Gia Định hơn ba trăm năm đã có bước phát triển nhiều mặt rực rỡ. Thời gian khai hoang, mở đất; các bậc tiền hiền không quên gieo mầm tri thức cho người dân “chân lấm tay bùn” xứ sở này. Trong lớp người được ghi công đầu có thầy Võ Trường Toản, người đời xưng tụng “Vạn thế sư biểu”. Ngoài sự nghiệp trồng người, thầy Võ Trường Toản có công đào tạo 3 nhà thơ lớn đất Gia Định, Gia Định tam gia thi[1] và nhiều kẻ sĩ khác, v.v.; đồng thời, ông còn là nhà thơ. Rất tiếc, trước tác nhà thơ đã thất lạc gần như toàn bộ. May trong tàng thư còn lưu giữ một bài phú “Hoài cổ”[2] với 24 “đôi câu”. Qua tìm hiểu, ta có thể thấy được nhân cách và tài năng của xử sĩ sùng đức mà nhân dân Nam Bộ, người Việt Nam nói chung, thời điểm nào cũng luôn tôn kính ông.
Lưu truyền, Nguyễn Ánh rất mến mộ thầy Võ Trường Toản, nên mỗi lần ghé Gia Định, chúa thường triệu ông đến giảng sách, đàm đạo. Nguyễn Ánh muốn trọng dụng ông, nhưng ông khéo léo từ chối, chỉ tiến chúa 10 điều phương lược cứu quốc và kiến quốc. Khi ông mất, mồng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý (27-7-1792), nhà Nguyễn tặng ông danh hiệu "Gia Ðịnh xử sĩ sùng đức Võ tiên sinh"[3] và đôi liễn truy điệu: “Triều hữu huân danh, bán thuộc Hà Phần cựu học; Đẩu Nam phong giáo, đề khâm Nhạc Lộc dư uy.”[4]
Bài phú của thầy Võ Trường Toản như sau:
“1. Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo; hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.
2. Cho hay vực thẳm nên cồn; khá biết gò cao hóa bể.
3. Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm; đò tạo hóa đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.
4. Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng; lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.
5. Đường Ngu ấp tổn[5] rượu ba chung, đường say đường tỉnh; Thang Võ chinh tru[6] cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.
6. Của có không nào khác đóm mây; người tan hiệp dường như bọt nước.
7. Lánh non Thú[7] cam bề ngạ tử[8] hai con Cô Trúc đã về đâu?; luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san đà bặt dấu!
8. Mộng tàn nửa gối, bướm Trang Chu giấc hỡi mơ màng; xuân lụn mấy canh, quyên Thục Đế tiếng còn khấp khởi.
9. Tha thiết bấy một gò hoàng nhưỡng[9], ngọc lấp hương chôn; áo não thay! mấy cụm bạch vân[10], mưa sầu gió thảm.
10. Ngựa trấn ải một may một rủi[11]; hươu dưới Tần bên có bên không.
11. Hán Võ ngọc đường người ngọc nọ xưa đà theo gió; Thạch Sùng kim ốc[12] của tiền xưa nay đã lấp sương.
12. Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc; thắm thoát cơn mộng ảo, đoạn biệt li há dễ bao lâu.
13. Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất; muôn dặm nước non Đường thổ võ, nước non còn đời ấy đâu còn.
14. Thương hỡi thương! huyền quản cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu văng vẳng; tiếc ỷ tiếc! y quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.
15. Cung Tùy xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa sái lụy; đài Ngô trước hươu nằm ngả ngớn, đổi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.
16. Ô Giang đêm thẳm hé trăng mành, quạnh quẽ vó chùng họ Hạng; cai Hạ ngày chiều hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu.
17. Đài vắng Nghiêm Lăng, mấy khúc quanh co sông chảy tuyết; thuyền không Phạm Lãi, năm hồ lai láng nước ken mù.
18. Cho hay dời đổi ấy lẽ thường; mới biết thảo ngay là nghĩa cả.
19. Lụy rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân; sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo.
20. Tôn khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con; Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.
21. Trước đèn Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia; dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.
22. Tám trăm dặm xông pha ải Bắc, thương họ Hàn[13] chói lói lòng đan; mười chín năm giữ một niềm Tây, cảm ông Võ [14] phơ phơ đầu bạc.
