Tiếp xúc và giao lưu văn minh nhân loại là một hiện tượng xảy ra trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên quá trình đó diễn ra khác nhau trong những không gian, thời gian và hoàn cảnh khác nhau. Quá trình du nhập và tiếp biến văn minh Phương Tây ở Nam Kỳ Việt Nam trong thời cận đại cũng là một trường hợp như thế cần được quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu quá trình du nhập văn minh Phương Tây vào Nam bộ Việt Nam nhằm nhận diện tiến trình, đặc điểm du nhập văn minh Phương Tây vào Nam bộ Việt Nam.
1. Định vị nền văn minh phương Tây
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã trở thành một hệ thống thế giới. Sau khi giành được thắng lợi trong các cuộc cách mạng tư sản, các nước đã tiến hành cách mạng công nghiệp tạo nên một bước chuyển to lớn của lịch sử nhân loại, làm xuất hiện nền văn minh công nghiệp. Văn minh phương Tây thời cận đại đã nhanh chóng phát triển và định hình thành những đặc trưng cơ bản của mình.
Trước hết, thành tựu văn minh nổi bật nhất của văn minh Phương Tây là một nền văn minh công nghiệp và một lối sống công nghiệp.
Sau khi tiến hành cách mạng tư sản thành công, các nước tư bản đã tiến hành cách mang công nghiệp, tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong các mặt của đời sống: Sự biến đổi cơ cấu giai cấp và các mối quan hệ giai cấp; sự hình thành giai cấp vô sản cùng với sự phát triển của đại công nghiệp đã hình thành những phẩm chất mới tiến bộ. Giai cấp tư sản công nghiệp cũng trưởng thành, có thế lực kinh tế mạnh, họ vươn lên giành vị trí tương xứng trong chính trị. Lối sống công nghiệp và dân số phát triển đòi hỏi người ta phải tổ chức những sinh hoạt xã hội cho phù hợp. Mọi hoạt động sản xuất và xã hội được quy định theo giờ giấc, tạo nên một phong cách làm việc công nghiệp, trở thành thói quen trong nếp sống của cư dân.
Thứ hai, chủ nghĩa nhân văn đề cao quyền con người. Kế thừa truyền thống dân chủ từ thời Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa nhân văn trong phong trào văn hóa phục hưng, tư tưởng của các nhà Khai sáng thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đang lên giương cao ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái” để tập hợp nhân dân lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Tư tưởng nhân quyền và nhân quyền của phong trào cách mạng tư sản được thể hiện tập trung và tiêu biểu ở Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và ở Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền trong Cách mạng tư sản Pháp.
Thứ ba, một tư duy duy lý. Tư tưởng duy lý có nguồn gốc từ trong triết học Hy Lạp, khi trong quá trình tìm hiểu thế giới, các triết gia luôn cố gắng tìm ra những mối liên hệ logic giữa các sự vật hiện tượng. Tư duy duy lý phát triển mạnh từ thời Văn hóa Phục hưng mà một trong những nguyên tắc quan trọng là vận dụng các nguyên tắc của tư duy để tìm ra chân lý, phát hiện ra quy luật. Tư duy duy lý trong thời cận đại cũng như thành tựu của nền văn minh phương Tây, theo M. Veber, đều dựa trên tổng phổ tư duy duy lý của con người châu Âu. Ở đây mọi suy nghĩ và hành động đều được đặt trong mạch logic của vấn đề. Dường như tất cả mọi việc đều rạch ròi trong suy nghĩ và hành động, đều dựa trên những quy luật khách quan để nhìn nhận và xem xét vấn đề.
Thứ tư, thiết chế nhà nước tam quyền phân lập. Từ thời Hy Lạp và La mã cổ đại, trên cơ sở tự nhiên và xã hội đã xuất hiện chế độ chính trị và chính quyền dân chủ. Montesquieu (1689 - 1755) một nhà khai sáng Pháp đã đưa ra tư tưởng về sự phân lập quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Các cuộc cách mạng tư sản sau khi lật đổ chế độ phong kiến đã xây dựng thể chế nhà nước theo chế độ tam quyền phân lập. Đây là một thành tựu của nền văn minh nhân loại được ra đời và áp dụng ở phương Tây tuân thủ nguyên tắc là quyền lực phải được chế ngự bằng quyền lực. Không ai và không một đảng phái, tổ chức chính trị nào có thể vượt lên trên hiến pháp và pháp luật, nhằm duy trì trật tự xã hội một cách công bằng và bình đẳng.
Thứ năm, một nền văn hóa và giáo dục phát triển. Châu Âu là nơi có truyền thống giáo dục lâu đời và đã đạt được những thành tựu to lớn trong giáo dục, hình thành một nền giáo dục tiến bộ, vừa là động lực vừa là phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển ổn định và chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội đã buộc các nước tư bản phải chú trọng về phát triển giáo dục. Mục đích giáo dục phương Tây trong giai đoạn này là chuẩn bị cho trẻ em có đủ trình độ và năng lực để đảm nhận việc quản lý nhà nước và quản lý nền sản xuất hiện đại.
