Những người Việt, người Hoa làm nghề tiểu thương lại càng năng viếng Bà hơn nữa. Ngoài ra, còn có một bộ phận người Việt định cư nước ngoài cũng về viếng Bà. Một lễ hội có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân và mang tính chất xã hội, thu hút đông đảo quần chúng tham gia, xứng đáng để cho các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tìm hiểu về tín ngưỡng Bà Chúa Xứ từ góc nhìn của lễ hội dân gian xét theo các đặc trưng như: tính nguyên hợp, tính diễn xướng, tính thẩm mỹ, và tính cộng đồng của lễ hội.
M. Bakhtin định nghĩa về lễ hội như sau: “Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động, chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể trở thành lễ hội được nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng vượt lên trên thế giới của phương tiện và điều kiện tất yếu; đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”. Giáo sư người Nhật Kurahayashi phát biểu thêm về lễ hội như sau: “Xét về tính chất xã hội của lễ hội, lễ hội là quảng trường tâm hồn; xét về tính chất văn nghệ, lễ hội là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng nghệ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật giải trí, trò diễn và với ý nghĩa đó, lễ hội tồn tại và có liên hệ mật thiết với sự phát triển của văn hóa”[1].
1. Đôi nét về lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc
Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc tự bản thân nó là một lễ hội hoàn chỉnh với phần lễ (thể hiện tính chất lễ nghi, tôn nghiêm sùng bái đối tượng chính là Bà Chúa Xứ) và phần hội (phần văn nghệ quần chúng, vui chơi, giải trí của cộng đồng). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của lễ hội mà có lễ hội nặng về phần lễ hoặc có lễ hội nặng về phần hội. Theo chúng tôi, lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc nặng về phần lễ nghi hơn. Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc là sự kết hợp của văn hóa nông nghiệp và triết lý âm dương của người Việt. Triết lý âm dương của người Việt thể hiện qua huyền thoại về việc di dời tượng bà từ đỉnh núi Sam Châu Đốc bằng 9 cô gái đồng trinh[2]. Cốt tượng Bà là một người đàn ông mập, lùn, tay chống nẹ ở tư thế ăn quá no [Nguyễn Minh San: 1994]. Không ai thấy khuôn mặt thật của bà trừ những người đầu tiên được cử ra trang điểm cho bà và những người chứng kiến cảnh khiêng tượng bà từ đỉnh núi Sam xuống vị trí điện thờ ngày nay, và không ai trong số họ mô tả lại khuôn mặt thật của tượng bà.
Chúng tôi đến Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc nghiên cứu và thông qua một số tài liệu ghi chép[3], có thể khái quái nghi thức lễ hội vía Bà theo trình tự thời gian và không gian như sau:
1.1. Lễ tắm tượng Bà
Tổ chức vào lúc 24 giờ đêm ngày 23, rạng ngày 24 tháng 4 âm lịch.
Nói là tượng tắm Bà nhưng thực chất là lau bụi bặm bám trên cốt tượng Bà bằng nước thơm được nấu và pha trộn nhiều nước hoa tốt do các tín thí dâng cúng. Lau bụi bặm xong, tượng Bà được thay xiêm y mới, hài mới, mão mới trong một không gian chật hẹp là chánh điện được quây lại và chỉ có những người được Ban quản trị lựa chọn mới được tham gia.
1.2. Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà
Lễ này thường được thực hiện vào khoảng 15h00 ngày 24 tháng 4 âm lịch. Các bô lão trong làng được cử ra cùng với Ban quản trị miếu Bà bận trang phục chỉnh tề, nghiêm trang sang thỉnh sắc ở lăng Thoại Ngọc Hầu. Đoàn thỉnh sắc phong có đội múa lân của miếu Bà đi trước, kế đến là ông chánh bái, hai vị bô lão và những chức sắc khác rồi theo sau là học trò lễ với tay cầm cờ phướng. Tới trước điện thờ Thoại Ngọc Hầu, mọi người dâng hoa, niệm hương, tế lễ. Sau đó, họ thỉnh bốn bài vị lên long đình về miếu Bà. Bốn bài vị đó là: bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bài vị của bà chánh phẩm Châu Thị Tế, bài vị của bà nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị Hội đồng.
