Người Việt hiện nay là một cộng đồng dân cư đa số trên vùng đất Nam Bộ vốn đa tộc người. Người Việt đã hiện diện và mở mang, khai khẩn vùng đất Nam Bộ qua hơn ba thế kỷ. Trong hơn ba thế kỷ thời gian đó, người Việt đã tạo dựng không chỉ cho mình mà cả cho vùng đất phía Nam một diện mạo văn hoá, một vai trò với nhiều ảnh hưởng lớn lao trong công cuộc phát triển vùng đất này. Văn hoá của người Việt ở Nam Bộ vừa có sự thống nhất với văn hoá Việt trong cả nước, vừa có những sắc thái vùng miền. Văn hoá Việt ở Nam Bộ không chỉ hơn 300 năm, mà bề dày, theo tôi, phải cộng thêm hàng ngàn năm trước đó, cái hằng số văn hoá Việt vốn có, trước khi tạo dựng trên miền đất này.
1. Sự tái cấu trúc làng Việt ở Nam Bộ
Đến vùng đất Nam Bộ, một trong những việc cần làm lúc ban đầu là khẩn hoang và lập làng. Vốn là những cư dân nông nghiệp từ phía Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, nơi đó, người Việt đã gắn canh tác nông nghiệp với sự ổn định của làng xóm, một thiết chế xã hội truyền thống của người Việt. Trong công cuộc định cư ở vùng đất mới, hành trang của lưu dân người Việt, không chỉ có cuốc cày, lúa giống… àm còn cả một truyền thống văn hoá trong đó có phương thức tổ chức cuộc sống dựa trên sự quần cư làng xóm. Sự quần cư của những lưu dân là một trong chỗ dựa, tạo nên sức mạnh để người Việt chinh phục vùng đất hoang dã phương Nam với nhiều thách đố. Làng xóm của người Việt trên đất Nam Bộ là một sự tái cấu trúc làng Việt nơi vùng miền này, là nhu cầu của sự sinh tồn của người Việt.
Định cư và khai khẩn vùng đất Nam Bộ, không chỉ có người Việt mà còn có các cộng đồng cư dân các dân tộc anh em khác như người Khmer, người Hoa, người Chăm… Lịch sử và diễn trình của các tộc người này có nét khác nhau, nhưng hơn hết, họ đã cùng người Việt đoàn kết, gắn bó để mở mang và phát triển vùng đất Nam Bộ. Người Khmer, vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, từ phái trên châu thổ sông Mêkông đã mở rộng địa bàn cư trú xuống vùng hạ lưu châu thổ. Đến đồng bằng sông Cửu Long sớm hoặc cùng thời với người Việt từ phía Bắc vào. Người Khmer, đã lập nên những phum sóc định cư trên các giồng đất cao làm nơi khởi điểm cho công cuộc khẩn hoang. Người Hoa đến Nam Bộ từ giữa và cuối thế kỷ XVII. Họ cũng là những lưu dân Trung Hoa, vì nhiều lý do, chủ yếu là bởi sự nghèo đói, khổ cực, đã rời bỏ đất nước đến nam Bộ tìm đất mưu sinh. Với sự thể nghiêm của nhà nước phong kiến xứ Đàng Trong, cho phép người Hoa lập nên các làng Minh Hương và Thanh Hà để định cư và quản lý. Người Chăm, từ khoảng giữa và cuối thế kỷ XVIII, từ Campuchia trở về Nam Bộ định cư trên các cù lao sông Hậu ven biên giới. Ở đây, người Chăm đã lập nên các palây Chăm, cùng các thánh đường Hồi giáo, để ổn định cuộc sống. Những palây Chăm ở Nam Bộ là phần nào của sự tái thiết lập các palây Chăm ở duyên hải Nam Trung Bộ, nơi có đông đảo người Chăm Việt Nam cư trú và sinh sống.
