Bước đầu tìm hiểu về Hát sắc bùa Phú Lễ, chúng tôi mong muốn nghiên cứu kỹ hơn về nét văn hóa độc đáo này trong ngày Tết cổ truyền của người dân Phú Lễ, đồng thời qua đó cũng nhằm góp chút công sức trong kế hoạch khôi phục lại hình thức diễn xướng hát sắc bùa hiện nay ở địa phương.
1. Mục đích diễn xướng
Trong công trình nghiên cứu Hát sắc bùa Phú Lễ, Huỳnh Ngọc Trảng khẳng định “Mục đích: Hát chúc mừng xuân dịp đầu năm cầu cho phong đăng hòa cốc, mùa màng cây cối tốt tươi, tống quỉ trừ ma, cầu trăm nghề tấn phát…”1
Mục đích ban đầu của hình thức dân ca này là để xua quỷ, trừ ma không chỉ được thể hiện qua hành động dán bùa ở cửa nhà, mà còn thể hiện trong cả nội dung lời ca. Ngay ở bài Chúc xuân người nghệ nhân cũng đã nói rõ mục đích của mình:
Xốc quách thằng quỷ ném ra /Chớ cho thằng quỷ lộn tà vào đây
Rõ nhất là ở bài Trấn bùa, nghệ nhân nói rõ mục đích trừ tà, trừ quỷ của mình:
Lá bùa dán tại nhà thầy /Chớ cho thằng quỉ lộn tà vào đây / Bùa tôi giấy trắng (mà) phây phây / Dán vô đằng trước vậy thì ở an.
Có lẽ, sau này các yếu tố của đạo giáo mới xen vào, nên các bài chúc xuân, nghệ nhân đưa các thần như Võ Vương, Thái Thượng lão quân, Hán Chung Ly,… làm tăng tính thiêng cho lá bùa của mình. Ở bài Chúc đức ông bà, nghệ nhân nói rõ:
Lá bùa Quan đế dán ở cửa Đông phương / Lá bùa Xích đế dán cửa Nam phương / Lá bùa Huỳnh đế tôi trấn cửa Trung ương.
Như vậy, việc đầu tiên của đội hát sắc bùa là trừ tà, trừ quỷ, cốt để cầu chúc cho gia chủ có một năm mới bình an, làm ăn phát tài, phát lộc. Như nhận xét của Nguyễn Chí Bền: “Xuyên suốt tất cả những bài ca của sinh hoạt hát sắc bùa ở Phú Lễ là một ước vọng về cuộc sống bình an, no đủ”2. Tiêu biểu, trong bài Dẫn bùa có đoạn:
Trấn bùa cửa trước / Chủ rước làm giàu / (Tôi) trấn bùa cửa sau / Chủ còn giàu nữa / Tôi trấn bùa cửa giữa / Cho trẻ ăn nằm / Tôi trấn bùa mùng tằm / Cho tằm ăn dâu / Tôi trấn bùa chuồng trâu / Trâu sanh con cái.
Mục đích chúc tụng còn có thể thấy trong tất cả các bài ca nhưng rõ hơn cả là bài Xốc quách. Người nghệ nhân chúc cho gia chủ:
Kể mười hai tháng có ngần / Ông bà ngồi hưởng mười phần ung dung / Già an cõi thọ chánh thung / Gái trai gặp thuở đài xuân lâu dài / Con trai ăn học có tài / Văn chương cẩm tú hơn người thế gian / Gái trai phú quới vinh hoa / Ông bà ngồi hưởng tam đa lộc trời.
Có thể nói, nội dung bài ca thể hiện những mơ ước, khát vọng của người nông dân. Vì thế xuyên suốt các bài ca của sinh hoạt hát sắc bùa ở Phú Lễ là ước vọng về một cuộc sống bình an, no đủ, mưa thuận gió hòa để canh nông thuận lợi. Với nghề làm ruộng, người nông dân mơ:
Lúa tốt đầy da / Một bông bảy nhánh / Hòa may triệu triệu / Tuổi tác khoan khoan / Dư muôn dư ngàn.
Với nghề trồng bông, người nông dân mơ:
Hạt bông rắc xuống / Bông lên cuồn cuộn / Tựa thể mâm xôi / Nay đã chín rồi / Hái đem về nhà / Lứa đặng năm quan.
Trong khi đó, với nghề đan lát, mơ ước ấy cụ thể hơn:
Đươn lại làm giàu / Người ta năng rước / Bạc vô như nước / Tiền chất đầy rương.
Bên cạnh đó, Hát sắc bùa còn có một phần không kém quan trọng, đó là phần hát giúp vui với tính chất giải trí. Tuy nhiên, quan sát kỹ ta thấy phần hát giúp vui này không hẳn chỉ là để giải trí, tạo không khí vui vẻ náo nhiệt của ngày Tết mà còn thông qua các bài lý, bài vè người nghệ nhân nói riêng, nhân dân nói chung gửi gắm tâm tư tình cảm của mình, như bài Lý đầu cầu:
Ngãi nhân cậy bấy nhiêu lời
Giàu thời giúp của khó thời giúp công
Một mai nên điệu vợ chồng
Dầu năm ba tháng đem lòng nhớ thương
….
