Tiền thân của Cải lương - một loại hình nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam nói chung và của Nam bộ nói riêng là Tuồng và sau này là Hát bội. Nếu như Chèo - một loại hình nghệ thuật chỉ phổ biến ở miền Bắc thì Tuồng đã đi từ miền Bắc đến miền Trung và nở rộ ở mảnh đất Nam bộ này.
Hát bội: bội có nghĩa là nhiều, hát bội là hát có nhiều vai tuồng, có nhiều người hiệp nhau lại. Hát bội dùng tuồng tích thời xưa hoặc vay mượn sự việc có thật rồi thêu dệt thành tuồng mới để diễn. Tương truyền Hát bội có nguồn gốc từ thời Lý, rất phổ biến trong cung đình và ngoài dân gian. Đến thời Trần, Hát bội bị hạn chế ở cung đình, chỉ còn phổ biến trong dân gian và đến thời Lê thì bị cấm hẳn. Năm 1437 vua Lê Thái Tông đuổi Hát bội ra khỏi cung đình vì cho rằng Hát bội có hại đến việc giáo hóa, bôi nhọ vua quan. Mặc dù vậy, Hát bội vẫn không chết đi mà ngược lại càng phát triển mạnh trong dân gian.Giữa thế kỷ XV, Hát bội đi vào Đàng Trong để tìm đất sống. Đào Duy Từ, con một nhà hát xướng đã đầu quân cho Chúa Nguyễn và được phong chức quan lớn. Đối với Đàng Trong, nhà Nguyễn chủ trương dùng hát bội để phục vụ cho đường lối giáo hóa, lấy cương thường Nho giáo làm tư tưởng cốt yếu, xem hát bội là công cụ truyền bá cho tư tưởng trung quân, chính vì vậy mà có khâu lễ bái trước khi hát cho Vua xem. Khi Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định, vốn là một người mê Hát bội nên ông đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Hát bội phát triển vì vậy mà hát bội dưới thời ông phát triển rất mạnh. Có thể nói, Hát bội là loại hình nghệ thuật xưa nhất tại Nam bộ.
Ca nhạc tài tử nảy sinh từ tầng lớp phong lưu. Khi người ta cảm thấy loại hình Hát bội gò bó, nặng nề, tuồng tích nặng về tuồng xưa dễ gây nhàm chán cần có sự cách tân. Những điệu tài tử được đặt ra dựa trên nhã nhạc của vùng Phú Xuân (Huế). Phong trào hát ca tài tử dần dần phát triển, người ta bổ sung thêm nhạc cụ, đặt thêm tuồng tích mới cho phù hợp với yêu cầu, thị hiếu của người Nam bộ.Nói thơ, nói truyện, đờn ca tài tử phát triển dẫn đến sự ra đời của Ca ra bộ. Ca ra bộ là vừa ca vừa làm những điệu bộ phù hợp với lời ca. Lối diễn tấu sinh động của Ca ra bộ được nhiều người yêu thích và dần dần những đoàn Ca ra bộ được thành lập, được nhiều nơi mời diễn nhất là ở những nhà hàng sang trọng. Có thể nói, Ca ra bộ là khúc dạo đầu của sân khấu cải lương, gánh Ca ra bộ đầu tiên mang tên Tân Thịnh được thành lập năm 1920, đặc biệt nó dùng chữ cải lương và có câu:
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh
Lúc đó người Pháp có hãng dĩa Pathé chuyên thâu Ca ra bộ. Tuồng Tàu và xã hội là hai dòng chính của Cải lương Nam bộ thời đó.Bài Vọng cổ được yêu thích nhất của Cải lương thời đó là Dạ cổ hoài lang, được Cao Văn Lầu biên soạn năm 1919 gồm có 20 câu hát với nhịp 2. Sau đó người ta đặt thêm một bài ca tiếp theo: Vọng cổ hoài lang (trông tình xưa nhớ chồng).Vọng cổ từ nhịp 2 mở rộng ra 4, 8, 16, 32, 64 nhịp và được diễn xuất trên sân khấu cải lương ngày càng nhiều hơn. Người nghệ sĩ Nam bộ đã sáng tạo ra cây ghita phím lõm để phù hợp với điệu nhấn nhà của cải lương.
Như vậy, từ khi ra đời đến nay đã hơn 80 năm, so với Chèo, Tuồng, Hát bội thì Cải lương còn rất non trẻ thế nhưng sân khấu Cải lương đã có chỗ đứng vững chắc trong làng nghệ thuật dân tộc. Nếu như Hát bội nhấn mạnh vào đạo lý thì Cải lương nghiêng về phía trữ tình. Chính vì vậy mà cải lương đã thu phục được tình cảm của công chúng và dần dần loại hình nghệ thuật này đã mở rộng ra trên khắp cả nước.