Như vây, là trên vùng đất Nam Bộ, các cộng đồng người đã cố gắng thiết lập và tái thiết lập, hoặc tái cấu trúc các tổ chức xã hội truyền thống trong công cuộc định cư và mở mang vùng đất này. Mỗi cộng đồng tộc người ở đây có cách tạo dựng, và tái thiết khác nhau, tuy nhiên, theo tôi, sự tái cấu trúc làng xóm của người Việt đã đạt được nhiều thành công và hiệu quả. Làng Việt Nam Bộ, vừa gần với nguyên mẫu ở Bắc Bộ vừa có những biến thái độc đáo, mà hiện nay vẫn còn nhiều điều cần nhận thức thoả đáng hơn, cần có sự phân tích những nét giống và khác nhau giữa hai vùng miền.
Đã có một số công trình nghiên cứu về làng Nam Bộ trong thời gian qua, các tác giả đã chú đến sự tương đồng và dị biệt của làng ở hai miền, và đã bước đầu nhận diện về làng ở Nam Bộ. Có lẽ trong một số bài nghiên cứu, thường nhấn mạnh đến mối quan hệ láng giềng của các làng Việt hơn là những quan hệ huyết tộc so với làng Việt ở Bắc Bộ. Cảnh quan của làng Việt Nam Bộ thoáng mở, không bị bó trong luỹ tre làng mà gắn với sông nước và các trục lộ giao thông. Đình làng Việt Nam Bộ cũng đa dạng các vị thần được thờ tự, khác với đình phía Bắc chỉ độc tôn thần Thành Hoàng… Rõ ràng làng Việt Nam Bộ được tái cấu trúc trên cơ sở văn hoá làng truyền thống của làng Việt phía Bắc, những công xã nông thôn hoặc nông nghiệp đã từng tồn tại trước đó. Tuy nhiên, sự tái cấu trúc này có sự chọn lựa, sự thích ứng với vùng đất Nam Bộ, với không gian sinh tồn của tộc người Việt, một hệ giá trị văn hoá Việt truyền thống được các di dân xử lý và chọn lựa phù hợp.
2. Một cố gắng giải Hán
Văn hoá Hán đã ảnh hưởng đến văn hoá Việt, đặc biệt là Nho giáo, tuỳ lúc, tuỳ nơi đã tham dự vào việc hình thành các chuẩn mực cho hệ giá trị văn hoá Việt với mức độ ít nhiều. Một cố gắng giải Hán của người Việt đã có từ khá sớm, gắn với công cuộc giành độc lập của quốc gia Đại Việt xưa. Khi Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo, rằng: “phong tục Bắc Nam có khác”, là một thể hiện cố gắng giải Hán của Việt Nam trong lịch sử.
Văn hoá Trung Hoa đã được du nhập vào vùng đất Nam Bộ bằng nhiều ngã đường. Ít nhất là từ hai nguồn, thứ nhất là từ người Việt, vốn đã ảnh hưởng văn hoá Hán ở phía Bắc. Khi đến định cư ở Nam Bộ, trong nếp sống, quan hệ ứng xử, giao tiếp… đã đem theo những ảnh hưởng văn hoá Hán đó. Một nguồn khác, là trực tiếp từ các di dân người Hoa đến định cư trên đất Nam Bộ qua nhiều thế kỷ. Một tất yếu, ảnh hưởng của văn hoá Hán hiện diện trong hệ giá trị văn hoá của người Việt ở Nam Bộ. Cứ xem trong tầng lớp nho sĩ đất Gia Định, thì rõ hơn, bên cạnh Võ Trường Toản, Lê Quang Định, Nguyễn Đình Chiểu… thì còn có Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Ngô Nhân Tịnh là những nho sĩ gốc người Hoa. Tầng lớp nho sĩ này đã có những đóng góp tích cực cho sự định hình một văn hoá Nam Bộ trong quá trình lịch sử.
