1. Nhu cầu nghiên cứu di dân quốc tế ở Việt Nam do hối thúc của phát triển các ngành khoa học, của thực tiễn và chính sách
Về mặt lý luận - học thuật, vấn đề di cư từ trước tới nay ở Việt Nam dù đã được quan tâm, nhưng phần lớn vẫn là nghiên cứu di cư nói chung hoặc di cư nội địa. Trên thực tế ở Việt Nam đã xuất hiện một số nhà nghiên cứu chuyên sâu về di cư, chủ yếu tiếp cận dưới góc độ nhân học xã hội, nhân khẩu học, dân số học hay xã hội học di dân. Còn di cư quốc tế tuy có được đề cập ở một số loại hình di cư lao động quốc tế, di cư hôn nhân quốc tế hoặc di cư tự do xuyên biên giới của các nhóm sắc tộc thiểu số, còn thiếu các nghiên cứu có hệ thống, đặc biệt là di cư truyền giáo và thụ giáo quốc tế, di cư hồi hương của người Việt Nam ở nước ngoài, di cư du lịch - giải trí, di cư học tập; mối quan hệ giữa chúng; tác động đơn hướng và đa hướng của di cư quốc tế; sự tham gia của đa chủ thể vào quản lý và kiểm soát di cư quốc tế;... Những hạn chế trong nghiên cứu di cư quốc tế không chỉ do quy mô di cư, khoảng cách di cư, mà còn do tính phức tạp và biểu hiện mới của di cư quốc tế đan gài với chính trị quốc tế, kinh tế quốc tế hoặc các chiều cạnh văn hóa - xã hội liên quốc gia, liên tộc người. Trước hết là chiều cạnh chính trị quốc tế của di cư với việc xem xét tác động của di cư quốc tế đối với chủ quyền và an ninh quốc gia, giải quyết mối quan hệ giữa chức năng của các nhà nước dân tộc và vai trò quan trị toàn cầu của các định chế quốc tế đối với di dân quốc tế, năng lực phối hợp hành động giữa các chính phủ về di cư quốc tế. Thứ hai là chiều cạnh kinh tế học của di cư quốc tế, gồm cả kinh tế học phát triển và kinh tế học phúc lợi, nghiên cứu vai trò của di cư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nguồn lực, phân bổ lại thị trường lao động trên phạm vi toàn thế giới. Thứ ba là chiều cạnh nhân học hình thái của di cư quốc tế, với việc xem xét vai trò của di cư hôn nhân quốc tế làm biến đổi nhân chủng mà trước đây còn ít xuất hiện, thậm chí đối lập với tập quán văn hóa truyền thống người Việt. Thứ tư là chiều cạnh nhân học xã hội của di cư quốc tế, với việc xem xét và giải quyết mối quan hệ giữa tính tộc người và liên tộc người trong quan hệ di cư xuyên biên giới vượt qua các vách ngăn biên giới quốc gia, phong tục tập quán truyền thống và thể chế nhà nước. Thứ năm là chiều cạnh xã hội học của di cư quốc tế, với việc xem xét các hình thức của di cư quốc tế (di cư có thời hạn và di cư không thời hạn; xuất cư, nhập cư và hồi cư; di cư lao động, di cư hôn nhân, di cư học tập, di cư du lịch - giải trí, di cư truyền giáo và thụ giáo, di cư tự do xuyên biên giới); động thái của di cư; tác động đơn hướng và đa hướng của di cư quốc tế đối với con người về cả cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng, địa phương, quốc gia và quốc tế; tác động của di cư quốc tế với xung đột xã hội, hòa nhập xã hội, di động xã hội, tiếp biến văn hóa; các quá trình cá thể hóa và xã hội hóa nhân cách trong di cư quốc tế. Thứ sáu là chiều cạnh tâm lý học của di cư quốc tế, với nhận diện những chuyển biến tâm lý cá nhân và cộng đồng trong quá trình di cư, cả mặt tích cực và tiêu cực, thậm chí vượt qua cả định kiến tâm lý truyền thống. Thứ bảy là chiều cạnh địa lý tộc người của di cư quốc tế, với nhận diện quá trình phân bố lại bản đồ tộc người trên thế giới, cấu trúc lại các chỉ tiêu nhân khẩu khu vực và quốc tế, những tác động của di dân với biến đổi môi trường sinh thái.