1.3. Lễ túc yết
Lễ này được tổ chức vào 0 giờ ngày 25 và rạng ngày 26 tháng 4 âm lịch. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị miếu với lễ phục chỉnh tề, đứng xếp thành hai bên, trước chánh điện. Phía sau các vị ấy là bốn học trò lễ và bốn đào thày. Đứng chính diện với tượng Bà là ông Chánh bái. Lễ vật cúng được chuẩn bị từ trước đó không lâu rất kỹ lưỡng gồm: một con heo trắng đã cạo lông, mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chính; một đĩa đựng ít lông và máu của con heo (ế mao huyết); một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa gạo muối.
Khi cúng, ông Chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Sau khi đánh ba hồi trống gõ và ba hồi chiêng trống, nhạc lễ bắt đầu trỗi lên là lễ dâng hương, chúc tửu và hiến trà. Từng diễn biến của buỗi lễ được hai người xướng lễ (một xướng nội, một xướng ngoại) xướng to lên. Ông Chánh bái đi trước, bốn học trò lễ và bốn đào thày đi theo sau, hướng về phía bàn thờ tổ. Tại đây, ông Chánh bái tự tay rót rượu để học trò lễ đem dâng cúng.
Sau khi dâng hoa và dâng ba lần rượu gọi là chúc tửu, ba lần trà gọi là hiến trà, theo lệnh của người xướng lễ, văn bản tế được mang đến trước bàn thờ và một người trong ban quản trị miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông Chánh bái đốt bài văn tế này, heo cúng sống trên bàn được lật ngửa ra trước khi khiêng đi chế biến.
1.4. Lễ xây chầu
Sau lễ túc yết là lễ xây chầu. Lễ này, có mặt hầu như ở tất cả các lễ hội cúng đình ở làng Nam Bộ.
Vào lễ, người xướng nội hô to: “Ca công tựu vị”, tức thì ông Chánh bái ca công liền bước tới bàn thờ đặt giữa võ ca, tay cầm hai dùi trống nâng lên ngang trán, miệng khấn vái râm rang. Trên bàn thờ có chuẩn bị sẵn một tô nước và một nhành dương liễu. Sau khi khấn vái, tô nước được xem là nước thiêng, nước thánh của. Ông Chánh bái ca công cầm nhành dương nhúng vào tô nước rồi vảy xung quanh với động tác ma thuật tựa như mưa rơi với ý nghĩa ban phát năng lượng thiêng xuống cõi trần cầu cho vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Vừa làm những động tác ấy, ông vừa xướng to:
“Nhất xái thiên thanh (một rảy cho trời xanh).
Nhị xái địa linh (hai rảy cho đất tốt lành).
Tam xái nhân trường (ba rảy cho con người trường thọ).
Tứ xái quỷ diệt hình (bốn rảy cho ma quỷ tiêu tan)”.
Đọc xong, ông Chánh ca công đặt tô nước và cành dương liễu trở lại bàn thờ, ông đánh ba hồi trống và xướng “ca công tiếp giá”, lập tức đoàn hát bội nổi chiêng trống rộ lên và chương trình hát bội bắt đầu. Các tuồng hát chuẩn bị sẵn bắt đầu nhảy vào cuộc, trước là phục vụ, mua vui cho Bà, sau là phục vụ cho bà con tham dự lễ hội thưởng thức. Phần hội thực sự bắt đầu.
1.5. Lễ chánh tế
Bắt đầu lúc 4 giờ sáng ngày 26 tháng 4 âm lịch. Nghi thức cũng tương tự như lễ cúng túc yết, chỉ khác là thêm một phần nội dung văn tế và có thêm phần “ẩm phước” với ý nghĩa là phần thưởng của Bà ban cho nhân dân mà vị Chánh tế đứng ra nhận lãnh thay. Theo nhà văn Sơn Nam, nghi lễ “thụ tộ” hoặc “ẩm tộ” hưởng tượng trưng lộc của thần, dùng chén rượu đã cúng mà uống, thay cho dân làng: “ ‘ẩm phước’, uống phần rượu trên bàn thờ, cúng nãy giờ, đem xuống cho Chánh tế, Bồi tế uống tượng trưng, rồi “thụ tộ” ăn phần thịt đã cúng, tượng trưng, thường là ăn trái cây (nho, nhãn), ăn và uống thay mặt cho dân làng, như là lộc của thần thánh” [Sơn Nam 2005: tr.359].