2. Quá trình du nhập văn minh phương Tây vào Nam bộ Việt Nam.
Những cuộc phát kiến địa lí cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI đã mang lại kết quả là châu Âu đã tìm ra những con đường biển đến các châu lục, tìm ra lục địa mới châu Mĩ và biển Thái Bình Dương, mở ra triển vọng cho sự tiếp xúc và giao lưu kinh tế - văn hoá nhân loại. Bắt đầu bằng việc thâm nhập của các giáo sĩ phương Tây mở đường cho sự thâm nhập và sau đó là xâm lược của các nước phương Tây vào phương Đông. Cho đến giữa thế kỷ XIX, các nước thực dân phương Tây đã cơ bản xâm chiếm xong các nước châu Á, trừ Thái Lan và Nhật Bản. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam và đến năm 1867, toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Trước khi văn minh Phương Tây du nhập Nam Kỳ, năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Trấn thủ Bình Khang Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đến thiết lập khu vực hành chính ở đây, sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ Đàng Trong. Trong các thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, việc di dân, lập thành làng xóm của cư dân người Việt sống xen lẫn với các dân tộc khác như Hoa, Khmer… được đẩy mạnh ở Nam bộ. Với những kinh nghiệm tích luỹ được, người Việt luôn có những sáng tạo để thích nghi và cải tạo vùng đất hoang vu mà màu mở. Với đời sống khá sung túc về vật chất, người Việt cũng có một đời sống tinh thần đa dạng. Cư dân Nam bộ đã có một cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú. Những dấu ấn mang đậm tính văn hoá phương Nam đã ăn sâu bám rễ vào tư tưởng, ý thức của người dân Nam bộ, đây cũng chính là tiền đề cho những tiếp biến về mặt văn hoá, tư tưởng giai đoạn sau.
Văn minh phương Tây du nhập vào Việt Nam nói chung và Nam bộ nói riêng bằng các con đường như truyền giáo; buôn bán thương mại; xâm lược và xác lập chế độ thống trị; và các con đường khác…Thông qua đó, các thành tựu văn minh phương Tây như thiết chế chính trị; văn minh vật chất; tư tưởng, tôn giáo; văn hóa, giáo dục… đã du nhập vào vùng đất Nam Kỳ.
2.1. Về thiết chế chính trị
Ngay từ khi xâm chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp đã tổ chức bộ máy đầu tiên của chúng ở đây. Pháp coi ba tỉnh miền Đông như thuộc địa (colonie) chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Hải quân và Thuộc địa. Đứng đầu vùng đất mới chiếm là Chuẩn đô đốc Bonard chịu trách nhiệm quản lý cả dân sự lẫn quân sự. Năm 1863, Pháp đặt ra chức danh Thống đốc (gouverneur) kiêm tổng chỉ huy, đứng đầu cả về quân sự lẫn hành chính ở Nam Kỳ, do các chuẩn đô đốc hay thiếu tướng hải quân đảm nhiệm. Từ năm 1879, công việc hành chính được giao cho các quan chức dân sự. Dưới Thống đốc có hệ thống Thanh tra công việc nội chính bản xứ tập hợp trong Sở Tham biện để trực tiếp chỉ đạo các quan lại người Việt Nam ở các Tổng, Xã… Nhìn chung trước khi thành lập Liên bang Dông Dương bộ máy cai trị ở Nam Kỳ còn gọn nhẹ và chủ yếu do các sĩ quan quân sự đảm nhận.
Theo sắc lệnh ngày 17 tháng 10 năm 1887, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, đứng đầu là viên Toàn quyền Đông Dương. Duới Toàn quyền Đông Dương những người đứng đầu các xứ. Các cơ quan tư vấn có Hội đồng phòng thủ Đông Dương, Ủy ban tư vấn về mỏ, Hội đồng tư vấn học chính Đông Dương, Sở Chỉ đạo công việc chính trị và bản xứ, Sở Tình báo, An ninh Trung ương (Sở Mật thám)… Đến năm 1911, Hội đồng tối cao được đổi tên thành Chính phủ Đông Dương, có 23 ủy viên, trong đó có 4 người bản xứ gồm 3 người Việt và một người Cămpuchia. Ở Việt Nam, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ, còn Nam Kỳ là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp trực tiếp cai trị.
2.1.1. Thiết chế bộ máy Chính quyền Nam Kỳ của Pháp, bao gồm:
Cơ quan tư vấn, ngày 8 tháng 2 năm 1880, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ[1] (Conseil Colonial) có 16 thành viên trong đó có 10 người Pháp, 4 người Việt và một số đại biểu của Phòng Thương mại và Hội đồng tư vấn. Bên cạnh Hội đồng thuộc địa còn có Ủy ban thường trực Hội đồng thuộc địa, số lượng từ 3-5 người, chỉ có một ủy viên là người Việt. Các thành viên Hội đồng thường trực do Hội đồng thuộc địa bầu ra. Chủ tịch ủy ban thường trực phải là ngưới Pháp và là người cao tuổi nhất.
Cơ quan hành pháp, đứng đầu Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ là một viên Thống đốc. giúp việc cho Thống đốc có Nha Nội chính, Hội đồng tư mật, Hội đồng hình sự
Cơ quan tư pháp: Hội đồng hình sự,là Hội đồng tư vấn do Thống đốc đứng đầu gồm 4 ủy viên người Pháp, 2 ủy viên người Việt do Thống đốc chỉ định, 4 ủy viên dự khuyết và có thêm hai quan tòa. Hình luật của Pháp trở thành luật căn bản được sửa đổi và được áp dụng cho đến năm 1912. Từ năm 1883, bộ Dân luật Pháp cũng được sửa đổi để áp dụng. Pháp ban hành các bộ luật mới như Pháp chế điền địa (1925) và Pháp chế lao động (1936). Quyền tài phán tối cao là thuộc về Đại thẩm viện ở Paris. Để hổ trợ cho tòa án đại hình, hai nha chuyên môn được tổ chức là Sở hiến binh và Sở Mật thám[2].
2.1.2. Hệ thống chính quyền địa phương ở Nam Kỳ gồm có: Cấp Khu hành chính (Circonseription), cấp Tiểu khu hành chính (Arrondissement administratif), cấp Tổng, và cấp Xã.