Rõ ràng, di cư quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa với những động thái, biểu hiện mới đòi hỏi các khoa học chuyên ngành và liên ngành phải có bước phát triển tương ứng để nhận diện chính xác, luận chứng có căn cứ cho các can thiệp chính sách cũng như xác lập khung khổ lý thuyết cho nghiên cứu cơ bản. Xác lập một quan điểm phức hợp cho nghiên cứu di cư quốc tế là nhiệm vụ đặt ra về mặt học thuật để tìm điểm giao thoa giữa các khoa học, khỏa lấp các khoảng trống giữa các khoa học, đặc biệt là bổ sung, phát triển các lý thuyết về di cư quốc tế được áp dụng cho từng loại hình di cư lao động, di cư hôn nhân, di cư học tập, di cư du lịch, di cư truyền giáo và thụ giáo, di cư tự do xuyên biên giới... Do đó, nhu cầu phát triển khoa học, phát triển lý luận - học thuật ở nước ta đang hối thúc nghiên cứu di dân quốc tế và tác động xã hội của di dân quốc tế phải được đẩy tới về tốc độ, mở rộng về quy mô và hiện đại hóa về phương pháp.
Về mặt thực tiễn, di cư quốc tế ở nước ta đang xuất hiện những trạng huống, chiều hướng và động thái mới cần được nhận diện, đánh giá thấu đáo, không chỉ liên quan đến quản lý di dân, mà sâu xa hơn là tổ chức lại xã hội thích ứng với toàn cầu hóa. Quy mô di cư quốc tế diễn ra ngày càng lớn, gồm cả xuất cư và nhập cư, tác động to lớn làm thay đổi nhân khẩu, phân bố lao động, cơ cấu giới ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước. Hình thái di cư quốc tế cũng đa dạng hơn từ di cư lao động, di cư hôn nhân, di cư học tập, di cư du lịch - giải trí, di cư truyền giáo và thụ giáo đến di cư tự do xuyên biên giới đến di cư. Tính chất di cư quốc tế cũng phức tạp hơn, gồm cả di cư hợp pháp và di cư bất hợp pháp, di cư có tổ chức và di cư tự do, di cư thương mại và di cư phi thương mại. Hướng di cư quốc tế cũng linh hoạt, khó lường hơn, gồm cả xuất cư, nhập cư và hồi cư (hồi hương). Mô hình và xu hướng di cư quốc tế diễn ra theo hướng đa cấp, gồm cả di cư cá nhân, di cư gia đình, di cư làng/bản, di cư mạng lưới và di cư dòng họ. Nguồn lực tài trợ cho di cư quốc tế rất đa dạng bao gồm cả thông qua hệ thống tài chính ngân hàng và tài chính phi ngân hàng, cả tự túc và hỗ trợ của nhà nước hoặc các tổ chức phi chính phủ. Can dự của các chủ thể đối với di cư quốc tế cũng vượt ra khỏi các tổ chức truyền thống, mà vai trò của các định chế quốc tế như Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Cao ủy Liên hợp Quốc về người tị nạn (UHCR), cũng như các tổ chức phi chính phủ xuyên quốc gia, đang góp phần định hình khuôn mẫu quản trị toàn cầu, gắn với định hình các giá trị phổ quát về nhân quyền trong thế giới hiện đại. Tính ổn định hoặc bất định của di cư quốc tế cũng đặt ra những trạng huống mới, nhất là qua ứng phó với khủng hoảng Lyby buộc phải hồi cư cho khoảng 10.000 lao động Việt Nam. Điều kiện di cư quốc tế cũng thuận lợi hơn nhờ sự hỗ trợ của giao thông, mạng lưới xã hội, tổ chức quốc tế, thể chế nhà nước... Tác động của di cư quốc tế cũng đa tuyến hơn khi quy mô di cư tăng lên, hình thức di cư phong phú hơn, tính chất di cư phức tạp hơn cũng như sự tham gia đa chủ thể vào quản lý và kiểm soát di cư quốc tế, thậm chí đang từng bước thay đổi nhiều cấu trúc và chức năng quản lý truyền thống.
