Lật lại những trang viết của ông, không hiểu sao tôi chú ý nhiều tới bài thơ độc nhất của ông, (2) có lần tôi đọc “lấy lệ”, rồi lãng quên. Có lẽ, văn nghiệp ông quá đồ sộ, khiến nhiều người, cả tôi, quên mất ông còn làm thơ. Bài thơ quên dạo nào, nay vắng ông, đọc lại cảm thấy có điều, đã từ lâu ông “trăn trở” muốn gởi gắm cùng độc giả.
Đầu bài thơ, ông khái quát tiến trình khẩn hoang và tình cảnh lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất Phương Nam. Họ là những người không tên tuổi, không tài sản. Phải bỏ quê nhà đến vùng đất mới là bất đắc dĩ. Nhưng, tấm lòng thiết tha yêu cuộc sống, hoài bão tự do, ngang dọc và ước mơ đổi đời mình, cho con cháu họ mà chấp nhận cuộc phiêu lưu “Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trãi, Đồng Nai cũng từng.”:
“Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền,
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền,
Điệu thơ Lục Vân Tiên.”
Mảnh đất Nam Bộ được nhiều người ca ngợi đất “làm chơi ăn thiệt”, “ra ngõ có cái ăn”, “vùng đất hào phóng sản vật”, “thiên nhiên ưu đãi”… Dẫu có mưa thuận gió hòa, nhưng không phải không nhiều khó khăn buổi đầu khai hoang mở cõi. Ai biết được bao lớp người nằm xuống để đất Phương Nam có những lời ngợi ca bay bổng ấy. Những khó khăn Sơn Nam khái quát trong thơ là điển hình, sự thật, là “biển cỏ, rừng thiêng, muỗi vắt và chướng khí”. Cũng “ngập khó khăn”, nhưng lớp người đầu tiên đến Đồng Nai, Tháp Mười, U Minh… là những người chấp nhận cô độc, không ngại gian khó, hi sinh. Tuy ít học, vốn liếng chỉ “điệu thơ Lục Vân Tiên”, nhưng nặng nghĩa khí và ước mơ thay đổi lớn:
“Với câu chữ:
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả,
Tới Cà Mau – Rạch Giá
Cất chòi, đốt lửa giữa rừng thiêng…
Muỗi, vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương.”
Đa phần, những con người tự nguyện đến đất mới. Không phải lớp người bị đi đày cho cuộc khai phá, cũng không phải là lính biên viễn triều đình. Do hoàn cảnh không chấp nhận mãi cuộc đời nghèo khó, làm công, ở đợ nơi quê nhà, mà họ ra đi. Đã đi thì không quay về, nếu không có ngày “công thành danh toại”. Dù đời họ “Chiều chiều nghe vượn hú, Hoa lá rụng, buồn buồn”, chưa ăn nên làm ra thì cũng mong thành quả cho thế hệ sau:
“Thân không là lính thú
Sao không về cố hương?
Chiều chiều nghe vượn hú,
Hoa lá rụng, buồn buồn.”
Muốn được ngày ấm no, phải luôn duy trì nghị lực lớn còn nguyên vẹn lúc mới ra đi. Có buồn chỉ buồn đôi chút; nỗi buồn cô độc triền miên sẽ giết lần, giết mòn đời họ. Cũng như gia đình thằng Cộc khi chuyển đến Ô Heo buồn tẻ, thằng Cộc hiểu nỗi buồn là cái đáng sợ hơn hết trên đời, cái mà nó không thể chịu nổi: “Ở đây mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời. Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn là ở đó có làng xóm, có người ta.”. (3) Ông nội nó tìm cách giúp nó tiếp cận lí tưởng sống, từ vùng đất mà cha, ông nó đang dấn thân: “Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.”.(4) Sơn Nam cũng có cái nhìn và cách lí giải như Bình Nguyên Lộc, nhưng ông viết bằng thơ, không quên phủ một lớp sơn màu để thơ vẫn là thi vị. Người đọc hình dung ra những con người tài tử trong thơ Sơn Nam nhiều hơn là nhìn thấy một lớp người lam lũ, nhọc nhằn như trong văn Bình Nguyên Lộc:
“Tiễn đưa về cửa biển
Những giọt nước lìa nguồn.
Đôi tâm hồn cô tịch
Nghe lắng sầu cô thôn.
