I. Tổng quan
Tỉnh Đồng Nai có diện tích 5.894 km2 (xếp thứ 23 toàn quốc) với dân số khoảng 2.483.000 người (điều tra dân số 1999, xếp thứ 5 toàn quốc), có lợi thế gần như là trung điểm của khu vực Đông Nam bộ (tiếp giáp 6 tỉnh thành trong khu vực), đang là tỉnh phát triển trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam hình thành, phát triển gắn với các đặc điểm hình thành và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, có những nét đáng chú ý như sau:
(1) Do hình thành và phát triển trên cơ sở hội nhập từ nhiều nguồn cư dân nên giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam ở Đồng Nai có đặc điểm đa nguồn, đa giá trị, trên nền tảng văn hóa Việt Nam, thể hiện sắc thái của vùng đất mới.
(2) Tính chất mở: làng mở, mở lòng (xứ sở lạ lùng, chim kêu phải sợ …). Văn hoá hỗn dung, hòa nhập, hội tụ, tiếp biến (Môn – Khơme, Maylaya – Polysien, Việt (Bắc – Trung –Nam), Hoa, Âu Tây, Nho, Phật, Thiên chúa).
(3) Tính bền vững và nguy cơ mai một: bảo tồn ngoại biên bền vững (văn hóa gốc Bắc, gốc Trung, gốc Hoa), nhưng văn hóa bản địa dễ bị mai một do quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa (Kinh hóa, Âu hóa, thị dân hóa).
(4) Thể hiện tính cộng đồng ở 2 loại công xã: công xã buôn làng (vùng núi) và công xã xóm làng (miệt vườn), giao lưu mật thiết với nhau, không xung đột.
(5) Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai luôn ở nhịp độ cao, tạo sự chuyển đổi nhanh chóng, toàn diện trong cuộc sống, trong đó hệ giá trị văn hóa truyền thống chịu tác động nhiều mặt, thay đổi nhanh, nhiều giá trị bị tổn thương, bồng bềnh trong dòng xoáy lợi ích thực dụng.
(6) Quá trình phát triển theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” và định hướng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” làm xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhiều nhu cầu mới, nhiều giá trị văn hóa mới. Với sự xuất hiện 27 khu công nghiệp sản xuất theo qui trình công nghiệp, hơn 740.000 người lao động công nghiệp, dịch vụ (trong đó 40% là lao động nhập cư), đã làm “gia tài văn hóa truyền thống” giàu thêm nhiều giá trị mới đồng thời cũng tạo nhiều xung động trước các giá trị văn hóa và nhu cầu văn hóa khác truyền thống.
(7) Kinh tế thị trường đang sôi động, mặt trái của nó gây áp lực làm thay đổi giá trị văn hóa truyền thống, tạo nhiều nghịch lý (văn hóa truyền thống làm “vô giá” các giá trị để bảo tồn, kinh tế thị trường làm “có giá” mọi thứ vô giá để bán).
Bản thân sự phát triển đã bao gồm ý nghĩa sự thay đổi các giá trị theo qui luật “phủ định của phủ định”. Giá trị văn hóa truyền thống có sự thay đổi trong quá trình phát triển đó là qui luật; nhưng thực tế, sự thay đổi ấy hiện đang diễn ra không bình thường, nhiều biểu hiện đáng lo ngại: tự phát, thực dụng, thị trường hóa, làm phai nhạt, thậm chí tổn thương giá trị văn hóa truyền thống; nó làm chậm hoặc lệch chuẩn quá trình phát triển. Vì vậy, trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước, không thể không có tầm nhìn phát triển giá trị văn hóa cùng với phát triển kinh tế. Muốn vậy, phải tìm hiểu, nghiên cứu và có giải pháp thực tế.
II. Những vấn đề quan tâm
1. Muốn tìm hiểu, nghiên cứu trước hết phải hiểu biết “thực trạng các giá trị văn hóa truyền thống” hiện “sống” ra sao trong đời sống thực tế. Phân tích 100 phiếu khảo sát của Ban chủ nhiệm đề tài K.X.03.14/06-10: 83,8% người được hỏi cho rằng mức sống tốt hơn – tốt hơn rất nhiều so với trước. Trong điều kiện đời sống tốt hơn ấy, nhiều nỗi quan tâm lo lắng đã đặt ra, lo lắng về giá trị văn hóa “xuống cấp” hơn là khó khăn về kinh tế:
- Lo về khó khăn kinh tế (đầu ra của sản phẩm: 8,08%, thiếu vốn: 13,1%, thiếu đất: 21,1%, thiếu thông tin thị trường: 15,1%).
