị ủy ĐCSTH ở Hồng Kông và bảo đảm mối liên lạc giữa những người cộng sản Việt Nam và Trung Hoa, đang trở nên khó khăn sau vụ đàn áp của đế quốc, của QDĐ năm 1930-1931 và tiếp đến năm 1934. Nhưng không phải chỉ có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn cũng vậy. Lê Thiết Hùng cũng tham gia ĐCSTH, cũng như Trương Văn Lệnh, Trương Phước Đạt, Lê Hồng Phong. Trong bối cảnh địa phương đó, chúng ta sẽ không thấy khó hiểu khi biết tại sao Hồ Chí Minh lại nói với Lê Thiết Hùng xem thử ông bố vợ Hồ Học Lãm có thể cung cấp tin tức về QDĐ cho ĐCSTH không. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi đảng Việt Nam chưa ra đời, thì Hồ Chí Minh đã dựa vào cấu trúc của Trung Hoa (và của Xô viết) để xây dựng đảng của mình (cũng giống như những người cộng sản Lào, Khmer, Thái Lan sau này cũng dựa vào cấu trúc của ĐCSĐD để xây dựng đảng riêng).
Nếu như Hồ Học Lãm trở thành nhân vật cao cấp của QDĐ, thì tướng Nguyễn Sơn lại là hình ảnh rõ nhất của khả năng người Việt Nam tham gia hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSTH. Nhờ sự giới thiệu của Hồ Chí Minh ông trở thành đảng viên ĐCSTH năm 1927, rời bỏ QDĐ mà ông đã tham gia năm 1925. Ông tham gia Quảng Châu công xã năm 1927 rồi rút vào khu Xô viết. Năm 1931 dưới tên Hồng Thủy ông tham gia bảo vệ khu du kích Đông Giang do Bành Bái chỉ đạo. Chuyển sang Phúc Kiến, ông trở thành sĩ quan chính trị trong sư đoàn 34, binh đoàn 12, rồi huấn luyện viên quân sự của Hồng quân. Ông từng tham gia Vạn Lý trường chinh, tham gia chiến tranh kháng Nhật, rồi trở về Việt Nam năm 1945.
Trong khi đó thì nhiều người Việt Nam khác vẫn ở lại các tỉnh miền Nam. Sự tiếp xúc Trung-Việt đó rất cần thiết khi ĐCSĐD bị khủng bố những năm 1930-1931. Từ năm 1931 đến 1932, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và nhiều người khác tìm cách liên lạc với ĐCSTH để nối lại liên hệ với QTCS. Năm 1934 Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên lập “Ban lãnh đạo hải ngoại” ở Macao, rồi sau chuyển về Hồng Kông. Tuy không thường xuyên và rất khó khăn, nhưng những đảng viên của ĐCSTH tại địa phương vẫn giữ cho mối liên hệ sống còn giữa “Ban lãnh đạo hải ngoại” với Việt Nam trong những năm đen tối. Một đảng viên cộng sản Trung Quốc Lý Chí Kiên (năm 1949 được biết dưới tên Trần Phương, hay Trần Báo?)[tức Ngô Chính Học – biên tâp chú]đã giữ liên lạc với Vũ Anh cho đến năm 1938. Năm 1937 khi quân Nhật tràn xuống Quảng Đông, Quảng Tây, những người cộng sản Việt Nam phải lui sang Vân Nam, nơi có nhiều người Việt sinh sống và lợi dụng được sự “liên minh mới” giữa QDĐ và ĐCSTH. Sau khi Thượng Hải và Quảng Châu rơi vào tay quân Nhật, liên lạc Trung-Việt phải chuyển sang Côn Minh và Trùng Khánh, nơi có phái đoàn đại diện của ĐCSTH. Năm 1938 Lê Hồng Phong và Phùng Chí Kiên được giao nhiệm vụ gặp BCHTW ĐCSTH để nối lại liên hệ với QTCS. Một năm sau, Phùng Chí Kiên lập lại “Ban lãnh đạo hải ngoại” ở Côn Minh, cùng với Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh, những “người cũ” của Quảng Châu.
Chính qua liên lạc với ĐCSTH mà những người cộng sản Việt Nam gặp lại Hồ Chí Minh cuối những năm 30. Từ cuối năm 1939, BCHTW ĐCSĐD đã chính thức đề nghị ĐCSTH giúp việc này? Khoảng tháng 2-1940, Hồ Chí Minh đến Côn Minh và tiếp xúc ngay với Phùng Chí Kiên, rồi Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh qua sự sắp xếp của ĐCSTH.
Hãy xem lại mối liên hệ giữa những người di trú với cách mạng: ngay sau khi đến Vân Nam, Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải dựa vào những người Việt Nam sống từ Lào Cai đến Côn Minh để lập những căn cứ vững chắc, không những ở Nam Trung Hoa mà còn phát triển về Việt Nam. Lúc đó Hồ Học Lãm đang ở trong Bộ Tư lệnh của tướng Trương Phát Khuê ở Quảng Tây để giúp đỡ từ bên trong và liên hệ với cộng đồng người Việt Nam (cho đến khi ông qua đời năm 1942). Giống như những năm trước, nhờ có sự liên minh tạm thời giữa QDĐ và ĐCS chống Nhật, mà đầu năm 1942 khoảng 702 người Việt Nam đã được vào học các trường quân sự ở Đệ tứ chiến khu của tướng Trương Phát Khuê16
Còn về mối quan hệ với ĐCSTH từ 1940 đến 1945 thì tài liệu hiện có rất ít. Theo các nhân chứng Việt Nam thì năm 1940 Hồ Chí Minh đến Trùng Khánh để thảo luận về tình hình cách mạng với BCHTW ĐCSTH17. Hai năm sau ông bị QDĐ bắt khi đi tìm Chu Ân Lai. Như vậy hồi đó ĐCSTH vẫn là trung gian liên lạc giữa ĐCSĐD với thế giới cộng sản hay được coi như là cố vấn do QTCS chỉ định để xem xét các vấn đề Việt Nam. Ta biết từ 1942 đến 1945 ở Diên An có một đại diện QTCS là Vladimorov.
Về Chu Ân Lai, sự xuất hiện nhiều lần của ông này cho ta đặt câu hỏi có phải đấy là nhân vật tiếp xúc quan trọng nhất của Hồ Chí Minh đối với ĐCSTH hay không. Dù sao hai người đã biết nhau từ Paris và Quảng Châu. Sau này Chu Ân Lai nói về Hồ Chí Minh như sau: “Đồng chí ấy đối với tôi như một người thầy…một người anh ( )”18. Ngay cả về sau, đầu năm 1948, chính Chu Ân Lai đã cử đại diện riêng đến gặp Hồ Chí Minh và ĐCSĐD. Hình như Chu có một mối quan hệ đặc biệt với các đồng chí Việt Nam.
Lướt qua những sự kiện trên, chúng tôi muốn nói đến tầm quan trọng của miền Nam Trung Hoa đối với cách mạng Việt Nam. Khi nói đến mối quan hệ hiện tại, chúng ta cần phải xem xét các mối quan hệ trước, nhấn mạnh đến vai trò địa lý, người di cư, và mối ràng buộc họ hàng để thấy rõ bối cảnh Nam Trung Hoa đối với cách mạng Việt Nam…và cả triển vọng phát triển của nó. Sự ràng buộc Trung-Việt đó cho thấy rằng chế độ thuộc địa không “cắt đứt” hay “xóa bỏ”sự tiếp xúc giữa Trung Hoa và Việt Nam, cho đến khi Việt Nam được giải phóng.
Điều khiến chúng ta lưu ý là sự thiếu vắng hầu như hoàn toàn của những người cộng sản Khmer và Lào, thậm chí cả Thái Lan và Miến Điện ở Nam Trung Hoa và ở các trường học cách mạng. Nếu các nhà sử học chính thống Việt Nam đang nhấn mạnh đến mối quan hệ “lâu dài” với những người cộng sản Lào và Campuchia trong khung cảnh “cuộc cách mạng Đông Dương” thì đấy chỉ là một hiện tượng mới. Giữa hai cuộc chiến tranh, những người cộng sản Việt Nam có ít nhiều quan hệ với những người cộng sản Trung Hoa hơn là những người cách mạng của các nước theo Phật giáo Tiểu thừa bên kia Trường Sơn19. Điều đó còn đáng lưu ý khi ta thấy rằng sự truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á lục địa chủ yếu là sự nghiệp cua những người Trung Hoa và Việt Nam, thông qua những cộng đồng người Việt (Việt kiều) và người Hoa (Hoa kiều) sống rải rác khắp bán đảo Đông Dương, chứ không phải thông qua “quần chúng” người bản xứ.
---------------------
1. Zhang Xiuman, Minh đại Giao chí nhân tại Trung Quốc nội địa chí cống hiến, Minh đại Giáo chí nhân nhân di cư Trung Quốc nội địa khảo
2. Minh chí lược.
3. “Báo cáo của Sogny, Huế 20-11-1923, p.l.c.359. Lưu trữ Hải ngoại Pháp (CAOM). Aix-en-Provence.
4. Hoàng Thanh Đạm, Phan Hữu Thịnh, Đời nối đời vì nước, Nxb Nghệ An, 1996.
5. Hồ Khải Đại, “Hồ Học Lãm và di tác quân sự”, Xưa và nay, tháng 3, 1998.
6. Nguồn tài liệu Pháp cũng xác định vào giữa tháng 7-1924 có khoảng 170 người rời khỏi huyện Nam Đàn (hồ sơ CAOM). Rất thú vị nếu xác minh được lý lịch những người đó (nhất là sau vụ bãi khóa năm 1926), để xác định thêm thành phần những người tham gia Thanh niên có quan hệ bên họ hàng từ bên ngoài với bên trong nước như thế nào.
7. Phái đoàn Marty ở Hồng Kông, Quảng Châu, Thượng Hải, tháng 7-1932, CAOM.
8. Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, Nxb Tin Việt Nam, Bắc Kinh, 1986.
9.Hàn Tú Anh, Le siècle de Zhou Enlai: le mandarin révolutionnaire(Thế kỷ Chu Ân Lai: ông quan làm cách mạng), Ed.Stock, Paris, 1993.
10. Thanh Đạm, “Các nhà cách mạng Việt Nam tham gia khởi nghĩa Quảng Châu”, Nghiên cứu lịch sử, soos, 1990.
11. Richard B.Landis, “Training and indoctrination at the Wampoa academy” (Huấn luyện quân sự và chính trị ở Trường Quân chính Hoàng Phố), trong China in the 1920s: Nationalism and Revolution, New York, 1976.
12. Nguồn tư liệu Trung Quốc do Thanh Đạm dẫn trong “Các nhà cách mạng Việt Nam..”
13. “Trích biên bản ngày 7-4 giữa Pinto và N: Phái bộ Noel”, 7-5-1926, CAOM.
14. “Lời khai của Hoàng Đình Giong với Giám đốc Mật thám”, CAOM.
15. Lê Tùng Sơn, Nhật ký một chặng đường
16. David G.Marr, Việt Nam 1945: cuộc đấu tranh giành quyền lực, Berkeley, 1995.
17. Lê Tùng Sơn, “Bác Hồ ở Trung Quốc”, Nghiên cứu lịch sử, số 3, 1977.
18. Hàn Tú Anh, sđd.
19. Trong thời kỳ thuộc địa có hàng trăm sư sãi Lào và Campuchia thích vượt biên giới phía tây Đông Dương để đến Thái Lan, theo học giáo lý nhà Phật ở các trường tỉnh và các học viên cao cấp Phật giáo Tiểu thừa ở Băng Cốc. Đấy là sự hấp dẫn địa-văn hóa của Thái Lan đối với Đông Dương theo Phật giáo Tiểu thừa dưới thời thuộc địa, trong khi người Pháp vẫn mở các trường Phật giáo ở Lào và Campuchia.