Bóng rỗi gồm có hát rỗi và múa bóng. Hát rỗi là hệ thống các bài bản thể hiện bằng ngôn ngữ thanh nhạc, với những lời ca tụng công đức, lời mời các vị thần về dự lễ, hoặc chuyển tải ước vọng đến thần linh. Múa bóng là hệ thống các động tác của ngôn ngữ hình thể được sử dụng khi dâng lễ vật lên thần linh. Ngoài ý nghĩa tạo ra không khí tôn kính, trang nghiêm, hát và múa bóng rỗi còn có chức năng làm buổi lễ thêm phần vui vẻ, đúng với tính chất lễ hội.
1. Tính linh hoạt trong cấu trúc bài hát rỗi
Đặc điểm khác biệt trong âm nhạc Nam Bộ nói chung, âm nhạc bóng rỗi nói riêng là tư duy mở, với quan niệm chân phương - hoa lá. Khi học, phải học vững lòng bản, giữ vững tính chân phương, nhưng khi diễn tấu thì phải thêm hoa thêm lá. Trên những lòng bản có sẵn với cấu trúc được quy định, người diễn xướng có thể thêm chữ nhạc, câu nhạc hay lời thơ, lời văn theo ngẫu hứng để thể hiện cảm xúc bất chợt thăng hoa, khiến bài bản trở nên sinh động, phong phú và luôn biến đổi. Như vậy, người diễn xướng có thể tạo ra nhiều dị bản trên cơ sở một lòng bản chung và hiếm khi lặp lại chính mình ở những lần diễn xướng khác nhau. Tuy nhiên, việc biến hóa giai điệu hay bài bản không bao giờ vượt ra ngoài khuôn khổ cơ bản của điệu thức. Chính cách tư duy này thể hiện vũ trụ quan của người xưa, khi nhìn nhận một cách sinh động về thế giới, luôn thay đổi để tồn tại và phát triển theo một trật tự có tính quy luật.
Đối với mỗi bài hát rỗi, không có quy định chặt chẽ nào cho cấu trúc từng đoạn. Tùy theo khả năng của bà bóng và ngữ cảnh diễn ra hát rỗi mà nội dung bài hát sẽ được thay đổi khác nhau. Tuy vậy, một bài rỗi luôn bao gồm: đoạn mở bài, phát triển, kết luận.
Đoạn mở bài thường có hai cách: cách thứ nhất là trống bà bóng (trống con) mở màn. Bà bóng cầm trống, gõ 3 tiếng vào mặt trống như nghi thức thỉnh trống chầu trong hát bội. Tiếng trống dồn dập, nhanh dần theo kiểu tiền bần hậu phú (trước chậm sau mau) trước khi bà bóng đánh vào tang trống để tạo nhịp cho bài rỗi. Đây là nghi thức chầu mời, thỉnh tổ trước khi bắt vào bài mời Bà và các vị thánh thần khác về tham dự lễ cúng. Cách vào bài thứ hai là sử dụng câu rao, một đoạn nhạc tự do không có tiết điệu, do cây đàn cò (nhị) diễn tấu. Đoạn nhạc này đóng vai trò như một sự báo hiệu cho bà bóng và người nghe biết về giọng điệu của bài rỗi sắp tới. Đây cũng là lúc nhạc công chỉnh cao độ của dây đàn sao cho hợp với giọng của bà bóng sắp rỗi.