- Lo về giá trị văn hóa (tệ nạn xã hội gia tăng: 89,9%, các giá trị văn hóa truyền thống đang bị xuống cấp: 77,8%, lớp trẻ đang bị hư hỏng: 79,8%).
Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà người được hỏi quan tâm vẫn là những nội dung phổ quát/truyền đời: Lòng yêu nước, phẩm chất cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, lòng thương người, chuộng nghĩa, hiếu học, đoàn kết, trung thực, ý thức cộng đồng cao, ứng xử tinh tế, lối sống giản dị, yêu gia đình/làng xóm, rộng lượng, hiếu khách, khoan dung, tự cường, chịu khó, nhẫn nhịn … Trong đó, 10 phẩm chất được quan tâm nhất (xếp theo thứ tự): (1) Lòng yêu nước; (2) Đức tính cần cù lao động; (3) Tinh thần đoàn kết; (4) Truyền thống hiếu học; (5) Óc sáng tạo; (6) Phẩm chất anh hùng; (7) Lòng thương yêu con người; (8) Tình yêu đối với gia đình, xóm làng; (9) Ý chí độc lập, tự cường; (10) Đức tính chịu khó, nhẫn nhịn.
Hỏi về sự biến đổi, 88,7% người được hỏi cho rằng giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc đã bị biến đổi/biến đổi nhiều so với trước, do các tác nhân: ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, yêu cầu của thời kỳ hội nhập, mặt trái của kinh tế thị trường. Trong đời sống, đang tồn tại/gia tăng/xuất hiện mới nhiều “thói tật phi truyền thống” mà người dân không thích (xếp theo thứ tự mức độ không thích): (1) Vụ lợi, hám tiền; (2) Thực dụng; (3) Giả dối, lừa lọc; (4) Cậy quyền thế; (5) Chuộng ngoại; (6) Thích hưởng thụ; (7) Khoa trương; (8) Mê tín dị đoan…
Ý kiến của 100 người được khảo sát ngẫu nhiên ở 2 cộng đồng dân cư lâu đời thuộc Biên Hòa chưa thể phản ánh thực chất của vấn đề nhưng cũng đủ để chúng ta phải suy nghĩ về bức tranh tổng quan “hệ giá trị văn hóa truyền thống” trong mối quan tâm của người dân thời phát triển và hội nhập. Nhà quản lý và người nghiên cứu văn hóa không thể vô cảm/vô tâm trước thực trạng này.
2. Làm thế nào để phát triển, hội nhập mà bảo tồn/phát huy được giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc? Đã có Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) và tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần X với chủ trương “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nhưng Nghị quyết không phải là “cây gậy thần” có thể tạo mọi kết quả kỳ diệu trong thoáng chốc, mà phải vun trồng trong thực tế bằng các giải pháp thực tế. Xin dùng những chữ “giá như” để nêu các nội dung mong ước:
a. Trong qui hoạch/quản lý qui hoạch/ thực hiện qui hoạch; giá như mục tiêu “bảo tồn/phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc được “ngồi chung bàn” với các mục tiêu kinh tế!. Nghị quyết Đảng đã nói rõ văn hóa là mục tiêu chứ không phải là “phúc lợi” của phát triển, nhưng các bản qui hoạch tầm vóc vĩ mô/chiến lược ít nhắc đến/không có chương mục tương xứng dành cho mục tiêu văn hóa. Giá như trong các bản báo cáo đánh giá tác động môi trường, có qui định về đánh giá tác động đến quốc bảo “giá trị văn hóa truyền thống” của dân tộc. Được vậy, đã/sẽ không có những sự cố xung động giữa các dự án kinh tế và di tích văn hóa. Từ năm 2002, UBND tỉnh Đồng Nai có văn bản qui định việc khảo sát, đánh giá/xử lý các giá trị văn hóa trong lòng đất gắn với đánh giá tác động môi trường trước khi lập dự án xây dựng. Nhưng chừng ấy đã khó thực hiện bởi thiếu chế tài, thiếu hệ thống “văn bản họ hàng” của cấp trên, cấp dưới; đặc biệt là thiếu lửa trong nhân tâm của các chủ dự án.
b. Mục tiêu phát triển của đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” suy cho cùng để hướng đến “mục tiêu văn hóa và chất lượng cuộc sống”. Giá như, mục tiêu này được lượng hóa/cụ thể hóa bằng hệ thống giá trị/chuẩn mực thân thuộc, thích ứng với đời sống thực tế, “mưa dầm thấm sâu” trong hệ thống giáo dục quốc dân (gia đình, nhà trường và cộng đồng). Xem một vở tuồng cúng đình trong dân gian, mới thấy giật mình về cách thức giáo dục “vô ngôn” của ông bà về “nghị quyết đời sống” của cộng đồng. Triết lý nhân sinh và nguyên tắc ứng xử được thể hiện sinh động trong buổi diễn tuồng có xây chầu đại bội. Khó nhớ nhưng ai cũng hiểu và truyền đời làm theo. “Quốc thái – Dân an – Phong điều – Vũ thuận” là “mục tiêu nghị quyết” xưa nhưng còn nằm lòng trong dân làng ít chữ. Còn mục tiêu cao cả của toàn dân thời “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” xem chừng vẫn nằm trên giấy do vẫn ở ngoài các chương trình nghệ thuật, sách giáo khoa, tài liệu phổ cập kiến thức phổ thông. Riêng chữ dân chủ trong mục tiêu phát triển đã là vấn đề hệ trọng. Sinh viên, học sinh và người bình dân hiện nay tiếp xúc với thông tin về “dân chủ kiểu Tây” nhiều hơn là dân chủ theo mục tiêu phân đấu của nước nhà. Ấy là do chưa có chính sách, giải pháp để làm rõ, đưa các giá trị mới vào hệ thống giá trị văn hóa của dân tộc và hệ thống giáo dục quốc dân. Nói đến đây, lại nhớ ý kiến được khảo sát từ 100 người được hỏi “cần phải làm gì để bảo tồn phát huy truyền thống tốt đẹp của ông bà”, kết quả câu trả lời ghi nhận được:
- Cần giáo dục thế hệ trẻ: 88,7%
- Cần có chính sách đồng bộ, đúng đắn của Đảng, Nhà nước: 75,5%.
- Cần thông tin tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng: 42,2%...
c. Trong quản lý nhà nước, các loại tài sản được kiểm kê, đánh giá kỹ đến từng cái bàn cái ghế và qui định rất rõ việc sử dụng, bảo vệ, quản lý. Giá như, đối với giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, cũng được chỉ đạo thực hiện như vậy. Gần đây, Bộ VHTTDL (trước đây là Bộ VHTT) có chương trình kiểm kê đánh giá di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong toàn quốc nhưng cách thực hiện vẫn thiên về “đong, đếm”, chưa thấy dấu hiệu hệ thống hóa, lượng hóa và định hướng việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở phạm vi toàn quốc và từng địa phương. Một loài vật quí hiếm nào đó mất đi hoặc xuất hiện, thường tạo “sự cố” khiến rất nhiều văn bản quản lý nhà nước ra đời. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đã bị mai một, mất đi, thường trong lặng lẽ, ít biết, khó hay, không biết dựa vào cơ sở pháp lý nào để xử lý. Thực tế, đã có nhều trường hợp ra tòa, phân chia tài sản cả đất hương hỏa, nhà từ đường, bàn thờ tổ tiên, nhẫn cưới, vật lưu niệm… theo đúng luật pháp nhưng trái “đạo lý”. Trong quá trình phát triển, ở Đồng Nai đã tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ cấu nông nghiệp chiếm đa số (1985) sang cơ cấu “đẹp” năm 2008 (CNXD: 57,9%, DV: 31,5%, NLT: 10,6%), chuyển dịch hơn 8.500 ha đất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp, diện mạo nông thôn được thay đổi căn bản, đời sống nông dân được cải thiện bao nhiêu con số phát triển kinh tế được chứng minh “hồ hởi”, nhưng khi đối diện với câu hỏi: Đời sống văn hóa của nông dân ở nông thôn, đặc biệt là của số hộ dân tái định cư do giao đất đã và sẽ biến đổi như thế nào thì không có cơ sở để đánh giá. Nhưng biến đổi thì thấy rõ bằng cảm tính, rất đáng lo ngại sự biến đổi trong tình làng, nghĩa xóm, bàn thờ tổ tiên trong ngôi nhà tái định cư, lễ hội đình chùa … nhiều khi, đó là lý do chính gây khó khăn trong việc đền bù giải tỏa, tái định cư chứ không phải lý do về tài chính (nhiều người không chịu về khu ở mới vì thiếu chỗ để bàn thờ, xa chùa, xa đình làng …).
d. Nghị quyết Đảng có nói đến việc “làm cho văn hóa thấm sâu vào từng người, từng lĩnh vực”. Thực ra, nên là tỏa sáng ở từng người, từng lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực sản xuất. Trong hội nhập WTO, văn hóa tư tưởng là thứ không “thị trường hóa”, nhưng sản phẩm văn hóa mang bản sắc của doanh nghiệp, của địa phương, của quốc gia có thể đem lại giá trị kinh tế cao, nó góp phần làm tôn vinh quốc hiệu. Vậy mới có nhiều chuyên đề về tính văn hóa trong sản xuất, xây dựng thương hiệu, văn hóa phẩm xuất khẩu … Giá như, trong đào tạo, xây dựng đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý kinh tế có phần chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng hệ thống giá trị văn hóa dân tộc trong tâm trí của người hoạt động trên lĩnh vực sản xuất thì giá trị văn hóa truyền thống sẽ tỏa sáng, thấm sâu hơn trong văn hóa sản xuất.
3. Nói đến sự biến đổi giá trị văn hóa truyền thống trong hội nhập và phát triển ta thường e ngại nghĩ đến sự mai một, “tha hóa”. Thực ra, cũng nên tự tin nghĩ đến các giá trị bổ sung, làm giàu, làm phong phú và đổi mới cho thích ứng. Văn hóa xứ Đồng Nai vốn có truyền thống dung nạp hài hòa các hệ giá trị văn hóa đến từ xứ Bắc, xứ Trung; người Việt, người bản địa, người Hoa, kể cả văn minh phương Tây. Nay, trong hội nhập, phát triển, có sự góp mặt của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, giá trị văn hóa truyền thống đã tự biến đổi nhiều. Việc lễ nghĩa tự nó đã bớt nhiều thủ tục để dành nhiều thời gian cho sản xuất, văn minh công nghiệp đi vào đời sống công nhân, văn minh đô thị hình thành, lan rộng, ý thức về vệ sinh, an toàn thực phẩm nhiều tiến bộ. Thực tế đặt ra yêu cầu ngày càng cao về việc bổ khuyết, bổ sung vào giá trị văn hóa truyền thống nhiều giá trị mới để hội nhập và phát triển. Vẫn là truyền thống yêu nước, nhưng lòng yêu nước khi xưa thể hiện tập trung ở việc chiến đấu hy sinh vì hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc; nay tập trung thể hiện ở việc làm giàu góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Văn hóa truyền thống vốn dị ứng với người giàu. Nay, giáo dục về lòng yêu nước không chỉ bằng cổ tích và truyền thống chống ngoại xâm, còn phải bổ sung hệ giá trị về sự làm giàu chính đáng. Vụ khiếu kiện về quản lý người nước ngoài xử phạt công nhân ở công ty Poucheng năm 2002 để lại bài học kinh nghiệm: cùng là việc cúng thổ thần, nhưng thiếu hiểu biết lẫn nhau về giá trị văn hóa nên gây mâu thuẫn, dẫn đến hành vi phạm pháp luật. Xử phạt bằng pháp luật không hay bằng học tập, hiểu biết để chia sẻ với nhau về giá trị văn hóa của cộng đồng.
Giá trị văn hóa truyền thống có sức sống bền lâu, có qui luật biến đổi để tái tạo làm giàu và thích ứng với đời sống, cũng dễ bị tha hóa trước áp lực phát triển kinh tế đơn thuần. Trong điều kiện kinh tế thị trường, phát triển và hội nhập, cần có tầm nhìn, có giải pháp tác động đồng bộ với các giải pháp kinh tế giá trị văn hóa truyền thống mới được bảo tồn, phát huy đúng định hướng, trở thành sức mạnh nội sinh của dân tộc, phát triển mà không xa cội quên nguồn, không biến thành cái bóng mờ của quốc gia khác, dân tộc khác.
Người post bài: Nguyen Thanh Tung
Cập nhật ( 03/02/2012 )