Chàng về thiếp ở sao an
Chàng đi thiếp cũng băng ngàn thiếp theo
Hoặc một tâm trạng khác trong bài Lý qua cầu:
Hôm qua anh có qua nhà
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất anh thương
Về cho kéo gỗ đóng giường tám song
Mặt khác, sau Cách mạng tháng Tám, cũng như hát sắc bùa Nam Trung bộ và các hình thức diễn xướng dân gian nói chung, Hát sắc bùa Phú Lễ đã mở rộng phạm vi phản ánh của mình vào các sự kiện chính trị - xã hội sôi nổi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Từ đó, hát sắc bùa không những phản ánh hiện thực, cổ động kháng chiến mà còn giúp các thế hệ trẻ ôn lại những sự kiện lịch sử, thời sự đáng ghi nhớ của địa phương, qua các bài vè kháng chiến như Bài kỷ niệm thứ ba ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Bài chống càn, Bài Đánh trận Bàu Dơi…Việc đưa các sự kiện lịch sử vào hát sắc bùa đã tạo nên một sắc thái riêng biệt cho Hát sắc bùa Phú Lễ.
2. Thời điểm và địa bàn hoạt động
Cũng như hát sắc bùa ở một số địa phương khác, Hát sắc bùa Phú Lễ hoạt động chủ yếu vào dịp Tết Nguyên Đán. Thông thường hàng năm độ khoảng 27, 28 tháng Chạp, các thành viên của đội hát tụ tập lại (thường là ở nhà ông bầu) để tập dợt lại cho thành thạo, đợi đến đêm 30 thì bắt đầu lên đường đi lưu diễn. Cách thức lưu diễn của đội hát thường là hát trong đêm còn ban ngày thì họ tìm nơi tá túc để nghỉ ngơi cũng như tập dượt lại. Mỗi đợt đi diễn như vậy thường kéo dài từ 7 ngày hoặc đến hết tháng Giêng mới trở về nhà.
Tuy nhiên ngoài dịp Tết, đôi khi đội hát cũng được mời đến giúp vui ở những nhà có đám giỗ, tiệc tùng. Ở những dịp này thì đội hát không hát theo trình tự mà chủ yếu hát những bài hát ở phần giúp vui hoặc có khi hát theo sự yêu cầu của người xem cũng như của gia chủ. Có khi Hát sắc bùa Phú Lễ cũng được biểu diễn ở đình làng vào dịp cúng đình hàng năm.
Về địa bàn hoạt động, theo kết quả điều tra thực tế của chúng tôi, đội Hát sắc bùa Phú Lễ cũng có vượt ra khỏi phạm vi của xã đến các xã lân cận như Phú Ngãi, Phước Tuy, An Đức, An Bình Đông, Mỹ Nhơn và cũng có khi sang biểu diễn ở các huyện lân cận như Giồng Trôm, Bình Đại. Tuy nhiên, nhìn chung địa bàn hoạt động của đội sắc bùa Phú Lễ tương đối hẹp, chủ yếu ở huyện Ba Tri, trường hợp đi sang huyện khác rất hiếm. Do đó, mặc dù địa bàn hoạt động của đội hát cũng lan sang các huyện, xã lân cận nhưng nhìn chung phạm vi chưa xa. Điều này tương đối dễ hiểu, bởi khi ấy điều kiện giao thông chưa thuận lợi, Bến Tre lại là vùng sông nước chằng chịt, phương tiện giao thông còn hạn chế, chủ yếu đi bộ là chính nên đoạn đường mà đội hát đi được không nhiều. Và cũng chính vì điều đó mà ta có thể giải thích được tại sao hát sắc bùa chỉ tồn tại chủ yếu ở Phú Lễ mà không được lưu truyền sang địa phương xa khác.
3. Biên chế đội hát
3.1. Tổ chức đội hình
Theo lời các nghệ nhân thì một đội Hát sắc bùa thường có số lượng chẵn và không dưới 4, có khi lên đến 8 và tối đa là 12 người, nhưng đầy đủ nhất là 6 người. Trong đó, có một người hát chính gọi là cái kể, những người còn lại hát phụ gọi là con xô. Nếu đội hình có 4 người thì gồm 1 người chơi trống cơm, 1 người chơi đờn cò, 1 người chơi sanh tiền, 1 người chơi sanh cái. Đội hình có 6 hoặc 8 người thì 1 người chơi trống cơm, 1 người chơi đờn cò, các thành viên còn lại thì chia đều chơi sanh tiền và sanh cái. Nếu đội có 12 người thì ngoài ông bầu chính chơi trống cơm, còn tăng cường thêm ông bầu phụ thay phiên vỗ trống, 2 người chơi đờn cò, 4 người chơi sanh cái và 4 người chơi sanh tiền. Trong đó người chơi trống cơm là người có chức năng giữ nhịp cho toàn đội và ông bầu thường giữ vị trí này. Cả đội vừa sử dụng nhạc cụ vừa hát các bài hát sắc bùa. Thường cái kể bắt giọng trước, sau đó mỗi người trong đội hát một câu so le, câu cuối cùng cả đội cùng hát. Tuy nhiên, người chơi đờn cò chỉ đàn mà không hát theo.