Cấp Khu hành chính (Circonseription): Ngày 15-5-1882, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia Nam Kỳ ra thành 4 khu vực hành chính lớn (Circonscription administrative) là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xác. Ở mỗi khu vực hành chính lớn có 3 viên chức cùng phối hợp điều hành gồm Viên chức hạng nhất là người phụ trách tư pháp, trực thuộc Tổng Biện lý; Viên chức hạng nhì phụ trách hành chính trực thuộc Giám đốc Nội chính; Viên chức hạng ba phụ trách thuế khóa và trực thuộc Chánh chủ trì. Người đảm nhận chức vụ này phải tốt nghiệp trường tập sự (sau đổi là trường Thông ngôn). Sau khi bãi bỏ chức Chánh chủ trì và Giám đốc Nội chính thì 2 viên chức hạng nhì và hạng ba đều trực thuộc Thống đốc[3].
Cấp Tiểu khu hành chính (Arrondissement administratif): Mỗi khu vực hành chính đó lại được chia thành nhiều Tiểu khu hành chính.
- Khu Sài Gòn gồm 5 tiểu khu là Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa và Gia Định.
- Khu Mỹ Tho gồm 4 tiểu khu là Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Chợ Lớn.
- Khu Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu là Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc.
- Khu Bát Xắc gồm 6 tiểu khu là Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Ngày 18-12-1882, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách 2 tổng của Sóc Trăng và 3 tổng của Rạch Giá để thành lập tiểu khu Bạc Liêu, trực thuộc khu Bát Xắc. Từ 1-1-1900 tiểu khu được gọi là Tỉnh.
Như vậy vào thời điểm này, Nam Kỳ được chia thành 20 tỉnh[4], đứng đầu mỗi tiểu khu (hay tỉnh) là một viên quan cai trị người Pháp gọi là Công sứ. Tỉnh nào lớn có thêm Phó công sứ. Giúp việc cho chánh, phó công sứ có Sở tham biện và Hội đồng tiểu khu (Conseil d’arrondissement), đến ngày 1-1-1900 đổi tên gọi là Hội đồng hàng tỉnh.
Hội đồng hàng tỉnh, có chức năng tư vấn cho chính quyền cấp tỉnh. Ngoài các đại biểu đương nhiên gồm Đốc phủ sứ, Tri phủ, Tri huyện, các thành viên Hội đồng tiểu khu còn có đại biểu kỳ hào ở cấp tổng. Cứ mỗi tổng bầu một đại biểu vào hội đồng với tiêu chuẩn là từ 30 tuổi trở lên, chưa có tiền án, đã có hai năm làm việc làng, hoặc việc nước, không phải là viên chức đang hưởng lương. Về chức năng, nhiệm vụ thì cũng tương tự như Hội đồng thuộc địa, có khác là các nghị quyết của Hội đồng tiểu khu phải được Thống đốc Nam Kỳ chuẩn y thì mới được thi hành. Thống đốc có quyền giải tán Hội đồng.
Tỉnh có một hay nhiều trung tâm hành chính hay Sở đại lý. Đứng đầu các đơn vị này là các Đốc phủ sứ ở các trung tâm hành chính lớn, Tri phủ ở các trung tâm vừa và Tri huyện ở những trung tâm nhỏ.
Cấp Tổng: Mỗi Tiểu khu (Tỉnh) được chia thành nhiều tổng, đứng đầu mỗi tổng là chánh tổng và phó chánh tổng. Những chức vụ này do người Việt đảm nhận và được xếp vào ngạch nhân viên hành chính, được hưởng lương theo các hạng. Chánh, phó tổng do thanh tra chỉ định.
Cấp xã: Mỗi tổng được chia thành nhiều xã. Để lợi dụng bộ máy hành chính ở cơ sở, thực dân Pháp vẫn giữ nguyên bộ máy hành chính phong kiến ở làng, xã. Mỗi xã có xã trưởng, hương trưởng và Hội đồng Kỳ hào.
2.1.3. Chính quyền đô thị, gồm chính quyền thành phố Sài Gòn và chính quyền thành phố Chợ Lớn:
Chính quyền thành phố Sài Gòn: Thành phố Sài Gòn được thành lập theo nghị định số 53 của Thống đốc Nam Kỳ vào ngày 4 - 4 - 1867. Tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Sài Gòn được áp dụng giống như quy chế thị xã của Pháp. Ủy ban thành phố với nhiệm kỳ là hai năm có số lượng ủy viên là 13 người, do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm. Ngày 8-7-1869, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định 131 đổi tên Ủy ban thành phố thành Hội đồng thành phố (Conseil municipal). Đến ngày 8-1-1877, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập và nâng cấp Sài Gòn lên thành phố cấp I, cải tổ lại bộ máy chính quyền thành phố theo hướng có sự phân công giữa hai loại cơ quan quyết nghị (Hội đồng thành phố) và chấp hành (thị trưởng) có thẩm quyền riêng. Đứng đầu thành phố Sài Gòn là một viên Đốc lý (Maire) và có thể thêm hai viên Phó Đốc lý (Maire Adjoint), được lựa chọn thông qua bầu cử. Đốc lý là chủ tịch Hội đồng thành phố, có mọi quyền hành như quan đứng đầu tỉnh. Ở Sài Gòn vẫn còn các làng được quản lý theo lối hương thông như các tỉnh ở Nam Kỳ. Năm 1927, theo Nghị định ngày 31-1-1927, thành phố Sài Gòn được chia thành bảy hộ. Đứng đầu mỗi hộ là một hộ trưởng.
Chính quyền thành phố Chợ Lớn: Thành phố Chợ Lớn được thành lập theo Nghị định ngày 20-10-1879 của thống đốc Nam Kỳ và được xếp vào loại thành phố cấp II. Đứng đầu thành phố cũng là một viên Đốc lý có quyền hành như đốc lý thành phố Sài Gòn. Do chỉ là thành phố cấp II, nên Chợ Lớn chỉ có Ủy ban thành phố mà không có Hội đồng như thành phố Sài Gòn. Ngày 1 - 8 - 1903, Thống đốc Nam Kỳ ban hành nghị định chia thành phố Chợ Lớn thành 9 hộ, đứng đầu mỗi hộ là một hộ trưởng.