Phần thân bài thường chia làm hai đoạn. Đoạn đầu được hát theo hơi xuân, thang âm đặc thù trong âm nhạc miền Nam, trong nhạc lễ, hát bội, tài tử… Bóng rỗi sử dụng hơi xuân làm làn hơi chủ yếu. Tuy dựa vào thang âm điệu thức đã có sẵn, nhưng hơi xuân ở đây không giống hoàn toàn với hơi xuân trong nhạc tài tử. Theo các nhà nghiên cứu, đặc điểm của hơi xuân với những quãng 3 nhấn trả về, vừa trang nghiêm vừa thanh thản, lại không quá mạnh mẽ, hùng tráng, mang lại nét thư thái cho bản nhạc cũng như cho tâm hồn người nghe. Do đó, không lấy làm lạ khi hơi nhạc này được dùng trong những bài hát cúng Bà, với ý nghĩa diễn tả sự thanh bình trong cuộc sống, kể về công đức của những nhân vật được tôn thờ... Đoạn thứ hai được hát theo hơi ai. Hơi ai trong bóng rỗi không hoàn toàn giống hơi ai trong nhạc lễ mà là thang âm chịu ảnh hưởng từ những bài hát ru của người Nam Bộ, với nét buồn man mác và những quãng 4. Tính linh hoạt trong cấu trúc của một bài rỗi thể hiện ở chỗ không quy định chặt chẽ về độ dài hay số lượng câu sử dụng hơi xuân và hơi ai. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, phần lớn các câu hát nói về công đức, tiểu sử của Bà cũng như các vị thần đều được sử dụng trên hơi xuân. Với những câu hát thể hiện mong ước của con người về một cuộc sống an hòa, hạnh phúc, hay cầu mong Bà và các vị thần ban cho cuộc sống ấm no, an lạc thì thường được diễn tả trên hơi ai.
Trước khi hết thân bài và chuyển qua phần kết luận, bà bóng có thể lấy bốn câu thơ chuyển lại hơi xuân hoặc chuyển ai chạy (hơi ai với tiết tấu nhanh hơn) để báo hiệu bài rỗi chuẩn bị đi vào phần kết luận. Thông thường, cuối các bài rỗi, bà bóng sẽ chuyển qua hát các điệu lý để tạo không khí nhẹ nhàng và vui tươi khi dứt bài. Các bài lý có thể có những đề tài như miêu tả sự vật (hoa, trái cây, thú vật) phản ánh phong tục, lễ nghi hay những bài lý mang tên gọi đặc trưng của bóng rỗi như lý giọng bóng, lý ba con ngựa… Đối với những bài mà bà bóng sử dụng lời nguyên gốc của bài lý thì ít khi thêm bớt hoặc thay đổi.
2. Tính linh hoạt trong việc sử dụng nhạc khí
Nhạc khí chính của bóng rỗi là cây đàn cò, thuộc bộ dây kéo, có hai dây được làm bằng thép, chạy dọc suốt thân đàn. Một cây cung để kéo, thân cung làm bằng gỗ, dây cung trước đây được làm bằng đuôi ngựa hay sợi nylon. Nhạc công dùng tay phải để kéo cung, tay trái bấm vào dây tạo nên các cao độ cao thấp khác nhau. Đàn cò, với âm vực rộng, các thủ pháp nhấn luyến mềm mại, là một nhạc khí thích hợp cho thể loại hát rỗi. Vì có nhiều người thay nhau rỗi nên cao độ chính chỉ là tương đối. Nghệ sĩ chơi đàn cò có thể mau chóng chuyển cao độ để phù hợp với câu mà bóng sắp hát, sao cho giai điệu của lời bài hát và chữ đàn phải quyện chặt vào nhau.
Trước đây, nhạc khí đệm cho bóng rỗi gồm có đàn nhị và kìm, hay nhị và sến. Tuy nhiên hiện nay ít thấy các nhạc công sử dụng nhạc khí này mà thay bằng cây guitare phím lõm. Vào những năm 1930, lớp gỗ trên cần đàn mandolin được móc bớt để tạo ra cây đàn có thể nhấn nhá, đàn được những bản nhạc tài tử cải lương. Phần phím đàn guitare dần dần được khoét để tạo hiệu quả tương tự như cây mandolin. Càng ngày cây đàn được dày công sáng tạo, cải thiện các loại dây khác nhau, kỹ thuật phong phú để trở thành một nhạc khí thông dụng, không thể thiếu trong dàn nhạc cải lương. Khi cải lương phát triển, các bà bóng đã tích hợp bài bản cải lương vào bài rỗi của mình và sử dụng cây guitare phím lõm. Với lợi thế âm sắc rộn rã, vang to, có thể bao dàn tất cả các loại nhạc, cây guitare phím lõm ngày càng trở nên quen thuộc trong hình thức rỗi bóng.