23. Cật Võ Mục nhuộm thanh bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh; áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu nghĩa chi phai lòng đỏ.
24. Trời mỏn đất già danh hỡi rạng, lụy non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi; Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Tư chép còn tỏ rõ.”
Bố cục một bài phú thường có các phần: Lung: nêu chủ đề; Biện nguyên: giải thích ý nghĩa chủ đề; Thích thực: phân tích ý nghĩa toàn bài; Phu diễn: dẫn chứng minh hoạ; Nghị luận: bàn bạc ý toàn bài; Kết: tóm tắt. Tuy nhiên, xét tính chất các phần trong một bài phú, có thể căn cứ cách bố cục chung ba phần: phần một: lung, biện nguyên, thích thực; phần hai: phu diễn, nghị luận; phần ba: kết, để tìm hiểu nội dung và phong cách nghệ thuật bài “Hoài cổ phú” của Võ Trường Toản
Phần một gồm: lung, biện nguyên, thích thực, với 6 câu tính từ câu 1 đến hết câu 6:
Lung bài phú có 2 vế đối: “Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo; Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.”. Cuộc đời trong mắt nhìn tác giả, như bao người khác, vốn là “bóng câu qua cửa sổ”, thoáng chốc đã hết, không còn gì để lại, ngoài hư vô. Vạn vật dẫu có lúc rực rỡ, cường thịnh và thời gian tưởng như dài, nhưng đó cũng chỉ là khoảnh khắc “huy hoàng” trong chuỗi dài “suy kiệt”. Ý tưởng có phần bi quan, nhưng là thực tế cuộc đời, có tác dụng định hướng, nhắc nhớ con người biết điều chỉnh hành vi sống theo hướng tích cực hơn.
Biện nguyên bài phú được mở rộng trong cái nhìn hệ thống, nhằm làm rõ ý tưởng câu lung. Đó là: “Thương hải biến vi tang điền; Tang điền biến vi thương hải”, nhưng được diễn đạt gần gũi người bình dân hơn: “Cho hay vực thẳm nên cồn; Khá biết gò cao hóa bể.”. Đó còn là sự “luân chuyển của con tạo” với bánh xe thời gian, con người nào biết được ra sao: “Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm; Đò tạo hóa đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.”. Đó là cõi mộng “phù du” – “đường say đường tỉnh”,mà con người đang ngụp lặn tranh phần được mất: “thoạt đặng thoạt thua”.
Thích thực chính là phần khái quát chủ đề toàn bài sau biện nguyên, mang ý tưởng khái quát như một lần nhắc lại lung:“Của có không nào khác đóm mây; Người tan hiệp dường như bọt nước.”. Toàn phần “mở đầu”, thầy giáo đất Gia Định muốn nhắn nhủ mọi người, một cách ngắn gọn: “đời phù du”. Chân lý cuộc đời được nhấn mạnh. Diễn đạt ý tưởng này, Kẻ sĩ Gia Định dùng khá nhiều hình ảnh, điển cố để diễn đạt nhờ hình tượng, hình ảnh và giá trị biểu cảm có được sức mạnh thông tin. Do vậy, lý luận được nâng cao rất nhiều.
Phần hai gồm: phu diễn, nghị luận với chức năng là chứng minh, bình luận. Đây là phần chính một bài phú. Tất nhiên, hai phần việc nội dung, tuy có khác, nhưng đều có tác dụng hỗ trợ nhau, được nhà thơ vận dụng linh hoạt, không cứng nhắc trước sau. Phần này có tất cả 17 câu tính từ câu 7 tới hết câu 23, chia thành hai tiểu đoạn: tiểu đoạn 1 gồm các câu từ 7 tới hết 13; tiểu đoạn 2 từ câu 14 đến hết câu 23. Trong đoạn, Võ Trường Toản đưa nhiều dẫn chứng thực tế cuộc sống xác thực và có những bàn bạc thỏa đáng, giúp người đọc nhận thức sâu sắc ý nghĩa cuộc sống.
