1. Với quá trình khẩn hoang - định cư, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội dần được khai mở. Ngoài sự phát triển văn chương[1], giáo dục[2], âm nhạc Tài tử[3] từng bước cũng được hình thành. Trên bình diện sân khấu, công của các nhạc quan triều Nguyễn và những Nho sĩ xuôi phương Nam là mở ra một loại hình âm nhạc mới thích hợp với con người và vùng đất để các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân tiếp nối hoàn thiện, cải biến hình thành nên loại hình sân khấu Cải lương. Loại hình này đã đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của hầu hết công chúng Nam Bộ. Vì vậy, vai trò mở đầu tiên phong của Nhạc sư Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) càng được công chúng đời sau ngưỡng mộ và biết ơn.
2. Thực tế lịch sử cho thấy, quá trình hình thành và phát triển sân khấu Cải lương gắn liền với quá trình khai mở đất phương Nam. Tuy quá trình phát triển Cải lương đến sau quá trình khai mở đất, chỉ hơn 100 năm so với trên 300 năm mở đất. Dẫu có ít thăng trầm hơn quá trình khai khẩn, nhưng sự thăng trầm sân khấu không phải là không có, bởi nó tùy thuộc nhiều vào quá trình lao động: “có thực mới vực được đạo”; có được đời sống ấm no, con người mới có điều kiện vui chơi, giải trí, chăm lo phát triển văn chương, âm nhạc, sân khấu. Do vậy, quá trình phát triển văn hóa - xã hội, hình thành sân khấu Cải lương, đi sau quá trình khai khẩn đất Nam Bộ cũng là tất yếu.
2.1. Khái quát tiến trình Cải lương, ở thời điểm nửa cuối thế kỉ XIX, tại Nam Bộ, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, thương mại; công nghiệp cũng bước đầu phát triển và đặc biệt là sự phát triển giáo dục, văn hóa, xã hội theo hướng tiếp cận với phương Tây, chữ Quốc ngữ. Hát bội và những sinh hoạt văn hóa tinh thần của quần chúng lao động là câu hò, điệu lý mang chất nhạc dân gian, cùng những bài bản nhạc Lễ, Nhã nhạc từ cung đình Huế theo các quan nhạc[4] được phổ biến, cải tiến và có xu hướng công diễn. Loại hình âm nhạc kết hợp bác học và dân gian bắt đầu xuất hiện ở các cuộc gặp gỡ, giao lưu có cả vui lẫn buồn, nhằm phục vụ cho nhu cầu “quan, hôn, tang, tế”[5], đặc biệt là các dịp Kỳ Yên[6]. Chính nhờ môi trường thông thoáng diễn xuất, tiếp nhận, giao lưu, cải biên… và nhu cầu diễn ra công chúng, nhiều hơn là gói gọn phục vụ cho sinh hoạt triều đình hoặc cho nội bộ mà dần hình thành nên một loại nhạc gần gũi với người bình dân, phục vụ cho giới bình dân gọi là nhạc Tài tử. Tuy nhiên nhạc Tài tử lúc đầu ít bài bản cũng như hơi điệu, chỉ có hai điệu Bắc và Nam cùng một số bài bản hơi Ngự của ca nhạc Huế.[7] Thời gian luân chuyển, đờn ca Tài tử Nam Bộ dần dà xuất hiện rộng rãi hơn, quy tụ nghệ nhân thành những ban đờn ca Tài tử địa phương để đến những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhạc Tài tử bắt đầu phát triển mạnh ở cả hai miền Nam Bộ.
Nhưng để có được phong trào nhạc Lễ kết hợp âm nhạc dân gian phát triển thành nhạc Tài tử, giới chuyên môn[8] ghi nhận đóng góp của hai tên tuổi lớn là ông Nguyễn Quang Đại[9] (Ba Đợi) và ông Trần Quang Quờn[10] (Kinh lịch Quờn). Chính từ sự truyền dạy của hai ông mà hình thành 2 nhóm nhạc Tài tử trên cơ sở thu nạp đệ tử và thi đua sáng tác bài bản mới. Rồi từ những nhóm này, nhanh chóng phát triển thành những nhóm khác ở các tỉnh Nam Bộ. Cũng theo giới chuyên môn, trong quá trình phát triển ca Tài tử, có 3 tên tuồi tiêu biểu có đóng góp lớn cho việc hình thành lối trình diễn ca ra bộ[11], được cho là tiền thân của sân khấu Cải lương.