Chính quyền địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn: Ngày 27 - 4 - 1931, Toàn quyền Đông Dương đã ra sắc lệnh thiết lập một đơn vị hành chính tự trị lấy tên là Địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn trên cơ sở sáp nhập hai thành phố Sài Gòn, Chợ lớn và một số vùng xung quanh. Quản lý là một Quận trưởng và Hội đồng quản trị. Quận trưởng là một công chức do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm và là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Trong 10 năm đầu, chính quyền ở hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn vẫn còn tồn tại. Đến năm 1941, theo Nghị định ngày 19-12-1941, bộ máy quản lý riêng của hai thành phố mới giải tán và bộ máy quản lý Địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn chính thức là cơ quan quản lý chung. Bộ máy quản lý có người đứng đầu là Quận trưởng và Hội đồng quản trị. Địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn ra 18 hộ, mỗi hộ được đặt dưới sự điều khiển của một hộ trưởng do Quận trưởng bổ nhiệm.
Như vậy, hệ thống chính quyền của Pháp ở Nam Kỳ ra đời trên cơ sở xâm chiếm đến đâu thiết lập đến đó với mục đích củng cố những vùng mới kiểm soát và làm bàn đạp để mở rộng chiếm đóng. Từ những cơ cấu trung gian như khu và tiểu khu hành chính đến việc định hình cấp hành chính hàng tỉnh; từ chức năng hành chính-quân sự sang chức năng hành chính-dân sự; giữa hệ thống trục dọc từ trên xuống và trục ngang trong sự tương quan với các đơn vị hành chính khác trong Liên bang Đông Dương. Mô hình nhà nước pháp quyền theo nguyên tắc tam quyền phân lập bước đầu được Pháp áp dụng ở Nam Kỳ. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng đã được thể hiện rỏ trong tổ chức bộ máy cai trị ở Nam Kỳ, giúp phần nào hạn chế sự lạm quyền quá đáng của các viên quan cai trị.Chính quyền thực dân ở Nam Kỳ được thiết lập sớm nhất ở Đông Dương, có những quy định khác biệt so với Trung Kỳ và Bắc Kỳ như tính chất trực trị của chính quyền. Nếu như ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ chính quyền được điều hành như là một “lưỡng thể hành chính”: Ngoài sự điều khiển của chính quyền bản xứ còn có Khâm sứ và Thống sứ của Pháp bên cạnh mà quyền hành thực tế rất lớn mang tính gián tiếp, trong lúc ở Nam Kỳ người Pháp nắm và điều khiển trực tiếp từ cấp xứ đến cấp tỉnh. Người Việt có tham gia bộ máy cai trị cũng chỉ là các thành viên của hệ thống chứ không phải là một bộ máy chính quyền riêng. Pháp duy trì việc tổ chức chính quyền theo kiểu “tam quyền phân lập” có vẻ như là rất khoa học và dân chủ nhưng về bản chất, chính quyền chỉ là một công cụ của thực dân Pháp để nô dịch và thống trị nhân dân Nam Kỳ.
2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng, kỹ thuật
Để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, Pháp đã xây dựng các công trình đường giao thông, đường bộ, đường sắt, lập mạng lưới bưu điện, xây dựng các bến cảng, sân bay, các công trình nhà cửa… Nhiều nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền được thành lập nhưng chủ yếu là các ngành công nghiệp nhẹ, khai thác mỏ và các đồn điền, là những ngành đầu tư ít vốn, thu lợi nhuận nhanh và cao, không cạnh tranh với chính quốc. Pháp biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt cho chúng.
Với chính sách thuộc địa như vậy, thực dân Pháp đã gây ra những hậu quả nặng nề cho nhân dân ta. Nông thôn tiêu điều, xơ xác. Nông dân với gánh nặng tô tức, sưu thuế, bị mất hết ruộng đất dẫn tới bần cùng, phá sản, phải ra thành phố vào các hầm mỏ, nhà máy để kiếm việc làm, trở thành lao động làm thuê cho nhà tư bản.
Sự áp đặt các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong quá trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã làm thay đổi tính chất của xã hội Việt Nam và làm biến đổi cơ cấu các giai cấp, tầng lớp. Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân hoá thành tư sản dân tộc và tư sản mại bản. Tầng lớp trí thức, tiểu tư sản ra đời được đào tạo theo lối giáo dục phương Tây, trở thành những bác sĩ, kỹ sư, luật sư, giáo viên, công chức… Họ vừa chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây, vừa có tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, là một bộ phận của phong trào yêu nước chống chủ nghĩa thực dân. Giai cấp công nhân được hình thành từ sự đầu tư, khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, họ bị ba tầng áp bức, là lực lượng tham gia tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc.
2.3. Sự du nhập tư tưởng, tôn giáo Phương Tây vào Nam bộ Việt Nam
2.3.1. Chữ quốc ngữ - công cụ truyền bá tư tưởng, tôn giáo.
Cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, khi đặt chân đến Việt Nam các giáo sĩ đã sử dụng các âm và chữ viết của hệ thống chữ La tinh để sáng tạo ra một thứ chữ mới thuận tiện hơn cho việc truyền giáo chữ Quốc ngữ. Quá trình Latinh hóa tiếng Việt, mặc dù sử dụng hệ thống chữ La tinh nhưng tiếng Việt vẫn có những đặc điểm riêng: Bỏ bớt 4 trong số 24 chữ cái của hệ thống La tinh, là các chữ f, j, w, z. Tạo ra 6 chữ cái hoàn toàn mới là ă, â, đ, ê, ô, ơ. Tạo ra các kí hiệu để ghi 6 thanh điệu đó là: thanh ngang (không dấu), thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng.