Trạng huống, động thái và biểu hiện mới đòi hỏi di cư quốc tế phải được nghiên cứu, khảo sát, đánh giá nghiêm túc thì mới tìm được giải pháp phát huy tác động tích cực, hóa giải các tác động tiêu cực. Nếu không được kiểm soát tốt và trù liệu khả năng xử lý thích đáng, trong nhiều trường hợp di cư quốc tế có thể chuyển hóa tính chất, tác động tiêu cực đến phương diện chính trị, gây bất ổn xã hội, đứt gãy kết cấu văn hóa truyền thống. Chí ít các tình huống sau đây phải được trù liệu: (i) Phụ nữ di cư hôn nhân nhập cư qua con đường mua bán, lừa gạt sang nước khác có thể bị sử dụng như một con bài chính trị tạo sức ép với nước ta, có thể trục xuất về nước bất cứ lúc nào với danh nghĩa “nhập cư bất hợp pháp”, kèm theo đó là những đứa con lai; (ii) rối loạn, bất ổn xã hội ở các quốc gia láng giềng hoặc quốc gia có người Việt Nam nhập cư, buộc phải định hình những phương thức mới quản trị nhập cư, quản trị hồi cư trong tình huống bất thường; (iii) tự do hóa thị trường lao động khu vực ASEAN và quốc tế dẫn tới các luồng nhập cư lao động từ nhiều quốc gia khác vào nước ta sẽ tạo nên cạnh tranh lao động khốc liệt, kể cả lao động phổ thông và lao động trình độ cao; (iv) di cư hôn nhân quốc tế phổ biến sẽ tạo nên mô hình gia đình liên tộc người xuyên quốc gia đòi hỏi phải có những can thiệp chính sách trong quản lý phát triển xã hội; (v) tai biến môi trường, biến động xã hội có thể tạo nên các luồng di cư xuyên biên giới phức tạp, nếu xử lý thiếu khôn khéo có thể dẫn tới các thảm họa nhân đạo, rối loạn xã hội bị các thế lực thù địch lợi dụng can thiệp vào chủ quyền quốc gia; (vi) mức sống được nâng cao, thể chế ngày càng hoàn thiện, môi trường kinh doanh thuận lợi, người Việt hải ngoại có thể hồi cư số lượng ngày càng lớn, cần mô hình quản trị dân cư hồi hương thích ứng; (vii) vấn đề công ăn việc làm, an sinh xã hội, tái hòa nhập xã hội cho những người di cư, người hồi cư cần được nghiên cứu thấu đáo và tính toán nguồn lực tương ứng... Những vấn đề đó nếu được trù liệu chính xác, định hình được phương thức quản trị tốt và khả năng ứng phó kịp thời hiệu quả, sẽ phát huy được tác động tích cực, hạn chế được tác động tiêu cực của di cư quốc tế.
Về mặt chính sách - luật pháp, di cư quốc tế của nước ta gia tăng về quy mô, biến đổi về tính chất, đa dạng hóa về loại hình, trong khi đó hệ thống chính sách, luật pháp còn yếu về khả năng điều chỉnh. Hay nói cách khác giữa thực tiễn di cư quốc tế và hệ thống chính sách, pháp luật còn những bất cập cần phải được khắc phục. Tính tương thích giữa pháp luật Việt Nam với các công ước quốc tế và phối hợp hành động giữa Việt Nam với các định chế quốc tế về di dân quốc tế còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Pháp luật về di cư quốc tế còn nhiều “khoảng trống” tạo kẽ hở cho buôn bán phụ nữ xuyên quốc gia, di cư tự do xuyên biên giới cũng như hạn chế khả năng bảo vệ quyền của di dân Việt Nam ở nước ngoài. Các hạn chế đó về mặt chính sách, luật pháp cần được khỏa lấp thì mới tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền của di dân Việt Nam ở nước ngoài, hạn chế buôn bán phụ nữ hôn nhân, kiểm soát di cư tự do xuyên biên giới, tăng cường năng lực phối hợp hành động giữa các chính phủ, giữa Việt Nam với các định chế quốc tế. Đó là khung khổ chính sách, luật pháp đảm bảo cho người lao động Việt Nam có khả năng chủ động và tích cực tham gia thị trường lao động quốc tế, từ thông tin thị trường, hỗ trợ tín dụng, trách nhiệm của doanh nghiệp xuất khẩu lao động, bảo hiểm xã hội đối với người xuất khẩu lao động, việc làm sau khi kết thúc hợp đồng xuất khẩu lao động. Đó là các thể chế luật pháp, chính sách bảo đảm di cư quốc tế