Phu diễn gồm 7 câu, tác giả khéo chọn một số thực tiễn cuộc sống sinh động để chứng minh chân lý cuộc đời, rốt cuộc cũng chỉ là mộng ảo: từ cảnh chết đói ở núi Thú, đến việc tìm trường sinh ở non Thương, trẻ, già cũng không còn lưu dấu; từ chuyện “mộng ác” của “cánh bướm” Trang Chu đến việc “tiếc xót” của “chim quyên” Thục Đế, rồi cũng tàn lụn theo thời gian; từ những nắm đất vàng “hoàng nhưỡng” nơi nghĩa địa đến các đám mây trắng “bạch vân” nơi thiên đế, đâu cũng là tiệt diệt; từ chuyện được mất đến chuyện thị phi, âu cũng trôi theo năm tháng; từ chuyện thỏa mãn hạnh phúc, khát vọng Hán Võ, Thạch Sùng, bị khỏa lấp, tan biến trong sương gió; từ những hoạt động chốn dương gian: những cuộc truy hoan, những lần mộng tưởng, những phút biệt li, v.v., nào giữ được lâu; từ khí phách anh hùng nhà Hán đến sự bá chủ giang sơn đời Đường, rốt cuộc rồi cũng diệt vong, tan biến theo quy luật thịnh, suy trời đất. Từ nhiều biến cố lịch sử, qua các thời kỳ, ở nhiều triều đại, với nhiều đối tượng, v.v.; nhận định nhà thơ đưa ra được chứng minh quả là quá thuyết phục. Đoạn phu diễn có lời lẽ gãy gọn, dẫn liệu chính xác, đủ cho ta thấy sự học uyên bác, tầm hiểu biết rộng rãi, cao siêu của một kẻ sĩ nổi danh, không chỉ một thời mà qua nhiều đời ở đất Gia Định.
Nghị luận gồm 10 câu, nêu bật khả năng hùng biện của nhà thơ Võ Trường Toản, xứng danh người thầy nhóm “Gia Định tam gia”. Sự lập luận của ông xuất phát từ nhiều góc độ: thương lâu đài, thành quách Tấn, Tần, theo thời gian biến thành hoang phế; tiếc “cung Tùy, đài Ngô” một thời hoang lạc, sung túc, giờ còn đâu? Tất cả chỉ phảng phất một mối sầu thiên cổ; “đêm Ô Giang”, “ngày Cai Hạ” chỉ còn gợi nhớ một thời “Hạng Võ”, “Ngu Cơ”; “đời vắng Nghiêm Lăng”, “thuyền không Phạm Lãi”; thiên nhiên như chỉ còn mịt mờ một màu sương tuyết. Từ những nghị luận riêng lẻ cho thấy sự trải đời ở ông. Rồi từ những chiêm nghiệm, xử sĩ sùng đức lại đưa ra một kết luận hết sức sắc bén; đồng thời, cũng khẳng định cho điều trường tồn bất diệt trong cuộc đời, ấy là “nhân nghĩa”: “Cho hay dời đổi ấy lẽ thường; Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.”.
Nghị luận cơ bản ấy được xử sĩ sùng đức tiếp tục chứng minh, biện luận bằng những gương sáng về đạo “nhân nghĩa” được lưu danh trong hậu thế, như: “Đại Thuấn”, “Tử Khiên” quên thân mình quyết giữ tròn đạo hiếu nghĩa; “Tôn khóc măng”, “Tường nằm giá” quyết giữ đạo con, “Tích dấu quít”, “Cự chôn con” mong đền nghĩa mẹ; gương trung liệt “trước đèn Trụ”, “dưới thành Ngô” như vẫn còn mãi cùng năm tháng; những bậc tôi hiền như Hàn Dũ, Tô Vũ luôn đọng trong lòng dân niềm thương cảm; “cật Võ Mục”, “áo Thiên Tường” biểu thị tấm lòng trung nghĩa được người đời sau nhắc mãi.
Trong cả hai tiểu đoạn nghị luận, dưới cái nhìn nhân nghĩa, thầy Võ Trường Toản lựa chọn cẩn thận đến từng điển tích, điển cố, kết hợp với những lời bình ngắn gọn, súc tích, vừa nêu được nét khái quát; vừa khắc họa đến từng chi tiết những gương xưa nhằm luận bàn “lẽ còn, mất” trong cuộc đời.
Kết của bài phú được cô đọng ở câu 24: “Trời món đất già danh hỡi rạng, lụy non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi; Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Tư Mã chép còn tỏ rõ.” Với câu kết này, nhà thơ sùng đức đất Gia Định muốn tái khẳng định một điều: “vạn vật dẫu có thế nào thì “danh tiết” vẫn là cái lưu danh muôn thuở”.
Bài phú “Hoài cổ” của Võ Trường Toản không có nghĩa là nuối tiếc cái xưa; sống ở hiện tại mà nhớ về quá khứ đâu đâu. Ở đây, nhà thơ muốn “ôn chuyện cũ” để giáo huấn người đời “lòng nhân nghĩa”. Trong sự thăng trầm, biến đổi xã hội, chỉ có lòng nhân nghĩa mới là cái trường tồn đích thực. Bởi vậy, con người phải quyết tâm gìn giữ. Từ tư cách, đức độ ấy, người cùng thời tặng cho thầy Võ Trường Toản danh hiệu “Gia Định xử sĩ sùng đức” quả không ngoa chút nào.
Ngoài nội dung thơ, với tài đăng đối rất chuẩn khi hành văn biền ngẫu, Võ Trường Toản không để chứng minh tài thơ của mình, mà nhằm giúp ý thơ của ông được công chúng lĩnh hội trọn vẹn.
Có những nhà thơ chỉ cần một bài thơ làm nên tên tuổi, như Thôi Hiệu với “Hoàng hạc lâu”, Vũ Đình Liên với “Ông đồ”, Phan Khôi với “Tình già”, v.v.. Xưa thế mà nay cũng vậy. Tuy chỉ còn lưu lại một bài phú “Hoài cổ”, thầy Võ Trường Toản cũng làm nên tên tuổi; nhưng hơn hết, ông được lưu danh không ở sự nghiệp làm thơ, mà ở tài năng và đức độ. Tài năng và đức độ một người thầy của bao lớp thầy. Thầy nhóm “Gia Định tam gia thi”, thầy bao thế hệ người thầy. “Vạn thế sư biểu”, “Kẻ sĩ Gia Định”, “Xử sĩ sùng đức ”, v.v. là những danh hiệu mà dân Nam Bộ dành tặng ông, đủ để nói lên hết lòng ngưỡng mộ, niềm tự hào về người thầy đã làm rạng danh xứ sở này.
[1]. Gia Định tam gia thi gồm: Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825), tác giả Gia Định thành thông chí; Lê Quang Định (1760 – 1813), tác giả Nhất Thống địa dư chí; Ngô Nhân Tịnh ( ? – 1813), tác giả thơ văn được in trong nhóm Bình Dương thi xã.
[2]. Trong “Phú Việt Nam chọn lọc”, Nxb. Văn học, 2008, Phong Châu và Nguyễn Văn Phú chọn in 35 bài phú Việt Nam (6 bài chữ Hán, 29 bài chữ Việt), nhưng tiếc là không có bài phú này.
[3]. Bậc xử sĩ họ Võ, người Gia Định, sùng về đức độ. (để khắc vào bia mộ)
[4]. Tạm hiểu: Công danh tỏ rạng triều đình, một nửa thuộc về tài học; Giáo dục văn hóa phương Nam, ai cũng phục cái uy lớn (Võ Trường Toản).
[5]. Ấp tổn:nhún nhường, có lễ phép. Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, thiên hạ xưng tụng là đời “ấp tổn”.
[9]. Hoàng nhưỡng:nắm đất vàng nơi nghĩa địa.
[10]. Trang Tử“Thừa bỉ bạch vân chí vu đế hương”: cưỡi đám mây trắng kia mà đến nơi thiên đế ngự. Ý nói người chết.
[11]. Hoài Nam Tử:“Tái ông thất mã”.
[12]. Thạch Sùngđời Tấn xây vườn Kim ốc để vui chơi.
[13]. Hàn Dũviết biểu can vua bị Đường Hiến Tông đày đi biên ải.
[14]. Tô Vũ đi sứ chịu khổ ở Hồ nhiều năm.
Nguồn: Văn chương miền sông nước Nam Bộ. NXB Chính trị Quốc gia, 2012.