Trong một đội hát, vai trò của ông bầu (ông cái) là chủ chốt. Ông bầu thường là người có tuổi, có nhiều kinh nghiệm diễn xướng nhất, hát hay, có uy tín, là người truyền dạy cho các thành viên trong đội sắc bùa. Ông hướng dẫn mọi người các hệ thống bài bản, làn điệu của các bài hát cũng như cách sử dụng nhạc cụ, các thao tác trình diễn. Đặc biệt ông còn là người đặt lời ca mới cho các thành viên học theo. Hình thức luyện tập ngày xưa chủ yếu vẫn chỉ là truyền miệng, ông bầu hát và mọi người hát theo, rồi thuộc lòng. Do đó, để có thể đi biểu diễn hàng tháng vào dịp Tết, cả đội hát phải tập hợp lại nhà ông bầu tập luyện thường xuyên, như lời ông Sáu Đức – nghệ nhân duy nhất còn sống hiện nay kể: “Ngày xưa, tầm 6,7 giờ chiều, chập choạng tối, sau khi mọi việc đồng áng xong xuôi, mọi người tụ tập lại nhà ông bầu (khi ấy là ông Ba Kén) để tập dợt”.
Về phần cái kể, phải là người có giọng hát to, khỏe, rõ và có hơi dài. Vị trí này cũng thường dành cho ông bầu. Tuy nhiên, do độ dài một cuộc hát tương đối lâu, nên ông bầu cũng có thể linh hoạt sắp xếp cho người khác luân phiên làm cái kể. Lư Nhất Vũ và Lê Giang cũng có ghi chép: “Qua chuyến đi điền dã, ghi nhận trong buổi diễn tấu “phục chế” thì thấy rằng một trong hai người chơi sanh tiền luân phiên làm cái kể, một còn lại cùng với người chơi trống cơm đảm nhiệm phần con xô.”3
Điểm đặc biệt của Hát sắc bùa Phú Lễ là đội hình toàn nam giới, từ xưa nay đội hát không có nữ tham gia. Theo lời các nghệ nhân, đó là do quan niệm phụ nữ phải tề gia nội trợ, nên bị hạn chế tham gia các hoạt động xã hội, cộng đồng. Thứ hai, do đội hát đi biểu diễn hàng tháng trời, từ ngày này sang ngày khác, không kể ngày đêm, có phụ nữ theo không tiện. Thứ ba, do tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong hát sắc bùa có các bài phần nghi thức khi hát thì toàn đội phải đứng trước bàn thờ tổ tiên, có phụ nữ thamgia sẽ không trang trọng. Vì những lẽ đó, đội hình của hát sắc bùa ở Phú Lễ không có nữ giới tham gia. Tuy vậy, điều này không cản trở sự quan tâm đến loại hình nghệ thuật này của nữ giới. Mặc dù không được tham gia diễn xướng trực tiếp xem nghệ nhân biểu diễn, họ nhẩm theo, rồi thuộc lòng. Đến nay cũng đã hơn 20 năm nhưng nhiều người vẫn còn nhớ từng lời ca, từng hoạt động của đội. Qua lời kể sinh động và đầy cảm xúc, những người phụ nữ ấy như đưa người nghe trở về một thời hoạt động sôi nổi của hát sắc bùa Phú Lễ - Bến Tre xưa.
3.2. Trang phục – phương tiện đi lại
Trang phục của đội hát khá giản dị nhưng đậm chất văn hóa Nam bộ. Phần lớn là bộ đồ bà ba đen, đôi khi còn có thêm khăn rằn choàng cổ hoặc quấn đầu. Ông bầu có khi mặc áo bà ba, có khi mặc áo dài để phân biệt với các thành viên khác. Ngày xưa khi đi hát các thành viên đi chân đất, sau này khi cuộc sống khá giả thì mang guốc vong, rồi mang dép.
Trong một số tài liệu ghi chép lại cũng đề cập đến trang phục của đội hát:
“Ông bầu cầm cái, mặc áo dài, mang guốc vông, vỗ trống cơm
Các con, mặc y phục bà ba, mang guốc vông: 2 người chơi sanh cái, 2 người chơi sanh tiền và một người chơi đàn cò.”4
Về phương tiện đi lại, thời điểm ấy đoàn chủ yếu đi bộ, theo lời kể của ông Sáu Đức thì sau này có khi đi bằng xe bò hoặc xe đạp.
(Hát sắc bùa Phú Lễ. Nguồn: www.congluan.vn)
3.3. Nhạc cụ
Nhạc cụ của hát sắc bùa gồm có 4 loại: trống cơm, đờn cò, sanh tiền và sanh cái. Trong các loại nhạc cụ trên thì người sử dụng trống cơm thường có chức năng giữ nhịp và bắt cái (còn gọi là cái kể) cũng là người giữ vai trò ông bầu của đội hát. Thông thường trong một đội hát có 1 người sử dụng trống cơm, 1 người sử dụng đờn cò, những người còn lại sử dụng sanh tiền và sanh cái. Do đó mà số lượng thành viên trong đội hát có thể dao động nhưng ít nhất là 4 người.
- Trống
Tên gọi: trống cơm, có khi được gọi là trống tầm vinh (tùng vinh)
Chức năng: Trống là nhạc cụ quan trọng nhất của đội hát, thường được ông bầu mang ngay trước bụng, dùng tay vỗ trống. Trống được ông bầu sử dụng để giữ nhịp và điều khiển cả đội hát.