Dưới trời mây heo hút…
Hơi Vọng cổ nương bờ tre bay vút
Điệu hò… ơ theo nước chảy, chan hòa. ”
Sơn Nam có lí một điều: ở vùng đất bao la cò bay thẳng cảnh, sông rạch mênh mông, chằng chịt, con người như nhỏ lại; nếu thiếu hẳn món ăn tinh thần, làm sao có thể trụ lại, nói gì tồn tại được. Bởi đó, điệu hò, vọng cổ là món ăn tinh thần không thể thiếu. Từ chính thực tế cuộc sống, họ tạo ra câu hò, điệu lí, lời ca vọng cổ và rồi chính nó giúp họ vượt qua nỗi buồn cô độc, lẻ loi đeo bám dai dẳng, mà thế hệ trẻ thằng Cộc thấm thía. Vô hình trung “vũ khí chống buồn” lại trở thành di sản văn hóa tinh thần của lớp con cháu Nam Bộ hôm nay.
(Nguồn: m.phunuonline.com.vn)
Thời gian tạo điều kiện cho lớp người khai hoang thành công khai phá. Lớp con cháu họ dư cái ăn, cái mặc và được dịp trở về thị thành học lấy chữ, lấy nghề, làm rạng danh gia đình, quê hương xứ sở. Nhưng tình cảm quê hương vẫn luôn ray rứt trong tâm những người nhân nghĩa. Lão nhà văn Sơn Nam khi xa rừng U Minh, nơi ông từng tự hào: “Tôi sống từ bé cho đến lớn”, cảm thấy ray rứt khôn nguôi về nỗi nhọc nhằn cho tình cảnh “nắng mưa miền cố thổ”. Dường như lớp người thành thị, trong đó có ông, vẫn còn nợ quê hương một điều?! Công việc chốn thị thành bận rộn, thời gian vụt trôi, khoảnh khắc bất chợt nhìn lại mình, tuổi đời đã chồng chất. Sơn Nam già đi, nét “phong sương mấy độ” không chỉ qua đường phố mà hằn lên con người. Chút an ủi lòng còn đọng lại là Sơn Nam vẫn luôn yêu và biết ơn quê cha, đất mẹ, nơi nuôi mình thành đạt:
“Năm tháng đã trôi qua
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố,
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…”
Sinh thời, Sơn Nam đã nhiều lần “nghiêng mình nhớ đất quê”. Hôm nay, Sơn Nam về cát bụi. Hạt bụi đã trở về đất quê, không phải “nghiêng mình nhớ đất quê” nữa. Lời thơ ông như nhắc ai chưa một lần nghiêng mình nhớ đất quê hãy làm điều gì đó... Thời gian trôi, về già cảm thấy lòng “ray rứt”!
Chú thích:
1. Cho đến nay 2011, Nhà xuất bản Trẻ giữ bản quyền đã in các sáng tác của nhà văn Sơn Nam được 20 tác phẩm, mỗi tác phẩm có lượng trang thấp nhất không dưới 250 trang, gồm các quyển:
1. Sơn Nam, 2003, Bà chúa Hòn, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Sơn Nam, 2003, Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam- Miền Nam đầu thế kỷ XX- Thiên địa hội & cuộc Minh Tân, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
3. Sơn Nam, 2004, Biển cỏ miền Tây-Hình bóng cũ, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Sơn Nam, 2004, Đất Gia định-Bến nghé xưa&Người Sài Gòn, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Sơn Nam, 2004, Đồng bằng sông Cửu Long-Nét sinh hoạt xưa & Văn minh miệt vườn, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Sơn Nam, 2005, 4 truyện vừa, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
7. Sơn Nam, 2005, Hồi kí Sơn Nam, 4 tập, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
8. Sơn Nam, 2005, Hương rừng Cà Mau, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
9. Sơn Nam, 2005, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
10. Sơn Nam, 2005, Nói về miền Nam-Cá tính miền Nam-Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
11. Sơn Nam, 2005, Theo chân người tình&Một mảnh tình riêng, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
12. Sơn Nam, 2005, Tìm hiểu đất Hậu Giang&Lịch sử đất An Giang, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
13. Sơn Nam, 2005, Xóm Bàu Láng, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
14. Sơn Nam, 2006, Dạo chơi -Tuổi già, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
15. Sơn Nam, 2006, Đình miếu & lễ hội dân gian Miền Nam, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
16. Sơn Nam, 2006, Gốc cây, cục đá&Ngôi sao – Danh thắng miền Nam, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
17. Sơn Nam, 2006, Hương quê – Tây đầu đỏ & Một số truyện ngắn khác, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
18. Sơn Nam, 2006, Vạch một chân trời-Chim quyên xuống đất, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
19. Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình, 2006, Chuyện xưa tích cũ, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
20. Sơn Nam, 2008, Sài Gòn xưa - Ấn tượng 300 năm & tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bài thơ “thay lời tựa” được in trong: Sơn Nam, 2005, Hương rừng Cà Mau, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 7-8.
3. Rừng Mắm, Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 2, Nhà xuất bản Văn học, thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr. 654.
4. Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, sđd, tr. 660.
Nguồn: Văn chương miền sông nước Nam Bộ, NXB. CTQG-ST, HN, 2012