Đầu năm 1960, chuyến tàu đầu tiên chở theo 5 tấn súng đạn, 500 kg vải, 400 kg nilon và một số lượng lớn thuốc men chữa bệnh đã được xuất phát hướng về bến Hố Chuối (Quảng Nam) để giao hàng.
Tuy nhiên, con tàu này đã không tới đích đúng như mong đợi. Tàu đã bị địch phát hiện và bắt giữ ngay khi vừa tiếp cận vùng biển Quảng Nam.
Sự thất bại của chuyến đi đầu tiên (có thể nói đó cũng là chuyến đi thăm dò, thử nghiệm) đã đặt ra nhiều vấn đề để Trung ương rút ra kinh nghiệm: Muốn thành công phải có sự chuẩn bị, tính toán tỉ mỉ khoa học từ việc chinh sát, thăm dò kỹ lưỡng, nắm vững hoạt động trên biển của đối phương cho đến việc chọn tuyến đi và các địa điểm giao hàng bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ; trang thiết bị vận tải phải thích hợp và trên tất cả là phải có đội ngũ thủy thủ đoàn bao gồm các chiến sĩ giàu bản lĩnh, vừa dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, tuyệt đối trung thành như một cảm tử quân, vừa giàu kinh nghiệm đi biển, hiểu và đặc biệt thông thạo địa hình.
Đầu năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định triệu tập những chiến sĩ ưu tú vốn xuất thân từ các vùng ven biển miền Nam đưa thuyền ra Bắc để bàn định kế hoạch vận chuyển hàng hóa, vũ khí bằng đường biển. Bức điện mật gửi từ Trung ương cho các tỉnh ven biển miền Nam có nội dung ghi rõ: “Gửi Trung ương Cục và tất cả các tỉnh ven biển miền Nam, các tỉnh tổ chức bí mật cho thuyền vượt biển ra Bắc báo cáo tình hình bến bãi, tình hình địch bố phòng và tuần tiểu trên mặt biển. Rồi trực tiếp dẫn tàu vào…” (1).
Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương, các tỉnh Nam bộ đã gấp rút lựa chọn những người giàu kinh nghiệm đi biển nhất của địa phương mình và lên kế hoạch kỹ càng để đưa tàu vượt biển ra Bắc: Bến Tre có hai con tàu, một tàu do thuyền trưởng Đặng Bá Tiên chỉ huy và con tàu khác do Lê Công Cẩn chỉ huy; Cà Mau có một tàu do Bông Văn Dĩa chỉ huy; Trà Vinh có tàu do thuyền trưởng Nguyễn Thanh Lồng và Nguyễn Văn In chỉ huy; Bà Rịa có tàu do thuyền trưởng Nguyễn Văn Phe chỉ huy. Tất cả các đoàn thủy thủ từ Nam ra đều được các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội bí mật tiếp đón. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Lê Duẩn, các tướng lĩnh Quân đội như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Văn Trà đã nhiều lần gặp gỡ các thủy thủ để nắm bắt tình hình làm cơ sở hoạch định kế hoạch tác chiến.
Cuộc hội ngộ của những “con cá kình” vùng sông nước Nam bộ trên đất Bắc co một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại của những chuyến tàu chở hàng vào Nam. Thông qua những chuyến vượt biển táo bạo, đặc biệt thông qua việc trao đổi với đội ngũ trực tiếp chỉ huy các con tàu “Bắc tiến” - những người con ưu tú đầy bản lĩnh và dày dạn kinh nghiệm sông nước, mà Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương mới có thể hiểu rõ thêm tình hình các địa phương ven biển miền Nam, nắm chắc được kỹ lưỡng hơn cách bố phòng trên mặt biển của đối phương để lên kế hoạch, đề ra phương án tác chiến hợp lý, sát hợp tình hình.
Ngày 11 tháng 10 năm 1962, với hơn 30 tấn vũ khí, con tàu mang tên “Phương Đông 1” do Bông Văn Dĩa làm chính trị viên, Lê Văn Một làm thuyền trưởng cùng 10 thủy thủ đã vinh dự được chọn là con tàu mở đường, bắt đầu một chiến dịch lớn chi viện cho chiến trường miền Nam. 23 giờ đêm ngày 11 tháng 10, tàu được lệnh rời bến Đồ Sơn hướng vào vùng biển phía Nam, mang theo biết bao niềm tin và hy vọng.