Cấu tạo, vật liệu: Trống đúng tiêu chuẩn thì phải đạt các yêu cầu sau:
- Thân trống được làm bằng độc mộc, có nghĩa là người ta dùng một thân cây, khoét thủng ruột rồi bịt hai đầu làm trống, chứ không phải dùng từng mảnh gỗ ráp lại.
- Mặt trống được bọc bằng da trăn, thường một bên bọc căng, âm thanh phát ra sẽ cao, một bên bọc chùng thì âm thanh phát ra sẽ trầm hơn, đối ứng âm – dương; trầm - bổng. Ngoài ra trước khi đi diễn, ông bầu còn cho dán lá bìm bìm đâm nhuyễn vào giữa mặt trống để cho âm thanh tốt hơn. Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Nhan (con ông Nguyễn Lừa – ông bầu khoảng những năm 59, 60) kể: “Mặt trống làm bằng da trăn, da trăn phơi khô sau đó ngâm nước cho mềm rồi bịt vô vành trống. Trước khi đi biểu diễn, phải hái lá bìm bìm, đâm nhuyễn vò thành cục tròn bằng ngón chân cái dán giữa mặt trống. Như vậy thì trống mới kêu to và thanh”.
Hiện nay, ở Bảo tàng tỉnh Bến Tre còn lưu giữ được 1 trống cơm của đội sắc bùa năm xưa. Trống này có chiều dài 64cm, đường kính mặt trống 15cm, thân bằng gỗ liền, mặt trống được bọc da trăn.
- Đờn cò
Tên gọi: đàn cò, đờn cò; miền Trung và miền Bắc gọi là đàn nhị
Chức năng: Đờn cò chủ yếu là để diễn tấu phần giai điệu nền cho cuộc hát.
Nhà nghiên cứu Tô Ngọc Thanh từng nhận định “Ở tất cả mọi nơi, những người đi chúc sử dụng các nhạc cụ vốn có ý nghĩa thiêng và xuất hiện từ thời cổ như trống, mõ, tù và, chiêng, cồng,… Theo chúng tôi, đờn cò dùng ở Bến Tre là yếu tố muộn”5. Và theo những tài liệu ghi chép lại thì chúng tôi cũng nhận thấy hát sắc bùa ở một số tỉnh như Hà Tĩnh, Ninh Bình, Quảng Bình,…không thấy xuất hiện đờn cò mà chỉ có ở Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bến Tre.
- Sanh tiền
Tên gọi: sanh tiền, sênh tiền, sinh tiền
Chức năng: tạo âm thanh vui nhộn
Vật liệu: thân làm bằng cây gì cũng được, không quan trọng. Ngày xưa dùng đồng tiền nhưng ngày nay có thể sáng tạo bằng những vật liệu nhẹ như nắp lon bằng nhôm hoặc thiếc miễn sao nhẹ, tạo được độ kêu và âm thanh vui tai là được.
Sanh tiền gồm 2 phần: sanh chính và sanh phụ.
- Sanh chính: gồm 2 thanh gỗ hoàn toàn tách rời nhau, 1 thanh nằm trên, 1 thanh nằm dưới, 2 thanh có kích thước tương đối giống nhau, dài 22cm, rộng 2,8cm, dầy 1,3cm. Mặt dưới của thanh nằm dưới có thêm răng cưa để khi cạ vào thanh phụ sẽ tạo ra âm thanh. Ngoài ra, ở đầu mỗi thanh đều được đính các chốt nhỏ có gắn các đồng xu để khi người nghệ nhân sử dụng nhạc cụ, những đồng xu này sẽ va vào nhau tạo ra âm thanh vui tai. Thanh nằm trên được đóng 2 chốt nhỏ để xỏ đồng xu, thanh bên dưới thì chỉ được đóng 1 chốt. Có khi không tìm được đồng xu người ta có thể sử dụng những mảnh thiếc cắt tròn từ những vỏ lon hoặc nắp chai nước ngọt,… rồi khoét lỗ tròn chính giữa để xỏ vào các chốt.
- Sanh phụ là một thanh gỗ ngắn hơn sanh chính, có răng cưa một bên, nhưng kích thước nhỏ hơn rất nhiều, dài 15,5cm, rộng 1,5cm và dày 0,5cm. Sanh phụ được nghệ nhân dùng để cạ vào phần răng cưa của sanh chính để tạo âm thanh.
Như vậy, khi sử dụng sanh tiền, 2 tay nghệ nhân phải cầm đến 3 thanh gỗ. 2 thanh gỗ của sanh chính bên tay thuận, tay còn lại thì cầm sanh phụ. Các nghệ nhân với tài nghệ của mình, điều khiển cho 2 thanh gỗ này bật lên xuống, va chạm vào nhau tạo âm thanh mà không làm rơi các thanh gỗ. Đối với những thành viên mới tập, họ đục lỗ nhỏ ở cuối thanh gỗ rồi xỏ dây nối hai thanh lại với nhau để giữ cho hai thanh gỗ không rơi xuống đất.
- Sanh cái
Tên gọi: sanh cái, sênh cái hoặc sinh cái
Chức năng: dùng để gõ nhịp
Sanh cái gồm 2 thanh dẹp bằng gỗ (có khi được làm bằng tre), thường có độ dài từ 14cm – 18cm, rộng từ 2,5cm – 3,5cm, dầy từ 1cm – 1,5cm. Độ dài, rộng và dầy thường không cố định, chủ yếu là làm sao cho người sử dụng cầm thấy thoải mái là được. Khi sử dụng, nghệ nhân gõ 2 thanh vào nhau để tạo tiếng kêu. Tuy nhiên, nếu cầm không đúng cách thì sanh cái sẽ phát ra âm thanh nhỏ và không vang xa. Khi cầm, nghệ nhân tạo ra một khoảng trống giữa lòng bàn tay với các thanh và cầm hờ một cách nhẹ nhàng, có như vậy âm thanh của sanh cái mới to rõ và vang xa.
3.4. Tiền thưởng
Theo khảo sát của chúng tôi, chủ nhà trả công cho đội hát bằng tiền và được chia đều cho các thành viên trong đội. Một số tài liệu có ghi chép lại: “Trong quá trình thực hành cuộc hát, những lúc gia chủ thấy hay, gia chủ sẽ thưởng tiền, hoặc tặng vật. Các tặng phẩm đều được đặt vào khay lễ tổ trước mặt ông bầu.”6. Hoặc “Qua một mùa tết mỗi người kiếm được “đủ tiền đóng thuế thân” (tức 4,5 đồng, hoặc 5,6 đồng), trung bình mỗi hộ mời hát lì xì độ 4 hay 5 cắc đến 1 đồng.”7
Ngoài ra, đội hát còn nhận được tiền thưởng từ những người xem hát ở phần hát giúp vui. Lúc này, cả đội hát ngồi thành vòng tròn, chính giữa có để khay hoặc dĩa nhỏ, người xem hát có thể yêu cầu bài hát và họ sẽ bỏ tiền vào khay để thưởng thêm cho đội hát. Có người không yêu cầu nhưng cũng bỏ tiền thưởng thêm khi thấy đội hát hay.
4. Trình tự
Toàn bộ cuộc hát được chia làm 4 giai đoạn: Phần mở đầu, phần nghi lễ, phần hát giúp vui và phần kết thúc. Trong đó, phần mở đầu gồm: lý đi đường và khai môn. Phần nghi lễ bao gồm: chúc xuân và trừ tà. Phần giúp vui gồm 2 phần: chúc nghề nghiệp và phần hát các bài hát giúp vui. Và cuối cùng phần kết thúc, đội hát hát giã từ và ra về.
Cụ thể một cuộc hát sắc bùa diễn ra theo trình tự như sau:
- Phần mở đầu
- Lý đi đường: Đây là phần tập hợp các điệu lý vốn phổ biến trong đời sống dân gian được các nghệ nhân thu thập và trình bày một cách ngẫu nhiên. Họ hát tất cả các điệu lý, các câu ca dao mà họ nghe được từ chính vùng đất này hoặc tiếp thu từ nơi khác trên đường đi lưu diễn. Điển hình như các bài: Ếch kêu, Rủ nhau xuống biển bắt cua, Lá da lá dà, Cây ổi,….
Như tên gọi của nó, phần lý đi đường này được hát ngay trên đường đi, trong lúc đội sắc bùa di chuyển từ nhà này sang nhà khác. Họ đi bộ theo hàng dọc, ông cái dẫn đầu vỗ trống hát và các con đồng thanh hát theo. Các nhạc cụ như trống, đờn cò, sanh tiền, sanh cái đều được nổi lên nhằm báo hiệu cho người dân hai bên đường biết đội hát sắc bùa sắp đến để nhà nào cần thì chạy ra rước đội vào hát chúc xuân.
Tuy nhiên, những bài lý đi đường ở đây là những câu lý bình dân ngắn gọn chứ không phải những bài lý dài ở phần hát giúp vui. Trong quyển Đặc khảo về Hát sắc bùa cũng có nhấn mạnh: “Cũng cần lưu ý thêm là các bài lý đi đường là những ca khúc bình dân khác với các điệu lý hát giúp vui trong phần hát giúp vui chúc tụng trong gia đình ở phần sau.”8
- Khai môn: Sau khi được gia chủ mời vào hát, đội hát đến trước cổng rào hát bài Mở cửa rào. Gia chủ mở rào hay không, mở nhanh hay mau là còn tùy thuộc vào mức độ điêu luyện cả về lời ca lẫn khả năng sử dụng nhạc cụ của các thành viên trong đội hát.
Sau khi gia chủ đã mở cửa rào thì toàn đội đến đứng trước cửa nhà lúc này vẫn đang đóng kín lần lượt hát các bài Mở ngõ, Cõi Nam, Khai môn.
(Ra mắt đội hát sắc bùa xã Phú Lễ. Nguồn: www.bentre.gov.vn)
- Phần nghi lễ
- Chúc xuân: Sau khi kết thúc bài Khai môn, chủ nhà cho mở toàn bộ cửa cái để đón xuân. Lúc này đội hát vẫn đứng trước cửa đã được mở lần lượt hát các bài: Rước xuân, Chơi xuân.