Tuy nhiên, một quá trình ngược lại, sự giải Hán cũng đã được khởi động khá sớm trong văn hoá Việt ở Nam Bộ. Có thể xem xu hướng giải Hán là một trong những nhu cầu và động lực cho sự phát triển vùng đất Nam Bộ và cũng là một trong những hệ giá trị văn hoá của người Việt ở Nam Bộ. Con đường Nam tiến của người Việt Nam Bộ là một chọn lựa khó khăn và day dứt, nhưng không còn cách nào khác. “Từ thuở mang gươm đi mở cỏi. Ngàn năm thương nhờ đất Thăng Long”, những con người đi mở cỏi ấy, luôn day dứt với quê cha đất tổ. Nhưng họ cũng là những anh hùng hoặc người hùng của một thời đại. Họ đã từ bỏ rất nhiều trước khi bước vào một cuộc mạo hiểm với nhiều thách đố, chông chênh trên vùng đất mới phương Nam. Họ đã dứt bỏ với những ràng buộc của quá khứ, trong đó có cả những đạo đức của Nho giáo nhằm quy định nếp sống, nếp nghĩ của một con người “Trời sinh cây cứng là dai. Gió lay mặc gió, chiều ai không chìu”. Danh vọng, địa vị, chức tước và cả gia đình dòng tộc đã lùi lại phía sau cho một cuộc kiếm tìm vùng đất mới, cho sự chinh phục.
Hệ giá trị văn hoá của người Việt được thiết lập trên vùng đất Nam Bộ này có sự xem xét lại những giá trị đạo đức được kiến tạo trên nền Nho giáo. Nho giáo ở Gia Định được đem ra xem xét lại, được sắp xếp theo một trật tự phù hợp, và thực tiễn hơn. Một Lục Vân Tiên, thấy chuyện bất bình chẳng tha, một Hán Minh sẳn sang bẻ giò con quan huyện, và Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự vẫn vì biết mình có lỗi với vùng đất Nam Bộ để lọt vào tay kẻ thù. Những rang buộc, cản ngại của đạo đức Nho giáo cho sự phát triển vùng đất này được loại bỏ. Những “quân, thần, phụ, tử”, những “nam nữ thụ thụ bất thân”… được hiệu chỉnh vượt thoát ngưỡng giá trị đạo đức cổ điển. Ở Nam Bộ, người phụ nữ có vai trò cao hơn, người con gái út có nhiều sự tôn trọng và cả quyền hành nữa. Những nho sĩ ở Nam Bộ không quá bị ràng buộc bởi lễ giáo, chữ nghĩa, họ hành động vì sự công bằng, vì lẽ phải và vì quyền lợi của cộng đồng là trên hết.
Chính sự giải Hán đó, đã góp phần tạo nên phong cách của người Nam Bộ, tính thoáng mở, và ý thức trách nhiệm của việc làm, và cả long dũng cảm đi mở đất của một thuở thời ban sơ.
3. Sự tích hợp đa hệ giá trị văn hoá
Nam Bộ, vùng đất đa tộc người, đa văn hoá. Cùng cư trú nơi đây, ngoài người Việt, còn có người Hoa, Khmer, Chăm, và một số các tộc người khác. Nét chung nhau về văn hoá, đó là các cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa. Tuy nhiên, do những hoàn cảnh lịch sử, và diễn trình tộc người, mỗi cộng đồng cư dân có những nét văn hoá riêng, những cách ứng xử khác nhau với môi trường sống nơi đây. Trong quá trình cộng cư qua nhiều thế kỷ, các cộng đồng cư dân các dân tộc đã có sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá rất mật thiết, đã tạo nên sự đa dạng văn hoá của vùng đất Nam Bộ. Người Việt đã có nhiều đóng góp vào sự đa dạng và đặc thù của văn hoá Nam Bộ, nhưng ngược lại cũng nhận được nhiều từ văn hoá của các cộng đồng Hoa, Khmer, Chăm… Sự tiếp nhận đó, đã không chỉ làm phong phú văn hoá Việt Nam Bộ, mà còn tạo nên nét riêng của người Việt Nam Bộ so với các vùng miền khác trong nước.