Chữ quốc ngữ được nhiều giáo sĩ tham gia cải tiến ngày càng hợp lý hơn. Đến giai đoạn khoảng nữa đầu thế kỷ XVII, chữ quốc ngữ đã bước đầu hoàn thiện, không chỉ được phổ biến trong tầng lớp giáo sĩ mà đã lan đến các tầng lớp khác trong xã hội. Nhiều từ loại kỹ thuật, lịch sử, phong tục tập quán và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội được viết bằng chữ quốc ngữ.
2.3.2 Quá trình du nhập Thiên Chúa giáo
Cùng với những thương thuyền, các giáo sĩ dòng Tên đã sớm có mặt ở Đàng Trong. Đoàn truyền giáo Đàng Trong ra đời do Napoli F. Busomi và Diego Carvaiho người Bồ Đào Nha sáng lập, đã hoạt động khá tích cực trong việc truyền giáo và phát triển các xứ đạo ở vùng đất này.
Với giáo sĩ người Pháp, tháng 6 năm 1664, Chevreuil đến Đàng Trong, ông đã thuyết phục giám mục các địa phận ở Đàng Trong công nhận địa vị của giáo sĩ người Pháp như đại diện của Giáo hoàng thay thế các giáo sĩ người Bồ Đào Nha quản hạt ở Viễn Đông. Nửa đầu thế kỷ XVIII, một số linh mục dòng Tên hoạt động ở vùng Đồng Nam - Bà Rịa, trong đó nổi tiếng nhất là linh mục người Đức tên là Jean Grueber (1679-1741). Còn ở vùng Chợ Quán (Sài Gòn), Cái Nhum, Mặc Bắc (Vĩnh Long) có các linh mục dòng Phansinh Tây Ban Nha từ Manila sang.Tuy nhiên việc hoạt động của các giáo sĩ này đều nằm dưới sự điều hành của các thừa sai người Pháp.
Tín đồ đạo Thiên Chúa tại Nam Kỳ là những lưu dân đến từ các địa phương của Đàng Trong để tránh các vụ cấm đạo của các chúa Nguyễn. Họ đến vào nhiều thời điểm khác nhau, có xu hướng tìm đến người đồng đạo, hình thành nên những xóm đạo, nhằm thuận lợi trong việc cử hành chung các nghi lễ tôn giáo. Các xóm đạo nằm rải rác từ Bà Rịa, Đồng Nai… xuống tận Rạch Giá, Hà Tiên. Ngày 2 tháng 3 năm 1844, Giáo hoàng Gregorio XVI ban chiếu thư thành lập địa phận Đông và Tây Đàng Trong, giao cho giám mục Lefèbvre Ngai quản lý bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Gia Định, Định Tường, Long Hồ, An Giang, Hà Tiên và bao gồm cả xứ Cao Miên và một phần phía Nam Ai Lao.
Là những người có học vấn và được đào tạo một cách có bài bản, ngoài việc truyền giáo các giáo sĩ đồng thời đảm đương luôn nhiệm vụ truyền tải văn hoá và văn minh phương Tây đến những vùng đất mà họ Phúc âm hoá. Họ là cầu nối cho việc giao lưu, tiếp biến giữa văn minh phương Tây và Việt Nam. Với một vùng đất mới, cởi mở, người Đàng Trong đã nhanh chóng tiếp thu những thành tựu văn minh phương Tây.
2.3.3 Sự du nhập tư tưởng
Sự du nhập tư tưởng dân chủ tư sản
Quá trình du nhập những nhân tố của văn minh phương Tây vào Việt Nam nói chung và Nam bộ nói riêng thông qua giáo dục góp phần đào tạo ra một đội ngũ trí thức Tân học - những người đón nhận, tiếp thu tư tưởng tư sản châu Âu thời cận đại.
Phong trào cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do Phan Bội Châu khởi xướng với phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân đã được hưởng ứng sôi nổi ở Nam Kỳ. Ngay từ trước khi thành lập Duy Tân hội, đầu năm 1904, Phan Bội Châu vào Nam Kỳ bắt liên lạc với nhà sư Trần Thị đang trụ trì tại chùa Thất Sơn (An Giang) và ông hội đồng Nguyễn Thành Hiến, một nhà yêu nước ở Sa Đéc. Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng đã thu hút nhiều thanh niên Nam Kỳ tham gia, trong đó có con em những gia đình quan lại. Số học sinh Nam Kỳ tham gia đông bằng số học sinh Bắc Kỳ và Trung Kỳ cộng lại. Phong trào Duy tân với những người khởi xướng là Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng cũng đã được hưởng ứng ở Nam Kỳ.
Bằng các con đường khác nhau, tư tưởng dân chủ tư sản đã được xâm nhập vào Nam Kỳ đã làm thay đổi quan niệm và lối sống của người dân ở đây. Nổi bật trong tư tưởng dân chủ tư sản là tư tưởng về nhân quyền và dân quyền, tư tưởng tự do trong lối sống, tự do ngôn luận và tự do báo chí; thay đổi quan niệm về giá trị như đề cao cá nhân, đề cao giá trị vật chất; duy tân và cải cách đất nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản; thiết chế tổ chức xã hội theo mô hình nhà nước phương Tây và các quan niệm, lối sống tư sản…
Sự truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa
Bên cạnh tư tưởng dân chủ tư sản, ở Nam Kỳ trong nửa sau thập niên 20 của thế kỷ XX, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã được công khai truyền bá. Không chỉ được tuyên truyền bằng con đường bí mật do những học trò của Nguyễn Ái Quốc thực hiện, còn có sự truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa một cách công khai bởi một số trí thức yêu nước từ Pháp về.