an toàn và hợp pháp, thực hiện quyền của phụ nữ, chống mua bán phụ nữ hôn nhân quốc tế hoặc di cư tự do xuyên biên giới và truyền giáo bất hợp pháp. Đó là chính sách, luật pháp về quản lý lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp vào Việt Nam. Đó là vấn đề “hai quốc tịch”, quyền lợi và nghĩa vụ của người Việt Nam hải ngoại hồi hương. Đó là tính tương thích, đồng bộ giữa luật pháp Việt Nam với các công ước quốc tế, với các định chế đa phương, với các cam kết hội nhập quốc tế. Đó là thể chế, luật pháp về vai trò của xã hội dân sự tham gia bảo vệ quyền của di dân quốc tế, trách nhiệm phối hợp giữa “ba bên” (nhà nước, doanh nghiệp, di dân), “bốn bên” (nhà nước, doanh nghiệp, di dân, các tổ chức dân sự), hoặc “năm bên” (nhà nước, doanh nghiệp, di dân, các tổ chức dân sự, các định chế quốc tế) trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của di dân quốc tế được đặt trong mối quan hệ tương hỗ với bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia. Đó là chưa kể di dân quốc tế nếu thiếu hệ thống luật pháp xử lý khéo léo, kịp thời có thể gây nên những tình huống xấu, bị các thế lực thù địch lợi dụng gây nên các khủng hoảng tị nạn, không chỉ tác động đến hình ảnh đất nước mà cả an ninh chủ quyền quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Động thái và diễn biến mới của di dân quốc tế đang đòi hỏi chính sách, luật pháp nước ta phải tiếp tục hoàn thiện, trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn nghiêm túc. Các chính sách, pháp luật về di cư quốc tế phải phù hợp với các cam kết quốc tế, với công ước của Liên Hợp Quốc, đặt trong cấu trúc tổng thể hệ thống luật pháp của Việt Nam trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Xét trên cả ba mặt lý luận - học thuật, thực tiễn và thể chế - chính sách cho thấy, nghiên cứu di dân quốc tế và tác động xã hội của di dân quốc tế đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập là vấn đề khoa học có ý nghĩa thực tiễn cấp bách, không chỉ ở tầm cấp quốc gia mà còn bao hàm ý nghĩa khu vực và quốc tế.
2. Một số cách tiếp cận phổ dụng nghiên cứu di cư quốc tế ở Việt Nam
Đối với một vấn đề rộng lớn và phức tạp như di cư quốc tế và tác động xã hội của di cư quốc tế, đòi hỏi phải kết hợp giữa sử dụng cách tiếp cận chuyên ngành với liên ngành của địa kinh tế quốc tế, kinh tế học lao động, chính trị học, nhân học xã hội, nhân học hình thái, nhân học tôn giáo, nhân loại học, gia đình học, xã hội học di dân, lịch sử di dân, khu vực học, tâm lý học,... Có thể tóm tắt ở mấy cách tiếp cận chủ yếu sau đây:
- Tiếp cận phức hợp liên ngành: Tiếp cận phức hợp liên ngành của nhiều ngành khoa học để cắt nghĩa các chiều cạnh của di cư quốc tế. Mỗi ngành khoa học cho phép nghiên cứu chuyên sâu đặc điểm từng loại hình di cư quốc tế, nhưng cần cách tiếp cận liên ngành để cắt nghĩa toàn diện, đa chiều, đa hướng của di cư quốc tế. Tuy nhiên, khi nghiên cứu từng loại hình di cư quốc tế cụ thể, bên cạnh tiếp cận liên ngành đòi hỏi phải xác định các trụ cột: (i) nghiên cứu về di cư lao động quốc tế phải lấy địa kinh tế quốc tế, kinh tế học lao động, nhân học xã hội làm trụ cột; (ii) nghiên cứu về di cư hôn nhân quốc tế phải lấy xã hội học di dân, gia đình học và nhân học xã hội làm trụ cột; (iii) nghiên cứu về di cư hồi hương phải lấy chính trị học và nhân học xã hội làm trụ cột; (iv) nghiên cứu về di cư truyền giáo và thụ giáo phải lấy nhân học tôn giáo và xã hội học tôn giáo làm trụ cột; (v) nghiên cứu về di cư học tập phải lấy giáo dục học và quốc tế học làm trụ cột; (vi) nghiên cứu về di cư tự do xuyên biên giới của các nhóm sắc tộc thiểu số phải lấy khu vực học và nhân học xã hội làm trụ cột.