Ngày 16 tháng 10 năm 1962, tàu “Phương Đông 1” đã cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn tuyệt đối. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa vô cùng quan trọng - thắng lợi giải tỏa những lo lắng đang trĩu nặng trong lòng những người trực tiếp chỉ huy kế hoạch, đồng thời mở ra một thời kỳ vận chuyển thành công của hàng trăm con tàu không số trên con đường biển huyền thoại. Về sự kiện này, trong hồi ức của Tướng Đồng Văn Cống, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, kiêm Trưởng phòng B thuộc Quân ủy Trung ương, lúc đó là người được giao theo dõi hành trình của con tàu, đã kể:
“Người đi rất lo lắng. Người ở lại còn lo lắng hơn. Nhưng sáng nào cứ đến giờ giao ban thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng hỏi thế nào rồi? Mới đi 1 ngày, đến ngày thứ 2 ông đã hỏi. Ngày thứ 3, thứ 4, thứ 5, sáng nào ông cũng hỏi. Tôi sốt ruột nhưng chỉ biết lắc đầu. Sau đó cả những ngày thứ 6, thứ 7, thứ 8 cũng không có tin tức gì. Tôi là người trực tiếp theo dõi hàng ngày, càng bồn chồn lo lắng. Điện đánh đi không có trả lời. Không biết họ sống hay chết? Mãi sáng ngày 19 - 10 - 1962, tức 9 ngày sau, mới có tin tức. Sáng hôm đó, Quân ủy Trung ương đang họp giao ban ở nhà khách 28 Cửa Đông. Tôi bước vào, Đại tướng ngẩng đầu lên nhìn tôi đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi tỉnh. Đại tướng đứng dậy ôm chàm lấy tôi. Ông khóc. Đại tướng liền cho tạm nghỉ cuộc họp, kéo tôi qua phòng bên để nghe rõ tình tiết. Tôi đưa bức điện của Bí thư khu IX, tức anh Phạm Thới Bường:
“Tàu Lê Văn Một, Bông Văn Dĩa đã về tới nơi!
An toàn, đầy đủ!
Các đồng chí trên tàu đều khỏe mạnh”.
Một tay vuốt ngực, một tay vỗ vai tôi. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Thôi anh nghỉ họp để ngày mai ăn mừng thắng lợi đầu tiên…” (2).
Thành công của con tàu “Phương Đông 1” đã chính thức khai mở tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển gắn với những chiến công huyền thoại của lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam.
Cuộc đấu trí của lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam với lực lượng hải quân Mỹ và hải quân Việt Nam Cộng hòa
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vận tải trên biển có những đặc thù khác biệt và khó khăn hơn rất nhiều so với việc vận tải trên tuyến đường bộ Trường Sơn: điều kiện thời tiết khắc nghiệt (mưa, bão thất thường, khu vực biển Đông cũng được coi là một trong những rốn bão lớn nhất thế giới), địa bàn biển Đông vô cùng phức tạp (vừa trống trải, vừa nhiều bãi ngầm, bãi cạn, chế độ thủy văn không ổn định), hơn nữa hệ thống bố phòng trên biển của đối phương rất mạnh. Thực tế cho thấy, nếu ở trên bộ, để ngăn chặn con đường tiếp viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam, người Mỹ đã dựng lên Hàng rào điện tử Mc Namara được coi là “siêu đẳng” và tuyên bố “đến một con muỗi cũng khó vượt qua”, thì trên biển, các chuyên gia quân sự Mỹ “sành sỏi” cũng đã khổ công xây dựng một “tuyến bố phòng biển” dày đặc và cực kỳ hiện đại. Theo nhiều tài liệu quân sự của Mỹ, 40% lực lượng của Hạm đội 7 (hạm đội thường trực của quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương) được huy động vào chiến trường để cùng với lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện phong tỏa đường biển hòng cắt đứt đường dây chi viện của Bắc Việt vào chiến trường phía Nam. Hệ thống bố phòng của Hải quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, được thiết lập theo thế liên hoàn bờ - biển - đảo. Ở tuyến bờ, ngoài hệ thống đồn bốt tập trung dày đặc, còn có các lực lượng hải quân đặc nhiệm mang số hiệu 115, 116, 117 làm nhiệm vụ chuyên trách tuần duyên tuyến duyên hải suốt hải phận miền Nam. Ở tuyến xa bờ, người Mỹ huy động hơn 30 hàng không mẫu hạm với hàng trăm máy bay, tàu chiến các loại, được trang bị vũ khí hiện đại, đóng rải rác trên khắp vùng biển để sẵn sàng tác chiến chống lại sự xâm nhập của các tàu đối phương và hỗ trợ tác chiến cho lực lượng khác ở trên bộ khi cần thiết. Tàu chiến và các máy bay tuần duyên của Mỹ luôn quần thảo, giám sát suốt ngày đêm dọc vùng biển Việt Nam. Đặc biệt, sau sự kiện “Vũng Rô” (tàu chở vũ khí của ta bị địch phát hiện tại bến Vũng Rô ngày 16 - 2 - 1965) Mỹ đã quyết định mở chiến dịch Market Time, tăng cường tuần tra, theo dõi 24/24 giờ trên mọi ngả từ ven bờ đến ngoài khơi. Lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa được lệnh tuần tiễu, giám sát chặt khu vực từ bờ ra đến 12 hải lý; Hải quân Mỹ thuộc hạm đội 7 ngăn chặn khu vực biển từ 12 đến 40 hải lý… Với lực lượng hùng hậu và cách thức giám sát chặt chẽ, gắt gao như vậy. Tướng Westmoreland (Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Việt Nam những năm 1964 - 1968), cũng như phó Đô đốc Hạm đội 7, tướng P. Paul và nhiều chuyên gia quân sự Mỹ “sành sỏi” khác tin tưởng rằng, sẽ không thể nào có bất cứ một con tàu nào của Bắc cộng có thể xâm nhập vào miền Nam.