Đến 14 giờ chiều ngày 27 tháng 4 lâm lịch, Ban quản trị làm lễ hồi sắc, tức đưa bốn bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, bà Trương Thị Miệt và bài vị Ban hội đồng về lại lăng ông Thoại Ngọc Hầu, chính thức kết thúc lễ hội.
(Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Nguồn: www.dulich.chudu24.com)
2. Tính nguyên hợp của lễ hội vía Bà
Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc từ khi ra đời đã là một lễ hội phục vụ cho đông đảo quần chúng. Một số công trình nghiên cứu nghiên cứu về lễ hội vía Bà Chúa Xứ cố gắng truy nguyên nguồn gốc và thời điểm xuất hiện của lễ hội này nhưng nói chung cho đến nay mới dừng lại ở việc đưa ra các giả thuyết. Có hai giả thuyết về tục thờ cúng và sau đó trở thành lễ hội Bà Chúa Xứ, đó là miếu Bà được dựng lên do người Việt khi họ tới khai phá vùng đất này. Cụ thể hơn, có ý kiến cho rằng miếu bà được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, khoảng 1820-1825, trùng với thời gian phát hiện ra pho tượng bà. Một ý kiến khác là do ông Thoại Ngọc Hầu xây dựng.
Thờ Mẫu, một tín ngưỡng đặc trưng của người Việt. Cốt tượng bà Chúa Xứ về nguyên bản mà nói đó là cốt tượng một người đàn ông. Do tư tưởng sùng bái Thánh Mẫu của người Việt đã biến pho tượng nam tính thành pho tượng nữ thần. Không phải ngẫu nhiên hoặc do sở thích mà người Việt đi làm cái việc là biến một pho tượng nam thần thành nữ thần mà là do trong tâm thức của người Việt, thờ Mẫu, thờ nữ thần là một tín ngưỡng rất gần gũi với họ. Người mẹ, nguyên lý mẹ, trong tâm thức và văn hóa của người Việt thì dễ gần gũi, thông cảm hơn người cha. Người mẹ thương yêu những đứa con của mình với tất cả tình thương, lòng từ. Những đứa con dựa vào mẹ để được che chở. Cũng như vậy, người Việt, người Hoa, người Chăm và người Khmer đến với Bà Chúa Xứ cũng mong được Bà che chở, phù hộ bằng tất cả tâm tư, tình cảm và nguyện vọng. Lễ hội vía Bà Chúa Xứ là do nhân dân tạo ra và rồi nó quay lại phục vụ nhân dân cả về mặt tâm linh lẫn sinh hoạt văn hóa với các khía cạnh nghệ thuật, diễn xướng v.v… Đến với lễ hội vía Bà Chúa Xứ, tất cả mọi người, tùy theo mục đích, nguyện vọng nhưng tất cả họ đều ra về với sự thỏa mãn về mặt tâm hồn, tâm linh, ai cũng gửi gắm ít nhiều vào Bà, ai cũng có được niềm tin là Bà che chở, gia hộ về sức khỏe, tài lộc v.v…
3. Tính diễn xướng dân gian của lễ hội vía Bà
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan xem mọi hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đều có tính diễn xướng trong đó[4]. Hình thức sinh hoạt sơ khai cho dù là kể một câu chuyện. Các hình thức của diễn xướng dân gian như: Nói, kể, vè, hát, hò, trò diễn, múa, ca, vũ, lễ, nhạc họa v.v… tất cả thuộc về folklore. Tính diễn xướng của văn hóa dân gian là rất quan trọng, nó làm cho hình thức sinh hoạt lễ hội tiếp tục sinh động, hay nói cách khác diễn xướng tồn tại trong môi trường lễ hội và thể hiện rõ ràng nhất trong nó. Chúng tôi cho rằng tính diễn xướng dân gian thể hiện đậm nét nhất trong lễ hội này.Tính diễn xướng thể hiện từ các nghi thức cúng tế rất khác biệt với những sinh hoạt ngày thường của người dân. Nó đòi hỏi người thực hiện phải được tập luyện kĩ càng để thể hiện các nghi thức một cách tôn kính đối với các đối tượng được sùng bái trong lễ hội như vị anh hùng dân tộc, một bà mẹ xứ sở, vị thần thành hoàng v.v… Sau phần lễ nghi cúng tế ấy, phần hội lại càng cho thấy tính tất yếu của diễn xướng qua các trò diễn giúp vui cho đối tượng được tôn sùng cũng như phục vụ văn nghệ quần chúng. Cốt tượng Bà Chúa Xứ với vẻ mặt rất sắc lạnh tạo cảm giác tôn kính, nghiêm trang với quần chúng nhân dân, những người trực tiếp đến chiêm ngưỡng. Cho nên, những người đến chiêm bái, cúng tế có cảm giác dường như Bà rất nghiêm trang, ánh mắt của bà luôn theo dõi những cử chỉ, hành vi của họ, do đó họ không dám có thái độ bất kính với bà vì sợ bà quở phạt. Thông qua các hoạt động mang tính diễn xướng trong ngày lễ hội, nhân dân cảm thấy gần gũi với Bà hơn. Hát bội, diễn xướng cũng là để phục vụ Bà, nhân dân cùng xem, do đó họ có cảm giác gần gũi với Bà. Hát bội, xây chầu đại bộ là diễn xướng phổ biến nhất của nghi thức cúng đình thần Nam Bộ nói chung và lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc cũng không ngoại lệ.
Diễn xướng lễ hội vía bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc thuộc loại diễn xướng gắn liền với tín ngưỡng của người bản địa. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải tập trung tư tưởng cao độ đến mức nhập tâm để phô diễn tất cả những tài nghệ nhằm phục vụ thần thánh và quần chúng nhân dân. Như vậy, trong chừng mực nào đó, diễn xướng là môi trường, là đất sống nuôi dưỡng và phát triển của nghệ thuật chuyên nghiệp. Nhiều trường hợp, diễn xướng dân gian phát triển thành nghệ thuật chuyên nghiệp.
Diễn xướng trong lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc chung quy lại là cầu an, cầu thịnh, trừ tà ma, tăng sự phồn thực cả về mùa màng và con người, vật nuôi; cầu quốc thái dân an: “Nhất xái thiên thanh; Nhị xái địa linh; Tam xái nhân trường; Tứ xái quỷ diệt hình”.
Tính diễn xướng trong lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc được thể hầu như qua các giai đoạn của một lễ hội theo trình tự từ những lễ nghi, nghi thức cúng Bà như lễ tắm bà, lễ thỉnh sắc phong Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà, lễ túc yết, lễ xây chầu, lễ chánh tế. Trong đó, lễ xây chầu thể hiện phần hội nhiều nhất, mua vui cho Bà cũng như những người tham gia, do đó mà có tính diễn xướng nhiều nhất.
4. Tính thẩm mỹ của lễ hội vía Bà
Tính thẩm mỹ của tín ngưỡng thờ bà chúa xứ từ lễ hội dân gian thể hiện trên nhiều phương diện, từ những vật phẩm dâng cúng Bà được bàn tay con người tạo hình nắn nót cho đến những màn biểu diễn hát bội mang đầy tính nghệ thuật được chuẩn bị một cách công phu. Tính thẩm mỹ ở lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc còn thể hiện ở sựhài hòa trong hình khối, màu sắc, hài hòa với môi trường và thỏa mãn được nhu cầu của nhân dân với tư cách là người sáng ta và hưởng thụ nó. Mọi người tham gia lễ hội về, ai cũng thấy thoả mãn, đẹp lòng.
Đến với lễ hội vía Bà, nhân dân còn được chiêm ngưỡng nghệ thuật trang trí trên kiến trúc miếu bà, đặc biệt là những người biết chữ Hán có thể đọc các câu liễn đối, hoành phi ca tụng Bà và cũng là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân như:
“Chúa vạn hữu thành khả thế giới mục quan tự điểm
Xứ nhất phương chí công vô tư nhân xưng nhĩ thích
(Chúa muôn họ có thành khá đến đời đời mắt sáng,
Xứ một phương đến công không riêng người xưng tai nghe như sấm).
Nhất thống miếu trung vạn lý quan từ đại nhật
Tâm tùng thánh mẫu thiên thu hộ quốc tỳ dân.
(Thống nhất trong miếu muôn dặm, ánh quang từ thay mặt trời,
Tấm lòng Bà Thánh mẫu ngàn thu giữ nước che dân)” [Thái Thị Bích Liên 1998: 85-86].
5. Tính cộng đồng của lễ hội vía Bà
Nhìn chung, tính cộng đồng của lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc được thể hiện trên các phương diện sau đây: cộng cư, tức cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ, cùng chia sẻ các công trình công cộng chung như đình, miếu; cộng lợi, cộng đồng về lợi ích, sở hữu về tài nguyên, đất đai, hợp tác sản xuất, kinh doanh v.v…; cộng mệnh, cộng đồng về tâm linh, cùng thờ cúng và được sự che chở của một thần linh chung là Bà Chúa Xứ; cộng cảm, cùng chia xẻ các cảm xúc, các giá trị về văn hóa chung.
Tôn giáo và tín ngưỡng dân gian đều là những hiện tượng xã hội mà dù có muốn hay không thì nó cũng là liên quan đến số đông quần chúng, đều mang tính cộng đồng. Do đó, việc thừa nhận lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc và quần thể kiến trúc miếu Bà là một di tích lịch sử quốc gia là một việc làm đúng đắn phù hợp niềm tin của nhân dân. Việc nhà nước đứng ra tổ chức lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc giúp nhân dân tránh khỏi những mặc cảm về tín ngưỡng, về những điều mà ít hay nhiều trong tâm thức họ, về một vài khía cạnh nào đó, một số người cho rằng là mê tín.
Chúng tôi cho rằng, tính cộng đồng của lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc là rất cao, vì nó có ảnh hưởng tới số đông cư dân Việt, Hoa, Chăm và Khmer cùng chung sống, cộng cư, cộng lợi trên vùng đất Nam Bộ. Ngoài ra lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc còn giúp cho họ được cộng mệnh thông qua việc thờ cúng Bà Chúa Xứ, chia sẻ những niềm tin tâm linh và sự gia hộ của thánh thần. Điều đó giúp cho thành phần dân tộc sinh sống trên địa bàn càng hiểu, thông cảm và chia sẻ với nhau hơn. Nhờ chia sẻ cùng một niềm tin, tín ngưỡng chung mà các dân tộc thông cảm với nhau hơn, cùng nhau xây dựng một cộng đồng dân cư văn hóa tốt đẹp. Đó chính là tính chất cộng cảm mà lễ hội vía Bà mang lại cho nhân dân.
Lễ hội vía Bà còn thể hiện tính cộng đồng của cư dân làm nông nghiệp. Cư dân nông nghiệp có đời sống gắn bó chặt chẽ với thời tiết, khí hậu. Tháng 4 âm lịch là thời gian Nam Bộ chuẩn bị bước vào mùa mưa. Hành động cầu mưa của cộng đồng được thể hiện qua các nghi thức của ông chánh tế, khi ông này cầm nhành dương liễu nhúng và rảy nước tượng trưng cho những hành động ma thuật, động tác làm mưa. Đối với cư dân nông nghiệp, không có gì tốt đẹp hơn một năm mưa thuận gió hòa. Đây là một nghi thức rất đặc trưng có trong tất cả các cuộc cúng đình Nam Bộ. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc là sự kết hợp giữa lễ hội cúng đình của người Nam Bộ và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
6. Vài lời kết
Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc nằm trong hệ thống thờ cúng Đạo mẫu của cư dân sinh sống trên dải đất Việt Nam. Ở vùng đất mới cực nam của Tổ quốc như An Giang, cư dân Việt, Hoa, Khmer đã tôn sùng một Bà Mẹ của xứ sở rất gần gũi với tâm thức của người Việt, đúng như Nhà văn Sơn Nam từng có ý kiến “Thờ phụng thêm vài vị thần như thờ cái đầu con sấu ở mé sông, thờ vài cục đá – như người Khmer đã từng làm – được người Việt vui vẻ chấp nhận, vì nó giống như thờ cọp, thờ bà chúa Xứ” [Sơn Nam 2004: 304-305]. Bà Chúa Xứ được xem là một vị thần bảo hộ của vùng đất, có quyền năng vô hạn, việc tôn thờ Bà và niềm tin được Bà che chở khiến cho cư dân thấy yên tâm làm ăn. Người dân đến với lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc không chỉ có được sự đồng cảm về biểu tượng chung – biểu tượng của niềm tin tâm linh - mà còn có niềm cộng cảm về các giá trị văn hóa. Một cuộc hành hương, thăm viếng Bà tại vùng đất linh thiêng cộng với cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ giúp con người trút đi bao nỗi phiền muộn, âu lo trước cuộc sống hiện đại hối hả, tất bật ngày nay.
Nguồn: Tín ngưỡng thờ mẫu Nam Bộ-Bản sắc và giá trị, NXB ĐHQG TP. HCM, 2014