Trống bà bóng đóng vai trò giữ nhịp, định tiết tấu, báo hiệu và thay đổi một tiết tấu mới. Trống hình tròn, đường kính khoảng 20cm. Hai mặt bịt da trâu. Tang trống cao khoảng 10cm, làm bằng gỗ. Bà bóng dùng bàn tay trái cầm trực tiếp vào tang trống, ngón cái giữ mặt trống, tay phải cầm dùi gỗ gõ vào mặt và tang trống, vừa gõ vừa hát. Hiện nay, nhiều nhóm bà bóng còn thiết kế micro gắn vào trống lệnh để bổn hội có thể nghe bà bóng rỗi rõ hơn. Phách (sanh cái) là hai thanh tre được đập vào nhau nhằm giữ nhịp lớn, chuyển nhịp theo tiếng trống lệnh của bà bóng.
Hiện nay, nhiều ban nhạc đưa thêm cây đàn guitare phím lõm hay kèn thau để đệm cho hát rỗi, nhưng cây đàn cò và trống bà bóng vẫn là những nhạc khí chủ lực.
3. Tính linh hoạt trong ngôn từ bài rỗi
Với nội dung chào mời, thỉnh tổ, thỉnh Bà, thần linh về tham dự và nói lên ước muốn với các vị thần, ngôn ngữ của hát rỗi cũng được thể hiện linh hoạt. Do không có lời thơ bắt buộc (ngoại trừ một số câu có tính chất lễ nghi phổ biến), nên bà bóng có thể tự mình ứng tác lời cho phù hợp ngữ cảnh. Tuy có nhiều bài bóng rỗi cùng một nội dung, nhưng không có sự lặp lại nguyên si, tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn ngay trong bản thân bài rỗi. Điểm đặc biệt mà nghi lễ bóng rỗi mang lại cho đời sống tâm linh của con người là không chỉ gửi lời dâng tụng lên thần linh, mà còn góp phần mang lại cảm giác được đối thoại trực tiếp với thần linh.
Trong các nghi lễ thờ cúng, người dâng lễ vật có thể tự đọc những bài cúng (bài văn khấn) hay có thể nhờ viết sớ và đọc sớ dâng lên vị thần mà mình tôn thờ. Các bài văn khấn thường có cấu trúc gồm 5 phần. Phần một: Con kính lạy… (tên các vị thần muốn cầu xin); phần hai: ngày, tháng, năm; phần ba: Tín chủ con là: (tên người dâng lễ vật kèm theo địa chỉ nơi cư trú); phần bốn: tín chủ con thành tâm sắm lễ (hương, hoa, trà, quả…); phần năm: nói về điều mà người dâng lễ vật muốn cầu xin. Tùy theo từng địa phương mà người ta sẽ đọc lời khấn với những âm điệu khác nhau.
Bóng rỗi đã kết hợp được giữa những lời cầu xin của người dâng lễ vật với hình thức bài rỗi dâng lên Bà. Khi tên của một người hay của dòng họ được nằm trong một bài rỗi kết hợp với những âm điệu du dương, trầm bổng của âm nhạc, người dâng lễ vật có cảm giác sung sướng vì đã được đáp ứng nhu cầu, được giao tiếp trực tiếp với Bà thông qua chiếc cầu tâm linh là bài hát rỗi. Mỗi bài rỗi tuy có nội dung gần nhau với những điều mong ước như: cầu gia đình bình an, cầu tài lộc, sức khỏe... nhưng được bà bóng thể hiện bằng những sáng tạo khác nhau, không có một mẫu số chung và không bị trùng lặp câu chữ.
Chúng ta có thể cảm nhận nhận điều này qua việc so sánh một vài câu rỗi của bà bóng Hằng và bà bóng Năm Sum. Bài hát rỗi của bà bóng Hằng (1):
Hương đốt đang lên ơ ơ
Tấm lòng vàng nhà cô Mão để vái van
Tấm lòng hòa quyện còn để ca xang con nguyện con cầu a a...
Để cầu cho bà Mão được chữ bình an
Tai qua nạn khỏi, mạnh tay khỏe chân Bà độ dùm.