2.2. Về nhạc Tài tử, các công trình nghiên cứu đều tập trung nói về sự phát triển nhạc Tài tử ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX trên cả hai miền Nam Bộ: miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Ở miền Đông có công đóng góp lớn của ông Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi), nhạc quan triều Nguyễn và ở miền Tây có công đóng góp của Kinh lịch Trần Quang Quờn (thầy kí Quờn). Nhìn chung, hai ông có công truyền bá, cải biên Nhã nhạc kết hợp với nhạc dân gian để tạo nên dòng nhạc Tài tử, phù hợp với hoàn cảnh và con người đất phương Nam; Đồng thời, các ông còn đào tạo ra hàng loạt những thế hệ môn sinh là những người thầy kế tục cho sự phát triển nền âm nhạc cổ truyền. Bên cạnh, cũng có thể kể đến vai trò của hậu tổ Lê Tài Khí (nhạc Khị), người đã có công phát triển nhạc Tài tử ở vùng đất Bạc Liêu - Cần Thơ, quê hương nhạc Tài tử của các tỉnh miền Tây sông Hậu trên cả hai phương diện sáng tác và đào tạo người đam mê kế tục.
2.3. Sự phát triển nhạc Tài tử ở miền Đông và Nam Bộ, đặc biệt là vùng miền Đông đều có lớp môn sinh của ông Nguyễn Quang Đại. Ở huyện Cần Đước, tỉnh Long An, người dân rất tự hào bởi nơi đây tuy không là nơi sinh của nhạc sư Nguyễn Quang Đại; nhưng nơi này đã từng là chốn dừng chân sinh sống, truyền dạy nhiều thế hệ đệ tử và nghiên cứu sáng tác âm nhạc của ông. Bởi đó, người ta xem vùng đất này là đất Tổ, đất đã khai sáng bộ môn đờn ca Tài tử và nhạc Lễ Nam Bộ.
Nói về gia thế của nhạc sư, rất tiếc đến nay không có tư liệu nào ghi rõ, đầy đủ lai lịch của ông. Địa chí Long An[12] cho biết rằng, thời phong trào Cần Vương chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX nổ ra, nhạc quan Nguyễn Quang Đại của triều đình Huế từ bỏ cung đình vào đất phương Nam tham gia kháng chiến. Trong thời gian này, ông là người cách tân nhạc Lễ cung đình kết hợp với dân nhạc miền Trung để tạo ra dòng nhạc mang đậm màu sắc phương Nam mà ngày nay chúng ta gọi là nhạc Tài tử Nam Bộ. Nhạc sư Nguyễn Quang Đại lúc cuối đời đến sống ở Cần Đước - Cần Giuộc, từng trú ngụ tại chùa Tôn Thạnh vì yêu áng hùng văn “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu, đồng hương xứ Huế với ông. Sau đó, ông về sống ở nhà một người dân tại vùng chợ Trạm (Cần Đước) dạy nhạc Lễ, Tài tử cho bà con trong vùng. Danh tiếng ông vang xa: học trò nhiều nơi ở miền Tây Nam Bộ đến học ca, học đàn tranh, đàn kìm, đàn nhị…
Do vậy, người đời chỉ biết đại lược thì Đức nghệ nhân Nguyễn Quang Đại vốn là một quan nhạc của triều đình nhà Nguyễn. Vào cuối thế kỷ XIX, hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp, ông đã vô Nam truyền dạy nhạc Tài tử và nhạc Lễ[13] Nhưng để nhớ ơn ông, hàng năm, vào ngày 19 tháng Giêng âm lịch, người dân Cần Đước nói riêng, người dân Nam Bộ nói chung quy tụ về địa phương này để cung kính làm lễ húy kỵ cho nghệ nhân Nguyễn Quang Đại. Trong dịp này, nhiều đoàn ca nhạc Tài tử từ khắp nơi trong cả nước cũng về đình Vạn Phước, xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước để thờ phượng, dự lễ, giao lưu, ca hát để hâm nóng truyền thống trăm năm đờn ca: nhạc Tài tử - ca ra bộ - sân khấu Cải lương của Nam Bộ. Có thể xem đây là ngày giỗ Tổ của ngành.
(Linh vị nhạc sư Nguyễn Quang Đại được thờ tại đình Vạn Phước, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Nguồn: www.vietlandmarks.com)
Về công nghiệp của nhạc sư Nguyễn Quang Đại, giới chuyên môn và công chúng ghi nhận 2 mảng sự nghiệp lớn của ông: 1. Đào tạo các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân kế tiếp; 2. Sáng tác, cải biên và hệ thống hóa các bài bản nhạc Tài tử.
2.4. Về sự nghiệp đào tạo, nhạc sư Nguyễn Quang Đại đã có công lớn đào tạo được nhiều thế hệ nghệ sĩ kế thừa, nhất là thế hệ đầu tàu. Thế hệ này sau khi lĩnh hội được những bài bản của thầy truyền dạy đã mang vốn kiến thức âm nhạc ấy về truyền dạy lại cho lớp đàn em. Theo Trương Quốc Phong, có nhiều nơi mà nhạc sư Nguyễn Quang Đại đã từng mở lớp truyền dạy và có đệ tử chân truyền, gồm: “Tại Đa Kao (Sài Gòn), xóm hàng dừa trước cổng Lăng Ông Bà Chiểu, quận Bình Thạnh, ông đào tạo các nhạc sĩ lừng danh lúc bấy giờ là Sáu Thới và Tám Hạnh. Ông Sáu Thới (tức Lại Văn Thới) sau đó tiếp tục truyền dạy cho các học trò của mình là Giáo Thinh (tức Nguyễn Văn Thinh), rồi Tư Nghị, Năm Cần... Tại Cần Đước, Cần Giuộc (Long An), nhạc sư Nguyễn Quang Đợi truyền dạy và đào tạo được các nhạc sĩ tài ba như: nhạc Láo, nhạc Thời, Hai Bầu, Hai Tò Le, Ba Đống, Năm Khiết, Năm Quýnh, Năm Tịnh, Năm Xem, Sáu Giỏi, Sáu Thoàn, Bảy Lung, Chín Chiêu, Mười Hai Dương, xã Năm... Tại Đồng Nai, ông cũng có những môn đệ như Văn Kiên (kèn), Võ Phải (trống) lừng danh trong giới nhạc Lễ. Ở Sông Bé (Bình Dương) có Sư Dung, Út Búng, Út Lăng...” [14]. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, tại Bến Tre và một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhiều truyền nhân của nhạc sư Nguyễn Quang Đại.
2.5. Về sự nghiệp nghiên cứu, ngoài sự nghiệp truyền nghề, nhạc sư Nguyễn Quang Đợi còn là người có công chỉnh sửa 7 bài nhạc Lễ. Theo nhạc sĩ Minh Lời: “7 bài nhạc Lễ này cùng hệ thống với điệu thức Bắc nhưng dùng chữ nhạc “Xề - Ú” làm âm chủ. 7 bài nhạc Lễ có cấu trúc chữ đờn đối nghịch với hơi điệu Bắc và nhất là phải lên dây nhạc hay đờn theo hơi nhạc Lễ thì mới có được hơi Hạ.”[15]. Ông còn là người chỉnh sửa 4 bản Bắc: “Bình bản, Cổ bản, Lưu thủy, Phú lục” của ca nhạc Huế thành những bản đờn mang hơi điệu phong cách Tài tử Nam Bộ. Mặt khác, ông cũng là tác giả của các bản: “Hồ lan, Kim tiền bản, Ngự giá, Song phi hồ điệp, Vạn liên” được giới chuyên môn gọi là bộ Ngũ châu và đặc biệt là việc “sáng tác 8 bản Ngự để giới thiệu với khác mộ điệu nhân dịp cung nghinh vua Thành Thái vào Sài Gòn (1898-1899), gồm: “Đường Thái Tôn, Vọng phu, Chiêu Quân, Ái tử kê, Bát man tấn công (có hơi Bắc Ngự), Tương tư, Duyên kì ngộ (có hơi Ai Ngự), Quả phụ hàm oan (có hơi Ai-Oán Ngự).” [16]. Theo Trương Quốc Phong, ông Ba Đợi còn là người đã có công hệ thống hơi điệu Tài tử thành bốn điệu Bắc, Nam, Hạ, Oán (20 bài bản tổ) và cải biên nhạc cung đình, sáng tạo ra nhạc Lễ miền Nam. Với vai trò là trưởng nhóm nhạc Tài tử miền Đông, ông đã cùng với ông Kinh Lịch Trần Quang Quờn ở miền Tây đã làm cho kho tàng bài bản Tài tử thêm phong phú.”[17].
2.6. Nhận định về những đóng góp to lớn của nhạc sư Nguyễn Quang Đại trong nghiên cứu âm nhạc, đặc biệt là sự cải biến ở 20 bài bản Tổ, nghệ nhân Nguyễn Tấn Nhì, nhận định: “Điệu Nam gồm có 3 bản: Nam xuân, Nam ai và Nam đảo (Đảo ngũ cung) cấu trúc bằng 5 âm chánh: Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, nhưng nhấn và rung ở những chữ: Xừ, Xang, Xê, Cống. Những láy đờn thường gói gọn trong một ngũ cung. Ba bản nhạc này có 3 âm sắc khác nhau: 1. Nam xuân, trong ca Huế, Nam xuân là biến thể của Nam bình. Ở nhạc Tài tử, ông Ba Đợi cải biên, thêm câu, sửa nhịp, đã trở thành bản mới, được chọn làm tiêu biểu cho hơi xuân với tính chất ung dung, nhẹ nhàng, man mác vì chỉ nhấn và rung nhẹ ở chữ Xừ, Xang, Xê. Âm chủ của hơi xuân là Xàng Xang. 2. Nam ai được ông Ba Đợi cải biên từ bản Nam ai của ca nhạc Huế. Nhấn và rung mạnh ở chữ Xự, Xang và qua Lớp Mái nhấn và rung mạnh chữ Cộng, nên điệu nhạc nghe buồn thảm, tỉ tê, bi lụy và nức nở vì có những nhịp đảo phách trong lòng câu. 3. Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung), được ông Ba Đợi viết mới. Cấu tạo bởi 2 hơi Xuân và Bắc cùng hơi Dựng. Nam Đảo hình thành trên thang âm Hò, Xự, Xang, Xê, Cống và cấu trúc câu đều có sự đảo lộn trên 5 cung, lại xen lẫn với điệp khúc Xề Ú Liu Phan, nghe như có sự đảo cung từ hơi dây này sang hơi dây kia. Từ bản Nam ai chuyển sang bản Đảo ngũ cung, dòng nhạc biến đổi tính chất khẩn trương, quyết liệt.” [18].
Với 4 bản điệu Oán, một điệu đặc thù được sáng tạo tại đất Nam Bộ, gồm: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Cầu, Cửu Khúc Giang Nam và Phụng Cầu Hoàng Duyên, thì công của nhạc sư Nguyễn Quang Đại không nhỏ. Nguyễn Tấn Nhì có ý kiến như sau: “Ông Ba Đợi chuyển hơi, chuyển cung và phát triển bản Tứ đại cảnh của ca nhạc Huế từ hơi Bắc dựng thành hơi Oán. Giai đoạn đầu, khoảng cuối thế kỷ 19, bài bản Tài tử có thêm một bản có hơi Oán và đó là bản Tứ đại vắn cũng còn gọi là bản Tứ đại cảnh Nam phần nhịp tư. Tiếp theo, đầu thế kỷ 20, bản Tứ đại vắn được phát triển từ nhịp tư sang nhịp 8, được phân câu, phân lớp, nhịp nội, nhịp ngoại, gỏ mô, đờn chầu thì hơi điệu Oán mới xứng danh là một điệu riêng biệt với hơi Ai của điệu Nam. Điệu Oán có cấu trúc các láy đờn thường đi từ 2 ngũ cung và một điểm đặc thù của điệu này là nhiều câu trong các lớp thường xuyên có mặt chữ Oan (chữ Phan nhấn và rung mạnh) nên nghe buồn nhưng kiểu buồn bi hùng.” [19]. Những ý kiến trên rõ ràng đã nêu bật được tài năng và đóng góp lớn lao của nhạc sư Nguyễn Quang Đại.
3. Trong quá trình phát triển loại hình văn hóa sân khấu Cải Lương, tuy ngắn chỉ khoảng hơn 100 năm so với trên 300 năm phát triển vùng đất Nam Bộ, nhưng cư dân Nam Bộ đã tạo ra một sản phẩm văn hóa độc đáo, phù hợp với tính cách và con người Nam Bộ, góp phần vào kho tàng văn hóa chung của Việt Nam và thế giới. Có được thành quả này là nhờ sự đóng góp của bao thế hệ thầy đờn, thầy tuồng và nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhệ nhân. Những bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai mở như các ông Nguyễn Quang Đại, Trần Quang Quờn, Lê Tài Khí, Tống Phước Định… cần được tôn vinh. Trong đó, nhạc quan Nguyễn Quang Đại được xem là ông tổ của nhạc Tài tử Nam Bộ và Cải lương ngày nay. Bài vị của ông được nhân dân làng Mỹ Lộc rước vào thờ tại ngôi đình Vạn Phước. Và hàng năm, lễ giỗ ông cũng là lễ cúng Kỳ yên tại ngôi đình này. Trong phần hội của lễ cúng Kỳ yên không thể thiếu hoạt động đàn ca Tài tử, như một sự tri ân ông.
Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay, số tháng 8/2015.