Người đầu tiên công khai truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Nam Kỳ là Phan Văn Trường. Sống ở Pháp từ cuối năm 1908, Phan Văn Trường đỗ cử nhân văn chương và tiến sĩ luật khoa, làm luật sư tại tòa thượng thẩm Paris. Ông hoạt động trong Hội liên hiệp thuộc địa và Ban nghiên cứu thuộc địa (của Đảng cộng sản Pháp), viết bài cho báo Le Paria. Về nước cuối tháng 12-1923, Phan Văn Trường làm chủ nhiệm báo La Cloche Fêlée, sau đổi tên thành L’Annam (6-5-1926). Trên tờ báo này, Phan Văn Trường thể hiện quan điểm của mình: “không đời nào chủ nghĩa tư bản lại muốn giải phóng các dân tộc thuộc địa”[5], có nghĩa là muốn đất nước độc lập và dân tộc tự do, nhất thiết phải chống chủ nghĩa tư bản, phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhiều cột báo ông dành để đăng lại những bài của báo Le Paria (Người cùng khổ) của Hội liên hiệp thuộc địa, L’Humanité (Nhânđạo) của Đảng cộng sản Pháp, Correspondance Internationale (Thư tín quốc tế) của Quốc tế cộng sản… Từ số 53 (29-3-1926) đến số 60 (26-4-1926) của tờ La Cloche Fêlée, Phan Văn Trường cho đăng toàn văn bản dịch tiếng Pháp Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của K.Marx và F. Engels. Đây là một sự kiện độc đáo, lần đầu tiên trên thế giới, văn kiện quan trọng của chủ nghĩa cộng sản được phổ biến một cách công khai và rộng rãi ở một nước thuộc địa.
Cao Triều Phát, người sáng lập và được bầu làm đảng trưởng của Đông Dương Lao động Đảng, tốt nghiệp kỹ sư nông học. Trong chiến tranh thế giới I, ông làm thông ngôn trong một đơn vị lính thợ Việt Nam và bị Pháp đưa sang “mẫu quốc”. Ông thường tiếp xúc với tổ chức tiến bộ như Tổng liên đoàn lao động Pháp, Đảng xã hội Pháp, Đảng cộng sản Pháp… để tìm hiểu những hoạt động của công đoàn và các chính đảng người lao động Pháp. Khi về nước, ông thành lập Đông Dương lao động Đảng vào ngày 12-1-1926.
Hai tờ báo của Đông Dương lao động Đảng là Nhựt tân báo và L’Ère Nouvelle - đả kích mạnh mẽ thực dân Pháp và tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản: “Chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao cả đối với con người”; “Ngoài chủ nghĩa xã hội của Karl Marx ra, không còn phương tiện nào khác. Mọi thanh niên đều ủng hộ việc áp dụng học thuyết của Karl Marx”[6]. Các tờ báo nói trên đã tiếp bước tờ Le Paria và đồng hành cùng tờ Thanh niên mà Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ở Paris và Quảng Châu. Đây là một hiện tượng đặc biệt chỉ thấy có ở Nam Kỳ, ghi đậm một nét son vào lịch sử của mảnh đất phương Nam Tổ quốc.
Sau khi Luật hiệp hội ra đời, ở Nam Kỳ có nhiều chính Đảng được thành lập như Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Đảng dân chủ của Nguyễn Văn Thinh, Đông Dương lao động Đảng (Parti travailliste indochinois) của Cao Triều Phát... Tất nhiên, những Đảng chống Pháp như Đảng Cộng sản... thì bị cấm, phải hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Sau khi đến Quảng Châu (tháng 11-1924), Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khóa học, các học viên được cử về nước để gieo mầm xã hội chủ nghĩa trên khắp ba miền. Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin ở Nam bộ cũng đã diễn ra trên báo chí công khai.
Như vậy, khi tiếp xúc với nền văn minh Phương Tây người Nam Kỳ đã làm quen và tiếp nhận những luồng tư tưởng mới đó là tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng tiến bộ theo con đường “tân văn” đã vào nước ta, được các nhà cách mạng thức thời chủ trương đổi mới để phát triển đất nước. Những tư tưởng dân chủ tư sản tuy chưa “ăn sâu bén rễ” ở trong toàn bộ các giai cấp, tầng lớp xã hội nhưng những nội dung tiến bộ như đề cao quyền con người, chú trọng phát triển văn hóa, phát triển giáo dục… đã bước đầu làm thay đổi những “hệ giá trị” truyền thống của nhân dân Nam bộ.
2.4.Sự du nhập nền giáo dục Phương Tây
Trước khi Pháp xâm chiếm, dưới chính quyền nhà Nguyễn, vẫn duy trì một nền giáo dục Nho giáo “đã quá cũ kỹ và rập khuôn nền giáo dục phong kiến Trung Quốc”[7] không đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Sau khi xâm chiếm Nam Kỳ, hiểu được sức mạnh của giáo dục, Pháp đã sử dụng giáo dục như là một công cụ để phục vụ công cuộc thống trị và khai thác thuộc địa.
2.4.1. Giáo dục Nam Kỳ giai đoạn từ năm 1861 đến năm 1916.
Ngày 21 tháng 9 năm 1861, đô đốc Charner đã ký nghị định thành lập Trường thông ngôn Bá Đa Lộc (Évque d’Adran) để dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy tiếng Việt cho người Pháp nhằm đào tạo những thông dịch viên cho quân đội Pháp và thư kí làm trong các cơ quan hành chính. Ngày 19-7-1871, Đô đốc Dupre cho thành lập trường sư phạm thuộc địa tại Sài Gòn để đào tạo giáo viên và nhân viên công sở. Năm 1874, Pháp cho thành lập trường Hậu bổ nhằm đào tạo những thanh tra dân sự.
Ngày 16-7-1864, Grandière ra nghị định tổ chức các trường tiểu học ở các tỉnh để dạy chữ quốc ngữ và toán pháp, thầy giáo là một số thông dịch viên. Sau khi tốt nghiệp, các học sinh được phép về làng mình mở trường dạy học. Năm 1874, trường Chasseloup Laubat được thành lập. Thực dân Pháp còn cho thành lập các trường dòng để thu hút các học sinh là giáo dân vào học và đào tạo họ thành những thông ngôn, thư kí.
Năm 1874, Pháp ban hành bản quy chế giáo dục đầu tiên của Pháp ở Nam Kỳ, chia giáo dục ra hai bậc, tiểu học và trung học. Quy chế 1874 tỏ ra kém hiệu quả nên đến tháng 3-1879, Lafont ký quyết định ban hành Quy chế mới, theo đó hệ thống giáo dục được chia làm ba cấp: Trường hàng tổng (cấp I), trường hàng quận (cấp II), trường tỉnh, trường trung học (cấp III). Các trường đều đặt dưới sự quản lý của Sở Nội vụ và các chủ tỉnh. Mỗi trường cấp I có một hiệu trưởng người Pháp; trường cấp II có 2 giáo viên người Pháp và một giáo viên người Việt ; trường cấp III có 4 giáo viên người Pháp và một giáo viên người Việt.
Trong 25 năm đầu tổ chức giáo dục Nam kỳ, người Pháp đã tập trung vào hai mục tiêu cơ bản là đào tạo thông dịch viên và viên chức phục vụ quân đội xâm lược và bộ máy chính quyền trong các vùng đất mới chiếm đóng và bước đầu đưa nền giáo dục mới từ châu Âu vào Nam bộ tiến tới xoá bỏ nền giáo dục cũ.
Giai đoạn từ năm 1886 đến năm 1916, Toàn quyền P. Beau đưa ra một chương trình cải cách giáo dục toàn diện, Cải cách giáo dục lần thứ nhất của Pháp tại Việt Nam thông qua các nghị định ngày 8-3 và ngày 6-5-1906. Tháng 11 năm 1905, thành lập Nha học chính Đông Dương để tiến hành cải cách giáo dục. Theo Cải cách này, hệ thống giáo dục của Nam Kì thay đổi có hai loại trường: hệ thống trường Pháp - Việt là những trường chủ yếu dạy bằng hai ngôn ngữ là tiếp Pháp và chữ quốc ngữ, được chia làm hai bậc tiểu học và trung học; hệ thống trường chữ Hán được chia làm 3 cấp học: ấu học, tiểu học và trung học.Lúc đầu các trường dùng tờ Gia Định báo làm sách tập đọc, sau đó họ đưa sách giáo khoa từ Pháp sang nhưng kết quả cũng rất hạn chế. Sau đó cơ quan học chính Nam Kỳ đã cho biên soạn một số sách giáo khoa dùng để dạy trong các trường tiểu học.
2.4.2. Giáo dục Nam Kỳ giai đoạn 1917 - 1945
A. Sarraut đã cho ban hành bộ Học chính tổng quy vào tháng 12 năm 1917, thay đổi cơ bản hệ thống giáo dục ở Nam Kỳ, do vậy bộ Học chế được coi như Cải cách giáo dục lần thứ hai. Theo bộ Học chế này, hệ thống trường học chia làm hai loại: trường Pháp dạy cho học sinh người Pháp theo chương trình “chính quốc” và trường Pháp - Việt dạy cho người Việt theo chương trình “bản xứ”. Hệ thống giáo dục Việt Nam chia làm ba cấp: Đệ nhất cấp có Tiểu học; Đệ nhị cấp có Trung học; Đệ tam cấp có Cao đẳng và đại học. Ngoài ra còn có các trường dạy nghề (trường thực nghiệp) tương ứng với các bậc tiểu học và trung học. Đội ngũ giáo viên gồm những người có bằng sơ học yếu lược hoặc bằng khóa sinh chỉ cần có lời cam đoan tuân theo luật lệ của làng xã trong việc dạy dỗ con em là có thể dự tuyển làm giáo viên.
Khóa thi hương cuối cùng ở Nam Kỳ là vào năm 1815, ở Trung Kỳ là khóa thi năm 1918. Ngày 14-6-1919, nhà Nguyễn đã tuyên bố bỏ hoàn toàn trường chữ Hán và thay vào đó là hệ thống trường Pháp - Việt. Năm 1933, thành lập Bộ quốc gia Giáo dục, về hình thức, nền giáo dục vẫn do hai cơ quan quản lý, nhưng thực chất Bộ quốc gia Giáo dục chỉ quản lý bậc tiểu học ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, còn lại toàn bộ hệ thống giáo dục vẫn do Pháp quản lý. Đến lúc này, hệ thống giáo dục được tổ chức lại theo hai bậc tiểu học và trung học. Nam Kỳ thuộc Pháp nên giáo dục có khác với Trung Kỳ và Bắc Kì, chỉ có chương trình Pháp. Tuy nhiên trong các trường Pháp có chia thành hai khu: Khu Pháp chuyên học bằng tiếng Pháp, khu bản xứ có học thêm chương trình Việt văn, nhưng cuối học kì không thi lấy tú tài bản xứ như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Trong bối cảnh nền giáo dục Nho giáo đang hồi suy tàn với một lối dạy học lạc hậu, nội dung phiến diện không đáp ứng được yêu cầu đào tạo nhân tài cho đất nước thì nền giáo dục phương Tây đã đưa đến những yếu tố mới cho giáo dục về nội dung và hình thức. Giáo dục Nam Kỳ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức Tây học chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp, nhưng cũng rất tinh thông Nho học. Họ là những người trực tiếp truyền bá khoa học và tư tưởng dân chủ phương Tây vào Nam Kỳ. Tuy vậy, nền giáo dục Nam Kỳ thời Pháp thuộc vẫn là một nền giáo dục thực dân, phục vụ cho mục đích cai trị, gieo rắc những tư tưởng nô dịch, tuyên truyền cho văn hóa, tư tưởng của “mẫu quốc.
3. Đặc điểm của quá trình du nhập văn minh phương Tây vào Nam bộ Việt Nam
3.1. Quá trình du nhập văn minh Phương Tây ở Nam bộ cũng nằm trong tiến trình chung của quá trình tiếp biến, giao lưu văn hóa, văn minh nhân loại trong thời cận đại. Khi loài người đã phát triển đến một trình độ nhất định, nhu cầu giao lưu văn hóa trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Những điều kiện cho quá trình giao lưu đó cũng đã được chuẩn bị sẵn để con người có thể vượt qua đèo cao, sông sâu, sa mạc mênh mông và sau đó là vượt đại dương đến những vùng đất mới. Trong thời cận đại, chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển có nhu cầu tự thân phải mở rộng thị trường để tiêu thụ hàng hóa và thu mua nguyên liệu. Quá trình xâm chiếm thuộc địa và cướp bóc thuộc địa đã diễn ra và cùng với nó là quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa văn minh đã diễn ra trên một phạm vi rộng lớn.
3.2. Quá trình du nhập văn minh Phương Tây vào Nam bộ Việt Nam được diễn ra với một quá trình lâu dài từ thế kỷ XVI khi hoạt động truyền giáo các nhà truyền giáo và việc giao thương buôn bán diễn ra ở Việt Nam. Tuy nhiên phải đến sau khi thực dân Pháp xâm lược và áp đặt ách thống trị ở Việt Nam thì quá trình này mới được đẩy mạnh ở Nam Kỳ.
3.3. Quá trình du nhập văn minh phương Tây vào Nam bộ Việt Nam như một dòng chảy của văn minh từ một khu vực có nền văn minh phát triển hơn đến một vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa nhưng đang ở một phương thức sản xuất có trình độ thấp hơn. Đó là một quá trình tiếp nhận văn minh vừa áp đặt vừa tự nguyện. 3.4 Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa, văn minh ở Nam Kỳ diễn ra sớm và toàn diện hơn các vùng khác trong nước ta. Sau khi xâm chiếm 3 tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Kỳ thực dân Pháp đã thành lập chính quyền thực dân ở đây, biến Nam Kỳ thành vùng đất của Pháp – Đông Pháp, thực hiện chế độ trực trị ở đây. Cùng với quá trình này những yếu tố văn minh Phương Tây bắt đầu du nhập mạnh mẽ vào Nam Kỳ Việt Nam. Nếu không tính thời gian trước khi thực dân Pháp xâm lược, thì quá trình du nhập văn minh vào Nam Kỳ diễn ra sớm hơn các vùng còn lại ở Việt Nam và do là vùng đất trực trị của thực dân Pháp nên quá trình du nhập văn minh ở đây diễn ra khá nhanh chóng, toàn diện và sâu sắc.
3.4. Nhìn xuyên suốt cả tiến trình và đặc biệt là từ sau khi Pháp đặt ách xâm lược và thống trị nhân dân Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng thì quá trình du nhập văn minh Phương Tây vào Nam Kỳ Việt Nam là sự song hành hai quá trình xâm lược và du nhập văn minh. Những thành tựu văn minh mà nhân dân Nam bộ có được là hệ quả khách quan của quá trình áp đặt ách thống trị của thực dân Pháp, nằm ngoài mục đích của thực dân Pháp, nó như là một phương tiện để thực hiện chính sách khai thác, bốc lột của chủ nghĩa thực dân chứ không phải là “sứ mệnh” khai hóa như một số nhà thực dân đã từng tuyên bố.
3.5. Quá trình du nhập văn minh Phương Tây vào Nam Kỳ Việt Nam là một quá trình diễn ra trong nhiều thế kỷ nhưng mạnh mẽ nhất là từ sau khi Pháp xâm lược nước ta và tiến hành hai chương trình khai thác thuộc địa. Điểm nổi bật của quá trình du nhập văn minh vào Nam Kỳ Việt Nam đã diễn ra một cách mạnh mẽ và sâu sắc hơn các khu vực khác nhưng người Nam Kỳ đã biết chọn lọc và tiếp thu những gì là thiết thực và loại bỏ những gì không có lợi cho mình và cho cộng đồng để làm giàu thêm vốn văn hóa của mình để phát triển.
3.6.Mặc dù quá trình tiếp nhận văn minh phương Tây diễn ra trong bối cảnh bị xâm lược nhưng so với các giai đoạn trước, thì đây là một thời kỳ mà người Nam bộ đã chứng kiến những thành tựu văn minh phương Tây một cách trực tiếp nhất, có những hiểu biết về phương Tây một cách toàn diện nhất trên các lĩnh vực, giúp cho quá trình gần gủi, hiểu biết rồi đi tới hòa nhập với thế giới bên ngoài.
Tóm lại, với gần một trăm năm đô hộ nước ta, trong đó cai trị Nam Kỳ với chế độ trực trị, thực dân Pháp tiến hành khá toàn diện các chính sách và biện pháp về kinh tế, văn hóa, giáo dục vừa gây nên những hậu quả nặng nề cho nhân dân ta vừa mang lại những hệ quả khách quan cho sự thay đổi ở Nam Kỳ. Những hệ quả khách quan là nằm ngoài mục đích của chủ nghĩa thực dân. Nhân dân Nam Kỳ đã biến những thảm họa thành cơ hội để tiếp nhận những thành tựu văn minh Phương Tây, làm giàu thêm kho tàng văn hóa của mình để phát triển.
[1] Còn có tên gọi khác là Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
[2] Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb. Văn Học, Hà Nội, tr.135 – 137.
[3] Dương Kinh Quốc, Sđd, tr.89.
[4] Các tỉnh đó là Biên Hòa, Tân An, Bà Rịa, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Hà Tiên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Vĩnh Long. Có hai thành phố là Sài Gòn và Chợ Lớn.
[5] Báo Thần Chung, số 210, ngày 20 - 9 - 1929.
[6] L Era Nouvelle số 18 (16 - 10 - 1926), dẫn theo Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1930, Nxb. Trí Đăng, Sài Gòn, tr.37.
[7] Phan trong Báu (2006), Giáo dục Việt nam thời cận đại, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr.32.
Nguồn: sites.google.com