- Trừ tà: Tiết mục nghi lễ trấn bùa trừ tà mở đầu bằng bài Tiên sư (được xem là tổ nghề) và bài Trừ tà. Sau đó, cả đội hát bước vào trong nhà, xếp thành hai hàng dọc trước bàn thờ gia tiên hát bài Xốc Quách (còn gọi là bài Mừng tuổi ông bà).
Sau đó toàn đội ngồi vào bộ ván, nhà nào không có ván thì cả đội ngồi vào tấm chiếu hoặc đệm đã được gia chủ trải sẵn. Trên đó gia chủ có chuẩn bị trà, bánh, trái cây,… để mời các thành viên của đội. Trong khi hát, đội hát cũng có thể dừng lại nghỉ ngơi một lúc ăn bánh, uống nước rồi hát tiếp. Chính giữa ván còn có một khay để đựng tiền thưởng. Tiền thưởng này có thể do gia chủ hoặc khách đến xem bỏ vào khi thấy đội hát trình diễn hay.
Sau khi đã yên vị, cả đội hát bài Trấn bùa, rồi đến bài Dán bùa. Sau khi cái kể dẫn xong, đến đoạn con đồng xô thì cái kể bước ra dán bùa ở cửa. Bài Dán bùa gồm có bài Dán bùa cửa Đông, Dán bùa cửa Nam, Dán bùa Trung ương. Cuối cùng kết thúc phần nghi lễ là bài Dẫn bùa.
Về hình dáng lá bùa, qua khảo sát tài liệu chúng tôi không thấy ghi nhận, các nghệ nhân cũng không còn nhớ về chi tiết này. Tuy nhiên, trong bài Dán bùa Trung ương đoạn mở đầu có câu:
Bùa xà thì trấn hai bên
Thái cực chúa tiên thì trấn ở giữa
Qua hai câu trên ta cũng có thể hình dung ra lá bùa gồm 3 phần: 2 lá bùa xà và 1 lá bùa thái cực. Lá bùa này thường do ông bầu tự in lấy. Theo lời bà Nguyễn Thị Cúc – con ông bầu Nguyễn Văn Lừa – thì ngày xưa lá bùa là do cha bà – ông Lừa – sử dụng bản khắc bằng gỗ để in ra những lá bùa. Tiếc là đến nay bản khắc này đã lạc mất.
- Phần hát giúp vui
- Chúc nghề nghiệp: Sau khi dán bùa xong, toàn đội ổn định lại chỗ ngồi và bắt đầu hát các bài chúc nghề nghiệp. Gia chủ làm nghề nào thì đội hát sẽ trình bày bài hát chúc nghề đó. Một số bài hát tiêu biểu như: Chúc nghề làm ruộng, chúc nghề trồng bông, chúc nghề thầy thuốc, chúc nghề thợ may,…Ngoài ra, đội hát còn hát các bài chúc nghề theo yêu cầu của người xem. Người yêu cầu sẽ đặt tiền thưởng vào khay mà gia chủ đã chuẩn bị sẵn đặt ở giữa ván. Cấu trúc của một bài hát chúc nghề thường có phần đầu giải thích nguồn gốc của nghề, phần nội dung nói về quá trình lao động, quy trình sản xuất, công đoạn nghề nghiệp,…phần cuối chúc tụng cầu mong cho gia chủ làm ăn thuận lợi.
Đặc biệt, trong các bài hát chúc nghề nghiệp không có sự hiện diện của bài chúc nghề nấu rượu. Trong khi đó thì nghề nấu rượu lại là một nghề truyền thống và nổi tiếng nơi đây. Nguyên do, dưới thời Pháp, có một công ty của Pháp độc quyền sản xuất rượu, nên người dân ở đây bị cấm nấu rượu. Nguyễn Duy Oanh cũng có ghi chép về vấn đề này: “Người dân Bến Tre, trước năm 1945, bị bắt buộc phải mua loại rượu nếp ở nhà máy nấu rượu tại tỉnh. Rượu này gọi là rượu công-xi (công ty). Chánh phủ cho nhân viên quan thuế lùng bắt và phạt nặng những người dân nào kháp rượu, dù kháp rượu để uống. Cho nên muốn uống rượu mà khỏi mua rượu công-xi hoặc muốn có thứ rượu vừa miệng, người ta lén vào rừng cây để nấu rượu”9. Do đó, cho dù biết nhà đó có nấu rượu thì đội sắc bùa cũng không dám hát bài chúc nghề nấu rượu, vì thế mà ông bầu cũng không sáng tác bài chúc nghề này. Các đội sắc bùa sau này kế thừa lại những bài bản của đội trước, ông bầu mới không sáng tác thêm nên đến nay trong hệ thống bài bản vẫn thiếu bài chúc nghề nấu rượu.
- Hát giúp vui: ở phần này đội hát sẽ hát những bài hát vui (Uống rượu,Chơi trăng), các bài lý (Lý lơ thơ, Lý đầu cầu, lý Ba bảy hăm mốt,…), các bài vè kể vật (Vè cá biển, Vè cá đồng, Vè tôm, Vè chim,…), kể việc (Vè đá banh,…), các bài kháng chiến (Kỷ niệm thứ ba ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Chống càn, Đánh trận Bàu Dơi,…). Ở phần hát giúp vui này, đội hát có thể trình bày cá nhân hoặc tập thể, có bài được trình diễn theo kiểu xướng, xô: cái kể và con xô thay phiên hát.
- Phần kết thúc
Cuối cùng trước khi ra về, toàn đội hát bài Cầu an trong nhà, rồi đến Giã từ và Ra đi để kết thúc cuộc hát.
Cuộc hát kết thúc, đội hát sửa soạn lên đường để tiếp tục chuyến lưu diễn của mình sang các nhà khác. Thời gian trình diễn ở một nhà không cố định, có thể co giãn tùy theo yêu cầu của gia chủ cũng như của khách đến xem. Phần có thời gian biến động nhất là hát giúp vui giải trí.
Trong quá trình điền dã, chúng tôi phát hiện một nghi thức khá quan trọng mà chưa thấy nhắc đến trong các tài liệu chúng tôi tiếp cận được, đó là nghi thức Cúng tổ bùa để cầu xin cho chuyến đi hát suông sẻ, đội hát được nhiều nhà rước. Nghi thức cúng tổ diễn ra trước khi chuyến lưu diễn bắt đầu. Qua lời kể của ông Bùi Văn Đức – thành viên của đội hát ngày xưa, bà Nguyễn Thị Cúc, bà Nguyễn Thị Nhan – con gái của ông bầu Nguyễn Văn Lừa, trước khi đội hát xuất phát đi lưu diễn, ông bầu và toàn thể thành viên đứng ra cúng tổ bùa. Toàn bộ nghi thức là do ông bầu chủ trì. Đồ cúng khá đơn giản gồm rượu, trà và bánh trái. Ông bầu đại diện cho toàn đội khấn cần xin cho chuyến đi được thuận lợi, bình an và được nhiều người rước. Hiện nay, ở nhà bà Cúc vẫn còn lưu giữ bàn thờ tổ bùa, trên bài vị có đề hai chữ “Tổ sư” bằng chữ Hán. Và bà cũng cho biết rằng, từ sau khi ông Lừa mất thì bà vẫn duy trì cúng tổ bùa hàng năm vào ngày mùng 3 Tết.
5. Bài bản
Như đã nói ở trên, trình tự hát sắc bùa được chia làm 4 giai đoạn: Phần mở đầu, phần hát nghi lễ, phần hát giúp vui và phần kết thúc. Dựa theo 4 giai đoạn này, và căn cứ vào những tài liệu của các nhà nghiên cứu trước cũng như các tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được, chúng tôi đã thống kê ra được số lượng bài bản của hát sắc bùa Bến Tre thu thập được tính đến thời điểm hiện nay, như sau:
Phần mở đầu: Lý đi đường có số lượng 11 bài bản; Khai môn có số lượng 4 bài bản, dị bản 3. Phần nghi lễ: Chúc xuân có số lượng 2 bài bản, dị bản 1; Trừ tà có số lượng 8 bài bản, dị bản 1; Chúc nghề nghiệp có số lượng 13 bài bản. Phần giúp vui: Lý (Bao gồm cả Bài Uống rượu, Chơi trăng) có số lượng 9 bài bản, dị bản 2; Vè có số lượng 5 bài bản; Bài kháng chiến có số lượng 6 bài bản. Phần kết thúc: có số lượng 3 bài bản. Tổng cộng có 68 bài bản (61 bài bản, 7 dị bản)
Do Hát sắc bùa là một loại hình âm nhạc phục vụ nghi lễ nên các bài bản đều tuân thủ theo một trình tự nhất định và nội dung các bài hát cũng theo trình tự đó mà thay đổi cho phù hợp. Các bài hát phần nghi lễ chúc xuân và trừ tà thường lấy các điển tích để mở đầu câu chuyện. Các bài hát chúc nghề nghiệp thì lấy các truyền thuyết về nghề nghiệp, bối cảnh lao động làm đề tài chủ yếu cho mỗi lời ca. Các bài lý lấy tâm tư tình cảm con người làm chủ đạo, trong khi các bài vè lại lấy sự việc, sự vật làm trung tâm. Các bài hát kháng chiến xoay quanh chủ đề đấu tranh gìn giữ quê hương, ca ngợi những anh hùng có công bảo vệ làng xã,… Nội dung của các bài hát tuy khá đa dạng nhưng chung quy lại vẫn là với mục đích xua quỷ, trừ ma và thể hiện ước vọng một năm mới đầy thuận lợi, cầu cho người yên vật thịnh, mưa thuận gió hòa, làm ăn tấn phát, mùa màng bội thu, …. Có lẽ vì thế mà đa phần các bài hát đều được kết thúc bằng hai câu: Năm mới giàu sang // Gia quan tấn lộc
Từ ngữ được sử dụng trong các bài hát đa phần là từ cổ, do các bài hát trong Hát sắc bùa được sáng tác từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác, mặc dù cũng có những sáng tác mới nhưng phần lớn dựa trên những lời ca có sẵn mà thêm thắt vào, lâu dần người hát cũng không hiểu hết lời của bài ca cổ, họ chỉ hiểu chung chung đại khái chứ không thể giải thích chính xác từng từ một. Và do Hát sắc bùa được lưu truyền bằng con đường truyền miệng nên việc nghe sai và hát sai cũng dễ xảy ra. Vì thế, hiện nay có nhiều đoạn, nhiều từ không thể cắt nghĩa được, không phân biệt được đó là từ cổ hay từ bị sai do truyền miệng.
Về câu chữ, số lượng các câu hát có 4 chữ chiếm đa số. Tuy nhiên số lượng chữ trong một câu hát có thể gia giảm khá linh hoạt sao cho thuận miệng và có vần là được. Cho nên ngoài câu 4 chữ, ta còn bắt gặp các câu 5, 6, 7 hoặc 8 có khi lên đến 9 chữ. Điểm đặc biệt ở đây là dù cho câu hát đó có bao nhiêu chữ thì cứ 2 chữ là ngắt nhịp một lần, ngoại trừ phần cái kể xướng. Phần cái kể xướng ở đầu bài thường được ngân thành một câu dài liền mạch. Do được ngắt nhịp 2 chữ nên nhịp điệu bài hát có vẻ nhanh, gấp gáp mặc dù giữa các chữ đều có khoảng ngân cố định.
Tạm kết
Như vậy, Hát sắc bùa là một hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, một nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng trong dịp Tết cổ truyền dân tộc ở Phú Lễ. Nói đây là nét văn hóa đặc trưng là bởi toàn khu vực miền Nam, chỉ có Hát sắc bùa ở Phú Lễ - Bến Tre là sâu đậm và chuyên nghiệp nhất.Tuy nhiên, do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan, cũng như do sự biến đổi không ngừng của đời sống xã hội hiện đại mà Hát sắc bùa đang dần bị quên lãng. Giới trẻ hiện nay ở Bến Tre nói chung, Phú Lễ nói riêng phần lớn đều không biết về Hát sắc bùa. Trước tình hình Hát sắc bùa đứng trước nguy cơ mai một như vậy, mấy năm gần đây, hưởng ứng phong trào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, với sự quyết tâm của các cán bộ quản lý tỉnh Bến Tre nói chung và xã Phú Lễ nói riêng, Hát sắc bùa Phú Lễ đang trong quá trình khôi phục dần. Đưa Hát sắc bùa trở lại trong đời sống nhân dân không những có ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh nhà mà còn góp phần tạo nên một Bến Tre với những đặc trưng văn hóa rất riêng khó lẫn với các tỉnh khác trong khu vực.
Chú thích:
1. Huỳnh Ngọc Trảng (1992), Hát sắc bùa Phú Lễ [Ba Tri – Bến Tre], NXB Thành phố Hồ Chí Minh, trang 10.
2. Nguyễn Chí Bền (1995), Tìm hiểu một số mặt văn hóa truyền thống ở Bến Tre, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Bộ Văn hóa – Thông tin viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, trang 72.
3. Lư Nhất Vũ – Lê Giang (2000), Dân ca Bến Tre, Sở Văn hóa Thông tin Bến Tre, trang 129.
4. Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2000), Đặc khảo Hát sắc bùa, Sở Văn hóa _Thông tin Tp. Hồ Chí Minh, trang 76.
5. Dẫn theo Huỳnh Ngọc Trảng (2002), Diễn xướng dân gian Gia Định – Sài Gòn, Trung tâm văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, trang 143.
6. Nguyễn Chí Bền (1995), Tìm hiểu một số mặt văn hóa truyền thống ở Bến Tre, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Bộ Văn hóa – Thông tin viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, trang 69.
7. Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2000), Đặc khảo Hát sắc bùa, Sở Văn hóa _Thông tin Tp. Hồ Chí Minh, trang 76.
8. Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2000), Đặc khảo về Hát sắc bùa, Sở Văn hóa _Thông tin Tp. Hồ Chí Minh, trang 76.
9. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 – 1945), Tủ sách Sử - Học Phủ Quốc – Vụ - Khanh Đặc – Trách Văn – Hóa, trang 169.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ xã Phú Lễ huyện Ba Tri – tỉnh Bến Tre (2009), Lịch sử đấu tranh Cách Mạng xã Phú Lễ, Lưu hành nội bộ.
2. Huỳnh Ngọc Trảng (1992), Hát sắc bùa Phú Lễ [Ba Tri – Bến Tre], Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2000), Đặc khảo Hát sắc bùa, Sở Văn hóa _Thông tin Tp. Hồ Chí Minh.
4. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2002), Diễn xướng dân gian Gia Định – Sài Gòn, Trung tâm văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Lư Hội (2005), Các hình thức diễn xướng dân gian ở Bến Tre, Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Bến Tre.
6. Lư Nhất Vũ, Lê Giang (1981), Dân ca Bến Tre, Ty Văn hóa – Thông Tin Bến Tre.
7. Nguyễn Chí Bền (1995), Tìm hiểu một số mặt văn hóa truyền thống ở Bến Tre, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Bộ Văn hóa – Thông tin viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
8. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 – 1945), Tủ sách Sử - Học Phủ Quốc – Vụ - Khanh Đặc – Trách Văn – Hóa.
9. Nguyễn Đăng Vũ (2003), Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, Luận án tiến sĩ lịch sử, Viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
10. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam bộ những phác thảo, Nxb Giáo Dục.
Nguồn: Nghệ thuật âm nhạc phương Đông, Bản sắc và giá trị, NXB. ĐHQG-TP. HCM, 2014.