Đặt trong bối cảnh lực lượng, trang thiết bị thời bấy giờ của Hải quân Nhân dân Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất bợi trong tác chiến (nhất là trong tác chiến xa bờ), vấn đề vận chuyển hàng hóa bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam là cả một thách thức lớn - một bài toán hóc búa không dễ tìm ra lời giải.
Thực tế, trên con đường Hồ Chí Minh trên biển, đã có một cuộc đấu trí, đấu lực vô cùng căng thẳng, quyết liệt giữ các lực lượng hải quân Nhân dân Việt Nam với lực lượng Hải quân Mỹ và hải quân Việt Nam Cộng hòa dưới sự chỉ dắt của rất nhiều chuyên gia quân sự Mỹ “sừng sỏ”.
Trong cuộc đấu trí này, các lực lượng của Hải quân Nhân dân Việt Nam bằng bản lĩnh, trí tuệ, sự dũng cảm, mưu trí và một nghệ thuật tác chiến đầy khéo léo, linh hoạt đã luôn nêu cao, triệt để vận dụng và phát huy một cách hết sức sáng tạo truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha với nghệ thuật quân sự độc đáo: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều; bí mật, triệt để khai thác sơ hở, đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới để giành chiến thắng.
Yếu tố “bí mật”, “bát ngờ” đã luôn được các lực lượng của Hải quân Nhân dân Việt Nam bảo đảm và tuân thủ một cách tuyệt đối. Giữ được bí mật là cơ sở tạo nên bất ngờ trước kẻ thù và chính yếu tố “bí mật”, “bất ngờ” đã góp phần quan trọng mang tính chất quyết định làm nên thắng lợi “tưởng chừng như không thể” trong cuộc chiến không cân sức của Hải quân Nhân dân Việt Nam với các lực lượng của Quân đội Mỹ và Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Có thể nói, chúng ta đã tạo ra sự bất ngờ lớn đối với người Mỹ ngay trong quyết định chiến lược: chọn con đường biển vốn có nhiều rủi ro, xác suất thành công không cao để đưa người, hàng hóa và vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Người Mỹ bằng nhiều cách có thể nắm rất rõ về lực lượng, chất lượng của các trang thiết bị và vũ khí của Hải quân Bắc Việt để đề phòng, ngăn chặn. Nhưng điều họ không lường, không đánh giá hết chính là ở sức mạnh tiềm ẩn - thứ sức mạnh chỉ có được từ bản lĩnh, trí tuệ, sự quả cảm nhiều khi đến mức “liều lĩnh” của quân đội này, nên họ đã bất ngờ - bất ngờ vì không thể ngờ được rằng với những chiến hạm nhỏ (thậm chí là những con tàu gỗ), trang thiết bị vũ khí thô sơ, Bắc Việt “lại dám cả gan” chọn con đường đầy thách thức với hệ thống bố phòng dày đặc nhiều tầng, nhiều lớp trên biển để thực hiện chiến dịch chi viện của mình. Chính sự bất ngờ đó đã góp phần tạo nên thành công lớn của Đoàn tàu không số trên con đường biển huyền thoại trong suốt giai đoạn đầu. Ngoại trừ chuyến vượt biển thất bại của con tàu chở vũ khí vào Bến Chuối - Quảng Nam (năm 1960), tính cho đến thời điểm 2 - 1965 với sự kiện “Vũng Rô”, gần 100 chuyến tàu chở vũ khí đi qua trước mũi kẻ thù mà không hề bị phát hiện (theo tài liệu thống kê chính xác là 87 chuyến).