Tăng long tuổi thọ sức khỏe dồi dào
Bền người bền của cũng nhờ Năm Bà độ cho con cháu được chữ ấm no
Làm đâu được đó Năm Bà độ cho phước lành
Rước Năm Bà, năm vị đồng chị đồng em
Bà Kim bà Mộc, bà Thủy bà Hỏa bà Thổ trời sanh năm vị ngũ hành a...
(chuyển hơi quảng, bài Khốc hoàng thiên)
con vái van mà van vái
Ngày hôm nay trong gia chủ
Tấm lòng thành còn để dâng lên, một cái mâm vàng.
Cầu ơn trên năm Mẹ chứng minh rồi độ hộ được bình an
Hôm nay chúng con cầu nguyện
Năm Bà ngự tại miễu linh
Chứng lễ cho gia chủ tâm thành, còn để mâm vàng tôn vinh
Câu hát rỗi khác của bà bóng Năm Sum (2):
...Tạ lễ cầu an ơ ơ...
Nơi miễu Mẹ, tạ lễ cầu an
Nguyễn Hồng Phúc, 31 tuổi, xin Bà độ an cho mạng người
Nhờ ơn trên giải sao, giải hạn mà trăm lành
Giải trăm tai mà trăm ách, độ họ Nguyễn được chữ bình an
Đàn ông được phước, để Năm Bà ban, ban phước, giữ được an ở trên đời
Nhà nơi họ thành tâm ư ư ư
Để tấm lòng vàng thành tâm
Sao La hầu nhờ Mẹ giải, Mẹ cầu cho mà mạng người
Bà giải hạn sao La hầu Mẹ giải, bổn mạng bình an ở trên đời.
Dâng mâm vàng, mâm ngũ sắc
Độ họ Lưu với họ Nguyễn được bình an nhờ lịnh Bà
Dạ dạ (đổi nhịp điệu nhanh hơn, thành lối nói nhịp một)
Cúi đầu dâng bông vạn thọ
Xin Bà về mở rộng tình thương
Cho Nguyễn Ngọc Phúc 31 tuổi được chữ bình an vô sự
Xin Bà độ
Chồng và vợ vạn sự bình an
Ra đi đến nơi về đến chốn...
Hai đoạn trích trên có sự tương đồng về ý nghĩa những lời cầu xin, mong ước được bình an, may mắn, tài lộc... của các vị gia chủ. Các bà bóng là người có tài biến những câu nói bình thường thành các lời rỗi có giai điệu, có tiết tấu. Chính nhờ sự linh hoạt, tài ứng đối mau lẹ, các bà bóng đã tạo ra một môi trường diễn xướng hấp dẫn, thu hút người xem, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người tham dự lễ.
Mỗi thể loại âm nhạc dùng trong nghi lễ luôn có những quy tắc về hình thức biểu diễn kết hợp với nghi thức. Nhờ vậy, dù mỗi thời đại có những quan niệm thẩm mỹ khác nhau thì âm nhạc trong các nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo vẫn được bảo tồn dưới hình thức tương đối ổn định. Tuy nhiên, tính linh hoạt là một trong những đặc điểm khiến con người dễ dàng thích nghi với những biến đổi của môi trường thiên nhiên và xã hội, điều đó có thể nhận thấy rất rõ ở cư dân Nam Bộ, những người biết thích nghi với cuộc sống nơi vùng đất mới.
Tìm hiểu tính linh hoạt trong âm nhạc bóng rỗi là một trong những cách lý giải về sức sống của một loại hình nghi lễ diễn xướng, đã hình thành và phát triển bền vững trong đời sống tâm linh của người Nam Bộ, gắn với tín ngưỡng dân gian. Từ đó, loại hình nghệ thuật này sẽ được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan hơn. Nghiên cứu những đặc thù của văn hóa Nam Bộ, đặc biệt là tín ngưỡng tôn giáo dân gian còn góp phần bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện tại.
_______________
1. Ghi tại miếu Ngũ Hành, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, TP.HCM, ngày 14-3-2012 âm lịch.
2. Ghi tại miếu Ngũ Hành, số 116 Nguyễn Du, quận 1, TP.HCM, ngày 12-7-2012 âm lịch.
Nguồn:Tạp chí VHNT số 341, tháng 11-2012