Sự tích hợp các hệ giá trị văn hoá của người Việt ở Nam Bộ không chỉ từ phía các tộc người cộng cư, mà còn của nhiều văn hoá khác ngoài Nam Bộ và Việt Nam. Nam Bộ là vùng đất, về mặt vị trí địa lý, nằm cuối bán đảo Đông Dương hay còn gọi là Trung Ấn, nơi từ sớm đã là vùng chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn và Trung Hoa. Nam Bộ cũng là nơi nằm trên con đường hang hải quốc tế từ tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam, con đường của tơ lụa, gốm sứ, hương liệu và lúa gạo… nên đã sớm đón nhận ảnh hưởng của các nền văn minh của thế giới. Vào giữa và cuối thế kỷ XIX, Thực dân phương Tây tiến hành công cuộc thuộc địa trên vùng đất Nam Bộ và mở rộng ra toàn Việt Nam. Những năm 50-60 của thế kỷ XX, đế quốc Mỹ đã can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Bề trái của sự xâm lược và can thiệp này là nô lệ và thống trị Việt Nam, nhưng mặt khác nằm ngoài ý chủ quan của kẻ xâm lược là người Nam bộ đã tiếp nhận văn hoá phương Tây. Sự tích hợp các hệ giá trị văn hoá này nhìn chung khá phức tạp vừa tự nguyện vừa mang tính đồng hoá. Nhưng hơn hết, người Việt nam Bộ đã biết cách chọn lựa, và tiếp nhận trên nền tảng của hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam.
Sự tích hợp các hệ gái trị văn hoá của người Việt Nam Bộ đã góp phần tạo nên một sắc thái cho văn hoá Việt Nam Bộ, cho tính cách của người Việt nam Bộ. Tính cách, sắc thái đó đã có một số người đề cập, cái gọi là tính “mở” của văn hoá và con người Việt Nam Bộ.
4. Sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá trong hôm nay
Người Việt Nam Bộ hôm qua và hôm nay, người Việt Nam Bộ thuở di dân khẩn hoang lập ấp (làng) và bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có nhiều đổi thay khác biệt. Ở một góc độ nào đó, cũng là sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá, là sự thích ứng văn hoá của người Việt Nam Bộ thời hội nhập. Vấn đề được đặt ra ở đây, là tính biện chứng của hệ giá trị văn hoá, và lien quan đến nó là sự định chuẩn hệ giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Mác Anghen, nếu xem văn hoá là thượng tầng kiến trúc, thì “nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực”… (Anghen P. Thư gửi J.Bloh 1890).
Rất nhiều bài viết về đất và người Nam Bộ, thường hay trích dẫn nhận xét của Trịnh Hoài Đức trong sách Gia Định Thành Thông Chí, rằng người xứ Gia Định “Trọng nghĩa khinh tài”. Đó là nhận xét sâu sắc và có tính phổ quát, có cơ sở lịch sử và thực tiễn. Liệu nhận xét đó về người Việt Nam Bộ gần 2 thế kỷ về trước và người Việt Nam Bộ hôm nay có còn phù hợp? và nếu còn phù hợp thì phù hợp như thế nào về “nghĩa” và “tài”, hơn nữa còn phù hợp đến bao giờ hay chỉ nói chung chung là lâu dài? Theo tôi, trả lời những câu hỏi này cũng là góp vào việc nghiên cứu sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá, một chủ đề của hội thảo khoa học.