Trong chỉ đạo tác chiến, phát huy tinh thần mưu trí, lòng quả cảm và sức sáng tạo phi thường của các lực lượng, Hải quân Nhân dân Việt Nam với phương châm đánh vào chỗ đối phương không ngờ đã liên tục thay đổi kế hoạch vận chuyển, hình thành thế “mê hồn trận”, khiến đối phương không thể nắm bắt được quy luật hoạt động của mình để đối phó và ngăn chặn có hiệu quả. Trong những năm đầu 1961 - 1965, chủ yếu những con tàu không số thường bám theo vùng biển ven bờ, giả dạng tàu cá trà trộn vào dân để luồn lách qua hệ thống bố phòng dày đặc của địch. Tuy nhiên, sau vụ tàu sắt 143 của ta bị phát hiện tại Vũng Rô (Phú Yên), khi Mỹ đã đánh hơi thấy sự tồn tại của con đường, đồng thời đề cao cảnh giác, tăng cường lực lượng bố phòng, giám sát chặt chẽ các vùng biển ven bờ, bằng sự mưu trí, sáng tạo, những con tàu không số của ta lại thay đổi hải trình và phương pháp đi để tránh sự truy sát gắt gao của địch. Thực tế, ngay sau khi nhận được tin xấu về vụ “Vũng Rô”, tuyến đi ven bờ đã bị bại lộ và gần như bị địch phong tỏa, bịt kín. Không chấp nhận bó tay, trong tình thế hết sức khó khăn đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho Cục Tác chiến ra lệnh ngừng mọi hoạt động vận chuyển trên đường biển để rút kinh nghiệm tìm phương án tác chiến mới. Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương quyết định chuyển hướng hoạt động vận tải ra các vùng biển xa bờ vượt ngoài tầm kiểm soát của đối phương, đồng thời dùng phương pháp hàng hải thiên văn, tập trung đưa tàu đi chủ yếu vào ban đêm để tránh hệ thống trinh sát điện tử của đối phương phát hiện. Thực hiện phương án tác chiến mới này, những con tàu không số đã sử dụng chiến thuật nghi binh đánh lừa địch bằng cách liên tục thay đổi hướng xuất phát và hải trình: khi tàu ta nhanh chóng vượt ra hải phận quốc tế, trà trộn với các tàu vận tải của nước ngoài, có lúc lại vòng sang vùng biển của Trung Quốc, Ma Cao, thậm chí len lỏi ven các vùng biển của Philipine, Indonexia, hoặc sang tận vùng biển Singapore rồi sau đó mới tìm cách xâm nhập, bất ngờ tiếp cận các bến đã được xác định trước để trả hàng. Có thể nói, đây là cách vận chuyển đầy táo bạo và hết sức bất ngờ vượt ra khỏi suy tính trong chiến lược ngăn chặn của Mỹ. Bởi lẽ, theo tính toán thông thường của các chuyên gia quân sự của Mỹ, việc sử dụng những con tàu nhỏ, có sức chịu sóng gió không cao, trang thiết bị dẫn đường thô sơ để thực hiện một hải trình dài và rất phức tạp về địa hình như vừa nói ở trên quả là một điều quá “phiêu lưu”, “mạo hiểm”, đế mức tưởng như là “không tưởng”. Báo chí Sài Gòn thời bấy giờ từng viết: “Việt Cộng chở vũ khí vào Nam bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín và không sao hiểu nổi”. Có lẽ, với những gì diễn ra trên chiến trường khu vực duyên hải miền Nam, người Mỹ hẳn đoán định rằng, những con tàu không số của Hải quân Nhân dân Việt Nam vẫn đang tiếp tục hoạt động. Nhưng những con tàu đó hoạt động như thế nào và vì sao chúng có thể vượt qua được tuyến bố phòng trên biển tầng tầng, lớp lớp mà họ đã dựng lên, thì quả thực họ lại rất mơ hồ và chẳng thể lý giải nổi. Tướng Đỗ Hữu Chí - Phó Đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau những ngày tháng lao tâm, khổ tứ cùng với người Mỹ đối phó với “những con tàu ma” của Hải quân Nhân dân Việt Nam, trong cuốn “Một số quan điểm chiến lược để bảo vệ duyên hải Việt Nam Cộng hòa” từng nhận định: “Trên thực tế, đối phương sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà cuộc di hành vào điểm đến càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đi biển… Trên phương diện quân sự, Bắc Việt đã biết khai thác biển khơi một cách thực tiễn hơn ta”, đồng thời cũng hoài nghi và chua chát thốt lên câu tự hỏi: “Chiến hạm của Mỹ nhập cuộc rất đông, xem như vây kín duyên hải miền Nam Cộng hòa. Thế nhưng, cộng sản Bắc Việt có chịu chùn bước xâm nhập không?” (3).
Câu hỏi đó thực chất phản ánh sự bất lực hoàn toàn của Quân đội Mỹ và Quân đội Việt Nam Cộng hòa trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt với lực lượng Hải quân Nhân dân trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến, điểm quyết định thường luôn nằm ở việc bên nào có thể phát huy hết sức mạnh tổng lực của mình, đặc biệt là phát huy được thế trận lòng dân. Những năm tháng đấu trí, đấu lực khốc liệt với kẻ thù, các lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam thực sự đã không đơn độc khi phải đối chọi với sức mạnh quân sự Mỹ. Họ đã luôn biết dựa vào dân, vận dụng hết sức sáng tạo và triệt để phát huy thế trận chiến tranh nhân dân để tác chiến thắng lợi trên con đường biển huyền thoại. Lần lại lịch sử, không chỉ là người Mỹ, mà ngay cả đối với nhiều người Việt Nam cũng không thể ngờ được rằng, trong những thời khắc khó khăn, khốc liệt nhất của cuộc chiến trên con đường mòn Hồ Chí Minh trên biển lại có sự “tham chiến âm thầm, bí mật” của cả một số người dân rất đỗi bình thường từ thanh niên cho đến các cụ già, em nhỏ. Họ không chỉ là tai mắt giúp cho các lực lượng Hải quân ta kịp thời tránh được sự truy sát của kẻ thù, hỗ trợ đưa hàng cập bến an toàn, mà đôi khi còn thực sự tham gia vào rất nhiều khâu quan trọng trong quá trình vận chuyển. Có những giai đoạn, khi tàu không số của Hải quân ta, trước sự truy sát, ruồng bố gắt gao của đối phương không thể hoạt động, một số gia đình vốn làm nghề sông biển, được giác ngộ cách mạng đã không ngần ngại sẵn sàng mạo hiểm hy sinh tính mạng vợ con mình trực tiếp chuyên chở hàng trót lọt ngay trước mặt kẻ thù mà kẻ thù không hề hay biết. Trong điều kiện tác chiến đặc biệt, đòi hỏi phải bảo đảm bí mật tuyệt đối cho tuyến đường, nhất nhất tuân thủ theo nguyên tắc “lai vô ảnh, khứ vô hình”, “quân lệnh như sơn”, mỗi một chiến sĩ, một người dân được lựa chọn tham gia vào quá trình vận chuyển phải tự coi mình như một “cảm tử quân”, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc… đây là “điều bất ngờ” vô cùng độc đáo trong phương thức hoạt động vận tải của ta. Trên một phương diện nhất định, có thể nói, một cuộc chiến tranh nhân dân đã được ta vận dụng rất thành công trên con đường biển thời bấy giờ. Bản lĩnh và tinh thần không chùn bước trước mọi khó khăn, thách thức của cả một dân tộc được phát huy cao độ - đó cũng chính là sự tinh túy, đỉnh cao trong nghệ thuật tác chiến gắn chặt với “thế trận lòng dân” của Hải quân Nhân dân Việt Nam.
Trải qua chặng đường 16 năm tồn tại tính từ ngày có quyết định khai mở (7 - 1959) cho đến khi chiến tranh kết thúc (4 - 1975), những con tàu không số của Hải quân Nhân dân Việt Nam gắn với con đường huyền thoại - Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển - đã vận chuyển thành công hàng trăm cán bộ, chiến sĩ và 44.324 tấn hàng hóa (chủ yếu là vũ khí) chi viện cho chiến trường miền Nam (4). Đó được coi là một thành công lớn - một kỳ tích phi thường, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam: đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chú thích:
1/ Trích theo Nguyên Ngọc, có một con đường mòn trên biển Đông, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2000, tr 28.
2/ Trích theo Lê Văn Một, Nhật ký Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên trên biển Đông, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2006, tr 151.
3/ Trích theo Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Hải quân, Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2001, tr 111 - 206.
4/ Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr 235.
Nguồn: