Nghệ sĩ sân khấu Lê Thị Phỉ, giới mộ điệu gọi là cô Năm Phỉ[1], sinh năm 1908, tại xã Điều Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Định Tường[2], nay thuộc phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Cô Năm Phỉ là con của ông Lê Tấn Công, trí thức Tây học. Ngoài cô Năm nổi tiếng với nghiệp sân khấu, trong nhóm em của bà còn có những nghệ sĩ thành danh khác, như: Bảy Nam, Chín Bia, Mười Truyền.
Thuở thiếu thời, cô Năm không thích chuyện đèn sách mà chỉ muốn thỏa chí của mình theo nghiệp sân khấu đúng như tên cha cô đã đặt cho, dù rằng cha hoàn toàn không muốn con theo nghiệp ấy, bởi ông cho rằng “xướng ca vô loại” và thường hay dạy con bằng câu ca dao: “Trồng trầu để lộn dây tiêu. Con theo hát bội mẹ liều con hư.[3]”.
Nhưng định mệnh đã đặt để hay do chính điềm báo trong tên gọi được đặt cho cô, mà khi lên 10, được sự giúp sức của mẹ?, cô Năm đã “Phỉ” chí theo nghiệp cầm ca mà không màng đến sự cấm đoán nghiêm khắc của cha mình. Theo nhiều người kể lại, trong đó có nghệ sĩ nhân dân Bảy Nam, số phận của cô Năm Phỉ thật lạ. Do theo nghề hát quá sớm nên đường học hành của cô cũng sớm dang dở, cô chỉ biết ký mỗi cái tên của mình. Không biết chữ, nhưng cô Năm lại có trí nhớ khó ai sánh kịp. Mỗi lần tập vở diễn, người ta đọc cho cô nghe, chỉ nghe qua một lần là cô nhớ như in. Có lẽ tình yêu sân khấu đã tạo cho cô trí nhớ tuyệt vời ấy chăng? Còn những lúc tiếp khách, miệng nói với khách; nhưng tai cô vẫn lắng nghe người ta đang đọc vở tuồng. Khách ra về, cô đã thuộc luôn lời thoại của vở diễn mới[4]. Đây là một trường hợp hi hữu mà nghe đâu sau cô Năm Phỉ, đệ nhất danh ca Út Trà Ôn cũng là một trường hợp hiếm “thứ hai”?!
Trong thời kì gánh hát nở rộ như hoa mùa xuân, ông Hai Cu, vốn là thợ bạc[5] cũng đứng ra lập gánh Đồng Bào Nam[6] với cặp đào kép xuất sắc là cô Năm Phỉ và cậu Hai Giỏi[7], con ông bầu gánh, trong các vở: “Cô Ba lưu lạc, Chí thiện chí hiếu, Ơn đền oán trả, Tham phú phụ bần, Thiện ác hữu báo...”. Nói về cặp uyên ương nghệ sĩ nổi tiếng trong giới ca cổ, Sỹ Tiến đã viết: “…Tư Út vào mở rương lấy ra một tấm hình cho tôi (Sỹ Tiến) coi rồi nói: “Đây là hình anh Hai Giỏi, một kép hát độc nhứt vô nhị của sân khấu cải lương Nam Kỳ. Người đã chiếm được trái tim cô Năm Phỉ lần đầu tiên và dìu dắt ngôi sao rực rỡ này trở nên một cô đào có tiếng tăm lừng lẫy.[8]”.
Nhưng quả “tài mệnh tương đố”, sau khi nghệ sĩ Hai Giỏi, chồng cô Năm qua đời thì một thời gian ngắn sau, gánh hát Hai Cu tan rã. Cô Năm chuyển sang hát cho gánh Tái Đồng Ban vừa thành lập. Tới năm 1926, Tái Đồng Ban lại rã gánh. Cô đành chuyển sang hát cho gánh Văn Hý Ban của ông Huỳnh Văn Vui. Khoảng năm 1925, cô Năm hát cho gánh Phước Cương của ông Nguyễn Ngọc Cương, rồi bước thêm bước nữa với ông bầu này. Khi về với gánh Phước Cương[9], danh tiếng của cô Năm càng vang dội vì giọng ca thiên phú và tài diễn xuất độc đáo của cô qua nhiều vai diễn trong các vở: “Phụng Nghi đình, Xử án Bàng Quý Phi, Lan và Điệp, Tơ vương đến thác, Tứ đổ tường…” đã chiếm được cảm tình của nhiều thế hệ khán giả trước đây và sau này.
(Cô Năm Phỉ (trái) cùng với NS Phùng Há (ảnh năm 1931). Nguồn: www.baocamau.com.vn)
Vào đầu những năm 30, gánh Phước Cương còn ra Hà Nội biểu diễn. Khán giả Hà Nội đặc biệt mến mộ cô đào Năm Phỉ với các vai diễn: “Tơ vương đến thác, Sắc giết người…[10]”. Đặc biệt, qua vai diễn Bàng Quý Phi trong vở tuồng “Xử án Bàng Quý Phi”, tại Pháp năm 1931, có ý kiến ghi nhận, cô Năm Phỉ nhận được 4 huy chương[11], 186 bức thư và 1.009 danh thiếp của khán giả mến mộ gửi tặng. Chụp 167 kiểu ảnh, 42 bài báo ca ngợi và 230.000 đồng tiền thù lao (tương đương ngàn lượng vàng thời đó)[12]. Không biết những con số này chính xác đến đâu, nhưng chắc chắn một điều là sự tưởng thưởng của công chúng say mê nghệ thuật cổ truyền dành cho cô đào Mỹ Tho Năm Phỉ có tài năng đặc biệt trong diễn xuất là không nhỏ.
Đánh giá sự nghiệp của Năm Phỉ, nghệ sĩ Ba Vân đã thốt lên: “Theo tôi, cô Năm là thiên tài trong lĩnh vực cải lương, một tấm gương sáng trong việc rèn luyện và sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói không quá đáng, cô là người dẫn đầu trong nghệ thuật diễn xuất. Mỗi khi nhận vai tuồng, cô Năm thường suy nghĩ rất nhiều về cách diễn, nghiên cứu từng bước đi, ngồi, đứng, di động trên sân khấu làm sao cho mỗi động tác đều phải thể hiện rõ và đúng tâm trạng của nhân vật...[13]”.
Nói về vai diễn để đời của cô được nhiều người nhắc đến là vai Bàng Quý Phi trong vở “Xử án Bàng Quý Phi”. Học giả Vương Hồng Sển, người có 50 năm mê hát, nhận định đánh giá về vai diễn này như sau: “Trong tuồng cô Năm Phỉ thủ vai Bàng Quý Phi nỉ non màu mè tình tứ bao nhiêu thì cô Ba Lựu xuất sắc trong vai bà Địch Thiên Kim bấy nhiêu, thêm kép Bảy Nhiêu đương thời xuân trẻ, thủ vai Tống Chơn Tôn muồi mẫn, làm vua mà như vầy đàn bà không ai ghét. Bộ ba này quả có máu nghệ sĩ, cho đến nay hát lại tuồng ấy chưa ai bì kịp.[14]”.
Còn Bác sĩ Anh Tuấn sau nhiều năm nhớ lại vai diễn Bàng Quý Phi của Cô Năm Phỉ đã đăng trên báo Ngôn Luận, số 2324, ra ngày 18/9/1962: “Năm Phỉ, người gầy trong bộ y phục Trung Hoa lộng lẫy, đang quỳ lết đầu gối lại gần… vua, Bảy Nhiêu sắm vai vua và Năm Phỉ sắm vai Bàng Quý Phi… mấy chục năm đã qua, tôi còn trông thấy rõ rệt từng điệu bộ của Năm Phỉ mắt đầy lệ và cái giọng vô cùng áo não khàn khàn đang ca tứ đại oán: “ối thôi! Mau liều cái thân này… nhắm mắt cho qua…!” Năm Phỉ, Bảy Nhiêu đã sang Paris và các báo chí Pháp hồi đó hết sức ca ngợi. Thật là một thiên tài, có lẽ còn lâu ta mới thấy xuất hiện một người để so sánh.[15]”.
Riêng ký giả Thanh Đạm nói về vai diễn Bàng Quý Phi của cô Năm Phỉ khá tỉ mỉ: “Chúng tôi biết cô Năm từ thuở cắp sách đến trường. Cuộc đời học trò với cơm cha áo mẹ làm gì có tiền? Nhưng chúng tôi cũng ráng ky cỏm dành dụm đủ mua cái vé hạng bét nửa phần tiền vào chiều thứ bảy để thưởng thức tài nghệ cô Năm. Một Bàng Quý Phi xuất sắc! Ngày trước cô Năm chuyên đóng tuồng Tàu mà đặc sắc nhất là vai Bàng Quý Phi… lúc căm tức khi thấy cô nhõng nhẽo tâu rỗi ám hại trung thần nhưng rồi lại thấy tội nghiệp vô cùng khi nhìn một Bàng Quý Phi cầu khẩn van lơn Địch Thái hậu. Tôi tưởng chừng có thể nhảy lên sân khấu, giựt bút mực của Tống Nhân Tôn để đừng phê án. Người đẹp như thế này, van lơn cầu khẩn như thế kia, ai đành phê án “tam ban trào điển”… Nghệ thuật cô Năm Phỉ đã lôi cuốn hầu hết khán giả, nhiều ông già lấy khăn lau nước mắt, lắm bà cụ mếu máo khóc thành tiếng… một đứa trẻ như tôi cũng thấy điếng lòng. Gây được sự xúc cảm làm cho bao nhiêu người xem phải hồi hộp đau thương, nghệ thuật diễn xuất của cô Năm thật không ai có thể sánh…[16]”.
Cô Năm Phỉ, cô là một thiên tài, theo Kiều Quốc Sĩ, một kí giả sân khấu thời ấy có viết trên báo Tiếng Dội, ngày 28/10/1948, khi đưa ra những đánh giá về cô, mà theo Vương Hồng Sển những ý kiến được nêu dẫn khá xác đáng: “Một tấm thân mảnh khảnh, nhỏ người nhưng không ốm yếu, với một đài trán chứa đựng một thông minh không bờ bến, với đôi mắt sáng ấp ủ cả một trời thanh tú, cô là hiện thân của tình tứ, của mơ say, của một tâm hồn nghệ sĩ. Còn một đặc điểm khiến người ta phải để ý đến cô là trái với các cô đào khác nổi tiếng, cô có một giọng khàn khàn, có phải giọng đồng chăng? - như mệt nhọc, như nghẹn ngào, như tức tưởi, nên nghệ thuật của cô thêm một ý vị đậm đà tha thiết.[17]”.
Cô Năm Phỉ mất ngày 2/6/1954, sau một cơn tai biến. Cái chết của nghệ sĩ sân khấu Lê Thị Phỉ đã gây sốc cho nhiều bạn bè, người thân. Nhưng theo soạn giả Nguyễn Phương, ấn tượng đặc biệt với người dự tang lễ cô Năm là việc nhạc sĩ Chín Trích đập vỡ cây đàn: “Ngày Năm Phỉ mất, người đến viếng đã được chứng kiến cảnh nhạc sĩ Chín Trích đàn ròng rã mấy ngày liền bên quan tài người quá cố, vừa đàn vừa khóc. Đến khi chuẩn bị làm lễ di quan, ông đã tới lạy lần chót bên quan tài nghệ sĩ Năm Phỉ rồi khóc lớn: “Cô Năm đã mất rồi, từ nay Chín Trích sẽ không còn đờn cho ai ca nữa”. Nói xong, ông đập vỡ cây đàn. Để ghi nhận tình cảm của nhạc sĩ Chín Trích, khi hạ huyệt, người nhà của nghệ sĩ Năm Phỉ đã cho chôn trong mộ phần của bà cây đàn gãy này.[18]”. Tuy nhiên, có lẽ với người nghệ sĩ, không tình cảm nào bằng sự mến mộ của khán giả dành cho mình, như cách hành xử đầy xúc cảm mà nhạc sĩ Chín Trích dành cho cô Năm.
Để ghi nhớ tài năng của một nghệ sĩ sân khấu xuất chúng làm rạng danh đất Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã có con đường mang tên cô Năm Lê Thị Phỉ, con đường nằm cạnh chợ Hàng Bông[19] nối liền giữa hai đường song song Lê Lợi, Trưng Trắc và cắt ngang qua đường Nguyễn Huệ, thuộc phường 1, thành phố Mỹ Tho. Còn bà sau được cải táng về nghĩa trang chùa nghệ sĩ[20], Q. Gò Vấp, TP. HCM.
Chú thích:
[1] Tên của bà được người cha chủ ý đặt theo thứ tự câu chữ nối liền với tên ông, Lê Tấn Công, cho 11 người con: “Công, Thành, Danh, Toại, Phỉ, Chí, Nam, Nhi, Bia Truyền, Tạc, Để”. Như vậy, Năm là thứ tự của bà, tính theo cách gọi Nam Bộ, khởi đầu không có thứ Cả, mà chỉ có thứ Hai. Cách gọi tên thứ là gọi theo cách gọi miền Nam thể hiện sự thân tình, quý mến, xem như người trong gia đình. Còn “Phỉ” là thỏa, hài lòng, thỏa mãn nhu cầu tinh thần, thường dùng trong quán ngữ: “phỉ chí bình sinh, phỉ chí tang bồng”.
[2] Theo Địa chí Tiền Giang, tập 2, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, 2007, tr. 346.
[3] Theo Hoàng Kim, Báo Thanh niên, http://m.thanhnien.com.vn/story/co-dao-nam-phi-canh-hoa-mong-manh-sid-447062.
[4]http://mp3.zing.vn/nghe-si/Co-Nam-Phi/tieu-su
[5] Từ Nam Bộ, chỉ thợ kim hoàn, nữ trang.
[6] Có ý kiến cho rằng gánh ông Hai Cu lập là gánh Đồng bào Nam, ra đời năm 1924; còn gánh Nam Đồng ban là của mẹ cô Năm Phỉ đứng ra lập, theo tài liệu “Nghệ sĩ Năm Phỉ” của Lê Tấn Chí (em ruột Năm Phỉ) ghi lại được Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang xuất bản năm 1993.
[7] Năm Phỉ và Hai Giỏi cũng là đôi vợ chồng, nhưng chỉ vài năm thì Hai Giỏi bị bệnh mất, năm 1922, bà phải chịu cảnh góa bụa khi tuổi đời còn rất trẻ, gánh hát của ông Hai Cu cũng tan rã.
[8] Sỹ Tiến, Những mảnh tình nghệ sĩ, Chân Lý, HN, 1952, tr. 135.
[9] Gánh do ông Nguyễn Ngọc Cương thành lập, gánh có sở trường diễn tuồng Tàu.
[10] Lê Ái Siêm, Tiền Giang và nghệ thuật sân khấu cải lương, Sở VH-TT&DL, Tiền Giang, 2013, tr. 100.
[11] Theo Dương Đức, sinh thời, cô Năm Phỉ từng là một trong những nghệ sĩ đầu tiên được Vua Bảo Đại tặng Huy chương Kim Tiền. Trong các chuyến lưu diễn tại nước ngoài (như Pháp, Lào, Thái Lan, Campuchia…), bà cũng nhận được nhiều huy chương, http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/tulieuvanhoa/2011/6/56141.cand.
[12] Theo Lê Thị Hiếu Dân, báo Cà Mau, http://baocamau.com.vn/newsdetails.aspx?newsid=12856
[13] http://www.conhacvietnam.com/diendan/viewtopic.php?f=43&;t=10236
[14] Vương Hồng Sển, Hồi kí Năm mươi năm mê hát, NXB Trẻ, 2007, tr. 69-70.
[15] Dẫn theo Vương Hồng Sển, Hồi kí Năm mươi năm mê hát, NXB Trẻ, 2007, tr. 121.
[16] Theo Lê Tấn Chí, http://doncataitu.blogspot.com/2012/09/le-tan-chi-nghe-si-nam-phi-ngoi-sao-ruc.html
[17] Dẫn theo Vương Hồng Sển, Hồi kí Năm mươi năm mê hát, NXB Trẻ, 2007, tr. 123.
[18] Dẫn theo Dương Đức, http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/tulieuvanhoa/2011/6/56141.cand
[19] Chợ bán rau, củ, hoa, quả.
[20] Ngôi chùa này có tên là Nhựt Quang, nhưng người dân và khán giả mộ điệu vẫn quen gọi là chùa Nghệ sĩ. Chùa được xây dựng năm 1949 do nghệ sĩ Phùng Há cùng với các soạn giả: Năm Châu, Trần Hữu Trang, Mai Quân... đứng ra thành lập.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Tấn Chí, Nghệ sĩ Năm Phỉ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang xuất bản, 1993.
2. Lê Tấn Chí, http://doncataitu.blogspot.com
3. Lê Thị Hiếu Dân, báo Cà Mau, http://baocamau.com.vn
4. Dương Đức, http://vnca.cand.com.vn
5. Hoàng Kim, Báo Thanh niên, http://m.thanhnien.com.vn
6. Vương Hồng Sển, Hồi kí Năm mươi năm mê hát, NXB Trẻ, 2007.
7. Lê Ái Siêm, Tiền Giang và nghệ thuật sân khấu cải lương, Sở VH-TT&DL, Tiền Giang, 2013.
8. Nguyễn Q. Thắng, Từ điển tác gia Việt Nam, NXB Văn hóa, HN, 1999.
9. Sỹ Tiến, Những mảnh tình nghệ sĩ, Chân Lý, HN, 1952.
10. Tỉnh ủy-UBND tỉnh Tiền Giang, Địa chí Tiền Giang, tập 2, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, 2007.
12. http://mp3.zing.vn/nghe-si/Co-Nam-Phi/tieu-su
13. http://www.conhacvietnam.com/diendan/viewtopic.php?f=43&;;t=10236
Nguồn: Một số nhân vật đất Phương Nam, NXB. Hồng Đức & Tạp chí Xưa & Nay, 2015