Khi đọc những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư - nhà văn của vùng đất Mũi, tôi chợt nhớ đến nhận định trên kia của nhà nghiên cứu Phan Quang. Phát hiện ra ngôn ngữ trong sáng tác của nữ tác giả này hết sức gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của con người Nam bộ. Nhân hội thảo lần này cho phép tôi được góp tiếng nói Bước đầu tìm hiểu ngôn ngữ Nam bộ thông qua trường hợp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư để góp phần làm phong phú thêm cho hội thảo; đồng thời cũng là tiếng nói khẳng định đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư trên phương diện ngôn ngữ đối với văn học vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vì ngôn ngữ xét cho cùng cũng là một biểu hiện ở dạng đặc biệt của văn hóa phi vật thể - tín hiệu văn hóa.
1. Ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là đối tượng của văn học. Và trong quá trình sáng tác nhà văn vận dụng ngôn ngữ toàn dân bên cạnh sự ảnh hưởng và chi phối trực tiếp của ngôn ngữ địa phương. Có thể nói, chính ngôn ngữ địa phương làm nên nét phong cách cho từng tác giả một khi biết vận dụng một cách linh hoạt và hiệu quả. Tìm hiểu ngôn ngữ Nam bộ qua sáng tác Nguyễn Ngọc Tư là đi tìm nét riêng của nhà văn này qua quá trình vận dụng ngôn ngữ địa phương vào trong sáng tạo nghệ thuật. Sự sáng tạo nghệ thuật ở chị đã làm cho ngôn ngữ địa phương trở thành lời văn nghệ thuật và tạo nên phong cách tác giả. Đó là sự thấm đẫm chất Nam bộ. Chúng tôi trình bày đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư qua các biểu hiện dưới đây:
Là người sinh ra và lớn lên trên dẻo đất cuối cùng của Tổ quốc, văn Nguyễn Ngọc Tư mang hơi thở, phong vị Nam bộ. Từ phong tục tập quán đến thói quen ngôn ngữ đều trở thành chất liệu và là đối tượng để nhà văn thể hiện tài năng. Trước hết, ngôn ngữ địa phương biểu hiện qua cách ăn nói hằng ngày được nhà văn vận dụng rất hiệu quả. Văn phong của chị rất gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt của người dân Nam bộ. Đây là lời anh Năm Già (trong Duyên phận so le) ngỏ lời với Xuyến: “Cô Xuyến mê con nít vậy, sinh cho tôi một đứa nghen”. Nhân vật không ngỏ lời trực tiếp mà nói tránh rất có duyên. Cái duyên đó mang phong vị của lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đây cũng là một kiểu ngỏ lời tương tự: “Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu” (lời của Nhâm trong Một trái tim khô ngỏ cùng người mình yêu). Cách nói đó chứa đựng sự chân chất, thật thà theo kiểu dân dã. Cách nói này bắt nguồn từ tính cách “thật thà, thẳng thắn” không thích nói “vòng vo, úp mở” của con người Nam bộ.
Tuy nhiên, ở một số trường hợp chàng trai ngỏ lời với cô gái bằng lời lẽ rất tình tứ, dịu dàng, e thẹn. Đó là cách tỏ tình của tuổi mới lớn: “Thi níu tay Huệ lại, Thi nói rằng: “Ông Kiều Phong đó mà nhằm nhò gì, có người còn thương Huệ hơn…tay Huệ ấp vào tay Thi líu ríu” (Huệ lấy chồng). Nhân vật chàng trai hát một bài ca vọng cổ quen thuộc ở vùng sông nước để ngỏ lời. Hiện (trong Nhớ sông) yêu thầm Giang mà không dám tỏ tình. Chàng trai ấy “ca tình anh bán chiếu” thay lời than thở, thất vọng khi người anh yêu đi lấy chồng. Phải chăng những cách diễn đạt như thế làm cho truyện của tác giả giàu chất thơ. Cái chất thơ đó toát lên từ yếu tố trữ tình, từ sự sâu lắng của tâm trạng nhân vật.
1.2. Phong cách ngôn ngữ Nam bộ trong truyện và tản văn của tác giả này còn thể hiện ở việc sử dụng những yếu tố từ ngữ: “giàu hình ảnh, giàu yếu tố cụ thể” […] “giàu tính bình dân, có nhiều yếu tố từ ngữ giản dị và mộc mạc…có khuynh hướng thiên về hình thức, hình ảnh hóa sự việc” ([3]). Đó là cách dùng từ diễn đạt như: nhảy cà tưng, tỉnh bơ ba khía, héo queo héo quắt, cà xình cà xàng, búa lua xua, lửng ta lửng tửng, tí ta tí tởn, chết ngoẻo cù nèo, nhát hít, mắc dịch, trống hơ trống hốc, sướng thấy mồ, hổng dè, đã thiệt, mát trời ông địa, bảnh thiệt, mắc mớ, mần chi, coi cẳng, coi giò,… Đó chính là lời ăn tiếng nói hằng ngày của con người Nam bộ đi trực tiếp vào văn chương. Các yếu tố giàu sắc thái biểu cảm này đi vào trang văn Nguyễn Ngọc Tư một cách tự nhiên. Điều này làm cho văn Nguyễn Ngọc Tư gần gũi mà không kém tính nghệ thuật.
Và đây là cách miêu tả mang đậm phong cách Nam bộ: “Ông cái tánh rộng như đồng khơi, như trời cao” (miêu tả nhân vật Hai trong Cái nhìn khắc khoải). Mỗi khi miêu tả, chúng ta thấy nhà văn dùng cách so sánh “giàu hình ảnh, giàu yếu tố cụ thể” nhằm tạo ra sự liên tưởng, so sánh dễ hiểu. Nói về tính cách của nhân vật Tứ Hải (trong Nhà cổ), nhà văn viết: “Tính tình hịch hạc, ruột để ngoài da mà thiệt tình”. Khi miêu tả cái chết của một con người vùng sông nước, nhà văn sử dụng so sánh nghệ thuật: “Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông” (Nhớ sông). Khi miêu tả hình ảnh một ông già Nam bộ hút thuốc, tác giả so sánh cường điệu, theo phong cách diễn đạt của con người Nam bộ: “Ông hút thuốc như ống khói tàu…” (nhân vật ông Chín trong Nhớ sông). Một ví dụ điển hình khác là khi tác giả viết về một chàng trai sống lang bạt, phong trần với kiếp ca sĩ lang thang: “Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lỗ chỗ, lai rách te tua, áo phóng dài quá mông, râu ria ra rậm rạp, móng tay dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô” ([4]).
Phong cách Nam bộ trong diễn đạt đã trở thành máu thịt đối với Nguyễn Ngọc Tư. Có lần nhà văn đã nói: “Riêng tôi, ngôn ngữ, không khí Nam bộ đã thấm vào tôi từ môi trường sống. Bây giờ muốn gột bỏ cũng không dễ”([5]).
2. Đọc văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư độc giả có thể biết thêm văn hóa, lịch sử, địa danh của những vùng đất. Chúng tôi xin chỉ ra một số lớp từ mà nhà văn sử dụng dưới đây:
2.1. Từ chỉ địa danh. Đó là những địa danh nghe rất ấn tượng về vùng đất cuối cùng của Tổ quốc như:
Lớp từ chỉ sông ngòi, kinh rạch: kinh Thợ Rèn, kinh Mười Hai, con sông Bìm Bịp, rạch Vàm Mắm, đập Sậy, sông Dài, sông Gành Hào, kinh Cỏ Chát, kinh Nhà Lầu, Rạch Ráng, Rạch Mũi …Đây là những địa danh làm nên không gian rất đặc trưng Nam bộ trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.
Lớp từ chỉ vùng đất: mũi So Le, Vịnh Dừa, Đầm Dơi, Đất Cháy, xóm Mũi, Đội Đỏ, gò Cây Quao, cù lao Mút Cà Tha, Đồng Rạ, Phấn Ngọn…Những địa danh đi vào trang viết của Nguyễn Ngọc Tư như sự tri ân của tác giả đối với mảnh đất quê nhà. Tác giả viết bằng tấm lòng tự hào của một đứa con đối với đất mẹ quê hương.
Lớp từ chỉ sản vật, sự vật chỉ có ở vùng sông nước: ba khía, bông súng, hàng đáy, ghe hàng bông, tàu, dầm, cây sào (chăn vịt), ngỏng cói, cà ràng, dao mát, dao phay, mắm cá sặc, rẹm muối, cua biển, tôm sú, cây sú, cây vẹt, cây ô rô, cây đước, hoa mua, cỏ chát… Lớp từ này làm cho trang văn của tác giả mang phong vị miền sông nước. Nó tạo cho người đọc cảm giác thích thú, tò mò muốn khám phá.
2.2. Lớp từ xưng hô. Gần gũi và có giá trị nghệ thuật hơn cả có lẽ là lớp từ địa phương trong cách xưng hô hàng ngày được nhà văn sử dụng. Đó là những đại từ mang phong cách Nam bộ. Đọc truyện của tác giả ta thấy xuất hiện đại từ xưng hô mà hiện nay ở Nam bộ đã ít dùng: qua – em, qua – chú em. Trong cách nói xưa của con người Nam bộ có kiểu nói qua – bậu (anh với em hay ông với bà) nghe rất ấn tượng. Nay Nguyễn Ngọc Tư dùng lại không thấy xa lạ mà còn thể hiện được nét duyên của văn hóa xưa. Huỳnh Công Tín, nhà nghiên cứu phương ngữ Nam bộ đã có nhận xét thật chí lí về yếu tố ngôn ngữ trong truyện Nguyễn Ngọc Tư: “Ở một góc nhìn của người Nam bộ vốn quan tâm đến lĩnh vực từ ngữ Nam bộ trong sáng tác văn chương hiện nay, tôi vẫn nghĩ chị là nhà văn hiếm, vì còn giữ được cốt cách diễn đạt của người Nam bộ trong sáng tác văn chương” ([6]).
Bên cạnh những đại từ xưng hô cũ ấy, ta còn bắt gặp các đại từ quen thuộc trong cách xưng hô của con người Nam bộ: tía, má, chú mày, cưng, chế (chị), hia (anh), tui, cổ, ảnh, chỉ, bây, ý…
2.3. Lớp từ mang tính chất tình thái nhằm diễn tả cảm xúc tâm trạng của nhân vật cũng như của người trần thuật. Đó là những từ ta thường bắt gặp khi đọc truyện của chị như: nghen, hen, vậy à, dễ sợ, đâu á, vậy nè, vậy à…Đây là lớp từ mà nhà văn thường sử dụng ở cuối câu để biểu thị thái độ, tình cảm của mình. Nó tạo cho câu văn Nguyễn Ngọc Tư một trạng thái cảm xúc rõ rệt. Đó cũng là dấu ấn của phong cách tác giả.
2.4. Lớp từ là những biến âm của phương ngữ Nam bộ: tết nhứt (tết nhất, sanh (con), mơi mốt (mai mốt), thiệt (thật, thực), hi sanh (hi sinh), thí mồ (thấy mồ)…Những yếu tố từ ngữ này cũng có giá trị biểu cảm độc đáo khi nhà văn dùng đúng chỗ, đúng lúc.
Tóm lại, sử dụng phương ngữ mà đậm chất văn chương đó là biệt tài của Nguyễn Ngọc Tư. Các yếu tố ngôn ngữ gần gũi, giản dị gắn với lời ăn tiếng nói hằng ngày là sở trường và cũng là lợi thế để nhà văn viết về một vùng đất. Để làm được điều đó, Nguyễn Ngọc Tư đã vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn khiến cho khi đọc ta cảm thấy đó là thứ văn chương thật sự nghệ thuật. Đó không phải là sự “lạm dụng phương ngữ Nam bộ” ([7]) như Bùi Việt Thắng đã nhận xét.
3. Thay lời kết
Vận dụng sáng tạo phương ngữ Nam bộ vào trong sáng tác góp phần làm giàu thêm ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ văn chương nói riêng. Nó giúp nhà văn tạo được dấu ấn phong cách, với Nguyễn Ngọc Tư đó là dấu ấn ngôn ngữ của vùng sông nước không lẫn với ai khác so với cùng thời. Đồng thời, đó cũng là sự kế thừa các bậc tiền nhân và phát huy thế mạnh phương ngữ sẵn có làm phong phú, đa dạng thêm các cách diễn đạt của ngôn ngữ văn chương. Điều này làm cho sáng tác của tác giả thêm phần hấp dẫn, gần gũi với bạn đọc mà nhất là bạn đọc vùng sông nước Cửu Long.
Bước đầu tìm hiểu ngôn ngữ Nam bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy tác giả đã có công đóng góp vào việc lưu giữ và phát huy phương ngữ Nam bộ một cách hiệu quả. Đó cũng là cách để văn hóa Nam bộ có một ví trí đặc thù trong tổng thể văn hóa Việt Nam. Cái hay ở Nguyễn Ngọc Tư là biến phương ngữ, lời ăn tiếng nói hằng ngày thành lời văn nghệ thuật qua hoạt động sáng tạo của mình một cách sinh động, sáng tạo. Từ đó làm cho vùng đất Tây Nam bộ trở nên lấp lánh hơi thở của cuộc sống và từ đó giúp người đọc nhận thấy sự thay đổi đến mức báo động về văn hóa của vùng đất còn “ít tuổi này”. Có một vấn đề mà chúng ta cũng nên chú ý là tâm lý của một số bạn đọc nói chung khi tiếp nhận ngôn ngữ văn chương Nam bộ mà trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long với thái độ “khác thường”. Đây có phải là một định kiến đối với văn học của một vùng đất mà mãi đến Nguyễn Ngọc Tư, định kiến trên kia đã phải thay đổi ít nhiều. Có thể vấn đề này, chúng ta cần nhiều thời gian để thảo luận./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sơn Nam (1970), Đồng bằng sông Cửu Long hay là văn minh miệt vườn, Nxb An Tiêm, Sài Gòn, trang 204.
2. Phan Quang (1985), Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau, trang 392.
3. Huỳnh Công Tín, Đặc điểm phương ngữ Nam bộ trên bình diện phong cách diễn đạt, tạp chí Bông Sen, số 40 và 50, năm 2006, trang 78-81.
4. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, trang 104.
5. HTTP: \\www. Viet – studies.Org\nngt\thd.htm
6. Huỳnh Công Tín, “Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn trẻ Nam bộ”, www. Evan.com.
7. Bùi Việt Thắng, Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, tạp chí Văn học, số 7/2006, trang 136.
8. Phạm Xuân Nguyên (2005), Dữ dội và nhân tình, báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 3/12.
Nguồn: Kỷ yếu Văn hóa phi vật thể người Việt miền Tây Nam bộ, ĐH KHXH&NV Tp.HCM, 2010