- Tiếp cận hệ thống thế giới: Tiếp cận hệ thống thế giới có ý nghĩa hết sức quan trọng khi nghiên cứu di dân trong động thái toàn cầu hóa, khắc phục những hạn chế khi giới hạn nghiên cứu trong hệ thống quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Tiếp cận hệ thống thế giới cho phép cắt nghĩa động thái di cư lao động quốc tế gắn với quy luật cung - cầu lao động trên phạm vi toàn cầu, di cư hôn nhân liên tộc người gắn với mất cân bằng giới trên cấp độ khu vực và quốc tế, di cư học tập gắn với toàn cầu hóa tri thức nhân loại và nhu cầu học tập, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia dân tộc... Hay nói cách khác, tiếp cận hệ thống thế giới đòi hỏi nghiên cứu di cư không được giới hạn trong các đường biên giới quốc gia mà tính toán đến các nhu cầu và lợi ích toàn cầu, các tình huống nảy sinh bên ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia. Nó thúc đẩy quá trình hình thành thị trường lao động thế giới, thị trường dịch vụ giáo dục, quan hệ hôn nhân liên tộc người xuyên quốc gia... Tất nhiên, hạn chế của cách tiếp cận này là xem nhẹ vai trò các quốc gia như là chủ thể chính đảm bảo cho liên kết hệ thống thế giới, do đó, cần được bổ khuyết bằng các cách tiếp cận khác.
- Tiếp cận quốc tế học và khu vực học: Tiếp cận quốc tế học được sử dụng để xem xét vấn đề di cư trong quan hệ quốc tế, vai trò của các định chế quốc tế như Tổ chức Di cư quốc tế (IOM), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UHCR); hợp tác song phương và đa phương về di dân quốc tế. Tiếp cận khu vực học được sử dụng để xem xét di cư trong quan hệ khu vực, nhất là vấn đề dịch chuyển lao động trong các nước ASEAN nói riêng và toàn khối Đông Á nói chung trong quá trình hình thành thị trường lao động khu vực, vấn đề hình thành thị trường hàng hóa - dịch vụ thúc đẩy các luồng xuất cư và nhập cư, vấn đề di cư hôn nhân do mất cân bằng giới xét trong toàn khu vực, vấn đề di cư tự do xuyên biên giới của những người đồng tộc sống hai bên đường biên giới, được cắt nghĩa bằng các lý do lịch sử tộc người, tương đồng văn hóa, cố kết tộc người. Tiếp cận quốc tế học và khu vực học còn đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ quan hệ tộc người xuyên biên giới. Điều này rất có ý nghĩa khi nghiên cứu hôn nhân quốc tế, tác động của hôn nhân quốc tế đối với sự hình thành mô hình gia đình liên tộc người, những biến đổi về mặt nhân chủng đối với thế hệ con cháu hình thành từ hôn nhân quốc tế. Qua đó còn cho phép cắt nghĩa chủ nghĩa bản địa xuyên quốc gia đối với những người đồng tộc cư trú vắt qua nhiều quốc gia khác nhau, thường xuyên di cư tự do bất chấp biên giới lãnh thổ, tác động đối với an ninh và chủ quyền biên giới, quan hệ tộc người.
- Tiếp cận xã hội học di dân: Tiếp cận xã hội học di dân có ý nghĩa xem xét di cư quốc tế trong các động thái biến đổi nhân khẩu, cơ cấu xã hội, dân cư, gia đình, giới và bình đẳng giới, cũng như nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Các lý thuyết của xã hội học di dân có vai trò rất lớn để cắt nghĩa các chiều cạnh của di cư quốc tế. Các phương pháp nghiên cứu của xã hội học giúp lượng hóa các khía cạnh kinh tế, nhân khẩu, xã hội của di cư quốc tế. Đặc biệt, tiếp cận xã hội học cho phép đánh giá tác động xã hội của di cư quốc tế trên các mặt tích cực và tiêu cực, trực tiếp và gián tiếp, dự báo chiều hướng di cư quốc tế cần trù liệu để có can thiệp chính sách đúng đắn. Trong tiếp cận xã hội học di dân, lý thuyết lực hút - lực đẩy và lý thuyết mạng xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. Xem xét từ chiều cạnh lực đẩy để cắt nghĩa một nguồn gốc của di cư quốc tế, do các khó khăn nảy sinh từ sinh kế, tai biến môi trường, xung đột xã hội ở nơi xuất cư. Xem xét từ lực hút cho phép cắt nghĩa hướng nhập cư với những thuận lợi hơn về môi trường và sinh kế, nhất là thu nhập, việc làm, học tập, lao động, hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, hạn chế của tiếp cạn lực hút và lực đẩy là không cắt nghĩa được các lý do di cư quốc tế nằm trong các yếu tố văn hóa, tập quán, quan hệ xã hội, quan hệ tộc người. Vì vậy, tiếp cận lý thuyết mạng xã hội góp phần bổ khuyết, đi tìm căn nguyên di cư từ các quan hệ xã hội của những người có chung huyết thống, ý thức tộc người, đức tin, lợi ích hoặc cư trú trên một địa vực, nhờ đó mà thuận lợi hơn trong tổ chức mạng lưới di cư hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Tiếp cận xã hội học còn đặt người xuất cư, nhập cư và hồi cư quốc tế không chỉ là đối tượng nghiên cứu mà còn được tham gia vào quá trình nghiên cứu. Đảm bảo cho tiếp cận tham gia được hiệu quả đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để bản thân các cộng đồng hoặc cá nhân di dân được bày tỏ suy nghĩ và bộc lộ hành vi của mình. Các phỏng vấn sâu và điều tra xã hội học có vai trò quan trọng hàng đầu đảm bảo cho tiếp cận tham gia được hiệu quả. Tất nhiên, tiếp cận xã hội học trong nghiên cứu di cư quốc tế cũng có những khó khăn và giới hạn nhất định khi khoảng cách di cư rất xa, địa bàn khảo sát trên bình diện quốc tế rộng lớn, đối tượng di chuyển phân tán.
- Tiếp cận xã hội hóa nhân cách: Tiếp cận này cho phép xem xét quá trình tham gia của người nhập cư hòa nhập vào các xã hội đa văn hóa, đa chủng tộc với những rào cản, thách thức và khả năng vượt qua. Vượt qua được các rào cản, thách thức thì người nhập cư mới tiếp thu được tri thức và văn hóa của quốc gia khác vào quá trình hình thành nhân cách của mình. Không vượt qua được rào cản, thách thức thì người nhập cư sẽ gặp khó khăn trong hòa nhập xã hội mới đến, thậm chí rơi vào khủng hoảng tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe thần kinh. Tiếp cận xã hội hóa nhân cách còn có ý nghĩa khi đề xuất các giải pháp nhằm giúp cộng đồng nhập cư hòa nhập xã hội mới đến hoặc những cộng đồng di cư hồi hương tái hòa nhập xã hội Việt Nam, thực hiện hòa giải dân tộc và đoàn kết xã hội,
- Tiếp cận chính trị học: Tiếp cận này chủ yếu xem xét các mặt tác động xã hội của di cư quốc tế đối với thể chế, ổn định chính trị, xử lý các tình huống bất thường do di cư quốc tế tạo nên, phòng ngừa xung đột xã hội; nghiên cứu cơ chế, chính sách để kiểm soát các tác động bất lợi của di cư quốc tế, thúc đẩy di cư quốc tế theo hướng an toàn và hợp pháp. Tiếp cận chính trị học cũng được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa di cư với đảm bảo an ninh quốc gia trong thời kỳ toàn cầu hóa, giữa phát huy vai trò của các định chế quốc tế trong quản trị toàn cầu với giữ vững chủ quyền quốc gia, tránh để các thế lực bên ngoài lợi dụng vấn đề nhân quyền trong di dân quốc tế để can thiệp vào tình hình Việt Nam.
Ngoài ra, đề tài còn phải sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận văn hóa học, tâm lý học, giáo dục học, gia đình học, kinh tế học phúc lợi; tiếp cận theo thuyết tương tác biểu trưng, tiếp cận theo thuyết cấu trúc - chức năng, tiếp cận theo lý thuyết nhóm... Trong khi đề cao tiếp cận liên ngành thì khi nghiên cứu di cư quốc tế cần xác định trụ cột là cách tiếp cận của nhân học xã hội, xã hội học và quốc tế học./.
Nguồn: Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2011