Người Việt Nam Bộ, theo tôi, hôm qua và hôm nay có nhiều khác nhau, trong đó có đời sống văn hoá. Những biến đổi kinh tế xã hội trong hơn ba thế kỷ qua kể từ ngày lưu dân Việt tìm đến Nam Bộ, càng về sau càng gia tốc, đặc biệt là trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX. Nhiều vấn đề cần được quan tâm đến việc nghiên cứu người Việt Nam Bộ hôm nay, đó là những chuyển đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, những tác động từ trong và ngoài nước, tính toàn cầu hoá, đô thị hoá, chuyển đổi cơ cấu dân cư… Chỉ xét riêng về mặt cơ cấu dân cư người Việt Nam Bộ hôm nay đã thấy khá đa dạng và phong phú hơn. Họ là con cháu của những thế hệ đi mở đất khai hoang, là những con cháu của người Việt hoà huyết với các cộng đồng cư dân cộng cư, là những thế hệ người Việt tiếp tục di cư từ Bắc vào lien tục qua nhiều biến cố lịch sử… Người Việt Nam Bộ là một khái niệm rộng và không rõ ràng, người Việt vào Nam Bộ trước năm 1954 và sau 1975 có khác, người Việt Nam Bộ thế hệ trẻ và già có khác. Vì vậy để tìm ra một hệ giá trị văn hoá người Việt Nam Bộ hôm nay thật không đơn giản. Trong bài viết này tôi chỉ muốn giới hạn lại ở sự chuyển đổi hệ gái trị văn hoá truyền thống và đương đại.
Sự chuyển đổi hệ giá trị văn hoá truyền thống của người Việt Nam Bộ sang hệ giá trị văn hoá đương đại là một tất yếu, là nhu cầu của sự phát triển, là hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, một nền văn hoá hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Người Việt Nam Bộ hôm nay, nhất là lớp trẻ, đã có những nhận thức thoáng hơn về các giá trị văn hoá truyền thống, không quá bị gò bó trong các khuôn phép, chuẩn mực, mà Nho giáo đã góp phần kiến tạo. Tôi nghĩ, đó cũng là sự tiếp tục xu hướng giải Hán. Người Việt Nam Bộ hôm nay đã có them nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận nhiều văn hoá trên thế giới, làm phong phú hơn cho đời sống văn hoá, và cũng có ảnh hưởng đến hệ giá trị văn hoá… Tuy nhiên, người Việt Nam Bộ hôm nay cũng còn bảo lưu những hệ giá trị văn hoá truyền thống. Đó là phần lớn người Việt Nam Bộ vẫn là nông dân trồng lúa, sống trong các xóm ấp, và ở đó tình nghĩa vẫn còn là một gắn kết quan trọng, là chuẩn mực của nếp sống, cách ứng xử. Con người Việt Nam Bộ đã bớt đi những dị biệt vùng miền, nhưng vẫn giữ nét anh hung hảo hán xưa, dám làm theo ý mình, làm việc nghĩa… Có lẽ đó đã tạo nên những anh “Hai lúa” dám làm máy bay trực thăng, những người mày mò sáng tạo máy hút bùn, “cầu dây văng” xóm ấp, và cả “thần đèn” chuyển nhà…
v
Định chuẩn hệ giá trị văn hoá của người Việt Nam Bộ hôm nay, theo tôi là, sự chuyển đổi những giá trị văn hoá truyền thống sang những giá trị văn hoá đương đại. Những giá trị văn hoá truyền thống được bảo tồn có chọn lựa và phù hợp trong diễn tình hội nhập. Mặt khác là sự tiếp cận những giá trị văn hoá đương đại, hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của vùng đất Nam Bộ hôm nay. Định chuẩn hệ giá trị văn hoá có vị trí nhất định trong việc nghiên cứu người Việt và văn hoá của vùng đất Nam Bộ hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Công Bình và các tác giả. Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Nxb. KHXH – 1995.
- Ngô Văn Lệ. Văn hoá tộc người truyền thống và biến đổi. Nxb. Đại học Quốc gia TP.HCM - Sắp xuất bản.
- Sơn Nam. Đồng bằng song Cửu Long hay văn minh miệt vườn. (Tái bản). Nxb. Trẻ - 2006.
- Thạch Phương và các tác giả. Văn hoá dân gian người Việt Nam Bộ. Nxb. KHXH. Hà Nội – 1992.
- Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Nxb. TP.HCM – 2001.
- Ngô Đức Thịnh. Văn hoá, văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam. Nxb. KHXH – 2006.
- Trần Quốc Vượng và các tác giả. Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb. Giáo dục. Hà Nội – 1998.
Nguồn:Kỷ yếuHội thảo khoa học “BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP”