Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm về miếu. Toan Ánh trong Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, cho rằng: Miếu cũng như đền là nơi qủy thần an ngự. Miếu nhỏ hơn đền (đền nhỏ hơn đình), thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài… miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để qủy thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng có tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao…
Tương tự, Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục thì cho rằng: Mỗi làng thờ thần phải có một tòa miếu. Có nơi thì vừa có miếu, vừa có đình… Miếu là chỗ qủy thần bằng y, đình là nơi thờ vọng và để làm nơi công sở cho dân hội họp. Miếu thường hay kén những nơi đất thắng cảnh, nhất là trên gò cao, hoặc ở nơi gần hồ to sông lớn thì mới hay… Đình miếu cũng theo một kiểu mẫu, chỉ khác nhau to với nhỏ mà thôi…
Nhà văn Sơn Nam trong cuốn Đình - Miễu và lễ hội dân gian đã viết: …Đình - miếu (miễu) là cơ ngơi làm biểu tượng nhắc nhở lòng nhân nghĩa, đạo lý tự giác, vì vậy mà tồn tại và phát triển trong thời gian dài mãi đến nay hãy còn ảnh hưởng sâu đậm… Miểu, do miếu nói trại ra. Nhà thờ riêng của dân (nhà thờ họ) gọi gia miếu. Nhà thờ giòng họ của triều đại gọi là thế miếu… ở đồng bằng sông Cửu Long, chẳng nghe nói đến hai tiếng “Phúc thần”. Các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng vài am miễu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha, sấu bắt, cúng sơ sài không tế lễ…
Như vậy, Toan Ánh và Phan Kế Bính đề cập đến miếu với tính cách là một nơi thờ tự đi đôi với đình làng, đã có đình thì không nhất thiết phải có miếu, còn am chúng sinh ở tha ma (nghĩa địa) thì để thờ những linh hồn vô chủ. Đây thực sự là hình thức miếu thờ mà đa số là ở miền Bắc và miền Trung. Trong khi đó nhà văn Sơn Nam trình bày về miếu theo cách hiểu phổ biến của dân gian Nam Bộ.
Miếu với ý nghĩa là nơi thờ thần đi đôi với đình làng, cư dân hàng năm đến nghênh rước thần linh từ miếu đi đến đình làng để tôn vinh vào những ngày hội làng thì ở Cà Mau rất hiếm thấy. Một phần là do quá trình lịch sử của công cuộc khai triển đất Nam Bộ, Cà Mau là vùng đất cuối cùng trên bước đường phát triển về phương Nam của người Việt, thời điểm khai khẩn tất nhiên sẽ muộn hơn so với các tỉnh trong khu vực. Phần khác, do các cộng đồng cư dân ở Cà Mau vốn dĩ đã ít do khai phá muộn, lại mất điều kiện để xin phong sắc thần cho các đình làng, do đó số đình làng ở Cà Mau không nhiều so với phạm vi diện tích và mật độ cư trú như ở những tỉnh trong khu vực. Hơn nữa, điều kiện kinh tế xã hội lúc bấy giờ chưa được ổn định nên người ta không nhất thiết phải xây dựng miếu độc lập với đình, mà thường thờ thần ngay trong đình làng.
Miếu với ý nghĩa là nơi thờ những oan hồn chết bất đắc kỳ tử cũng rất hiếm thấy ở Cà Mau. Qua khảo sát thực tế, quốc lộ 1A từ ranh giới Bạc Liêu cho đến trung tâm tỉnh lỵ Cà Mau khoảng trên 14 km không có miếu nào thờ oan hồn. Đoạn đường từ Cà Mau đến thị trấn Năm Căn với khoảng cách 67 km cũng không có miếu nào thờ oan hồn. Cà Mau có tổng chiều dài của hệ thống sông ngòi kênh rạch lên tới khoảng 10.000 km, nhưng theo khảo sát thực tế vẫn chưa phát hiện được miếu thờ những người đã chết “oan ức… vì đắm thuyền, hùm tha sấu bắt” như nhà văn Sơn Nam đã miêu tả.
Như vậy miếu thờ phổ biến ở Cà Mau là gì? Các hình thức của miếu gồm những gì? Đối tượng thờ trong miếu là những nhân vật nào?
Trước khi đi vào tìm hiểu miếu thờ ở Cà Mau cần phải tìm hiểu qua một số đặc điểm cộng đồng dân cư. Bởi vì chính cộng đồng cư dân ở nơi đây là chủ thể của nền văn hóa mang đậm nét địa phương trong mẫu số chung của nền văn hóa Việt Nam mà các miếu thờ ở đây chính là sản phẩm của chủ thể sáng tạo văn hóa đó.
Cộng đồng dân cư ở Cà Mau chủ yếu gồm tộc Việt, Khơme và Hoa.
Theo các nhà nghiên cứu, người Khơme ở đồng bằng sông Cửu Long có mặt tại đây vào khoảng thế kỷ XII, sinh sống bằng nghề trồng lúa nước, ở các giồng (đất cao), khác với người Việt cư trú ở vùng đất thấp ven lộ và sông rạch. Nhà làm theo kiểu làm nối mái (người Việt nối đầu), kiểu nhà sàn truyền thống hiện nay còn rất ít. Người Khơme giỏi về việc đánh bắt cá, tôm, các loài thủy hải sản. Nhiều phương tiện đánh bắt cá ở sông rạch phổ biến hiện nay ở Cà Mau là do người Việt tiếp thu ở người Khơme. Người Khơme ở Cà Mau hoàn toàn không hình thành phum, sóc sống một cách biệt lập mà sống gần gũi sát với người Hoa và người Việt. Khu vực có mật độ người Khơme tương đối đông thuộc khu vực chùa Khơme phường 1; khu vực chùa Tam Hiệp và chùa Rạch Cui tại huyện Trần Văn Thời; khu vực chùa Cao Vân tại xã Tân Lộc huyện Thới Bình. Người Hoa đa số sống bằng nghề buôn bán tại chợ Cà Mau, các khu vực chợ huyện, chợ thị trấn.
Người Hoa thường cư trú ở thành phố, thị trấn, thị tứ chuyên về nghề kinh doanh mua bán. Tinh thần cộng đồng của người Hoa rất cao qua các hiệp hội thương thân, tương trợ nghề nghiệp. Người Hoa nhập cư đã đem theo nhiều phong tục tập quán nhất là về phương diện văn hóa tín ngưỡng qua các hình thức tín ngưỡng độc đáo như thờ cúng tổ tiên, thần tài thần lộc thờ Quan Công, thờ Ông Bổn, thờ Bà Thiên Hậu…
Điểm khác biệt rất rõ nét của cộng đồng ba dân tộc Việt, Hoa, Khơme so với các tỉnh khác trong vùng là có sự chan hòa sống xen kẽ với nhau, khó thấy có sự phân biệt đối xử trong sinh hoạt. Truyền thống văn hóa riêng của ba dân tộc hòa quyện đan xen và thẩm thấu vào nhau trong suốt quá trình khai hoang cho đến nay. Các tập tục, tín ngưỡng tôn giáo cũng tác động mạnh mẽ vào nhau, mỗi sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc này cũng đã lây lan và dễ dàng được chấp nhận đối với dân tộc kia. Sự hỗn dung văn hóa trong cộng đồng 3 tộc nguời ở Cà Mau về phương diện tôn giáo tín ngưỡng đã thể hiện rất rõ nét trong sinh hoạt, tập tục thờ cúng từ gia đình đến các cộng đồng cư dân. Nó ẩn chứa trong các miếu thờ những giá trị nhân văn sâu sắc trong ứng xử của con người với thiên nhiên, con người với quá khứ, con người với cộng đồng và con người với chính mình qua các hình thức tín ngưỡng, qua các hành vi thờ tự.
Xét về phương diện sở hữu, có thể chia miếu thờ ở Cà Mau thành hai nhóm:
- Miếu thờ của gia đình: đa số là miếu thờ thổ thần và rất ít miếu thờ bà Chúa Xứ.
- Miếu thờ của cộng đồng: miếu thờ bà Chúa Xứ chiếm tỷ lệ nhiều nhất; miếu thờ bà Thủy Long, miếu thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh (rất ít), miếu thờ Hà Bá; miếu thờ ông Cọp (Sơn Lân Chủ tướng), miếu thờ ngũ hành Nương Nương, miếu ông Tà.
Sự phân loại đối với miếu thờ của cộng đồng là căn cứ vào đối tượng thờ chính. Thực ra trong một miếu thờ, đặc biệt là miếu bà Chúa Xứ có rất nhiều đối tượng thờ nhưng tất cả chỉ đóng vai trò tòng tự hoặc phối tự cho đối tượng thờ chính là bà Chúa Xứ.
1. Miếu thờ bà Chúa Xứ:
Tục thờ bà Chúa Xứ là một trong những tín ngưỡng có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến cuộc sống, tâm tư, tình cảm của con người trong ứng xử với thiên nhiên, ứng xử giữa con người với con người. Tục thờ bà Chúa Xứ nằm trong hệ thống thờ mẫu của người Việt nhưng mang nét đặc thù của vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long, Tục thờ bà Chúa Xứ là biến tướng của các tục thờ mẫu của người Việt trong quá trình lịch sử đi khai hoang, mở cõi về phương Nam trong sự chấp nhận, tiếp thu và đồng nhất tín ngưỡng thờ mẫu của người Chăm, người Khơme để trở thành tín ngưỡng thờ mẫu mang sắc thái của khu vực. Bà Chúa Xứ đã trở thành đối tượng rất sùng bái của các cư dân trong khu vực. Do đó, miếu bà Chúa Xứ được xây dựng ở Cà Mau do sự tự phát trong tâm thức của người dân, có những miếu thờ bà Chúa Xứ của cộng đồng do sự liên kết của xóm, ấp để hình thành. Có những miếu thờ bà Chúa Xứ do nhu cầu riêng về mặt tâm linh của một vài thành viên hoặc của cả gia đình để họ lập miếu thờ.
Theo kết quả khảo sát thực tế ở 04 tuyến sông chính với tổng chiều dai không quá 100km tại 04 huyện trong 09 huyện, thành phố thuộc tỉnh, có 15 miếu thờ bà Chúa Xứ, trong đó có 13 miếu của cộng đồng và 02 miếu của gia đình.
Đối với miếu thờ bà Chúa Xứ của gia đình, qua tìm hiểu về nguyên nhân, có thể thấy xuất phát từ những trường hợp như sau:
- Do gia đình đã có hai hoặc ba đời từng thờ bà ở vùng khác, khi di dời đến đây họ duy trì tiếp tục việc thờ cúng vì sợ bị quở trách, làm ăn sẽ không được may mắn, gia đình lục đục xào xáo.
- Có những gia đình khi thân nhân bị ốm đau bệnh tật, người nhà cầu xin khấn vái vào một bà chúa xứ nào đó, rất mơ hồ trong tâm thức của họ, đang cai quản khúc sông này, trên vùng đất này. Sau đó người thân của họ vì một lý do nào đó khỏi bệnh. Từ đó, niềm tin vào một quyền lực vô hình đã hình thành trong tâm linh họ.
- Có những người (đặc biệt là ở phụ nữ) trong giấc chiêm bao, mộng mị thấy một bà với nhiều hào quang, pháp thuật, tự xưng là bà này bà nọ với quyền hạn cai quản khu vực mà họ đang sống. Điều này đã gây nhiều ám ảnh, nỗi lo sợ buộc họ phải lập miếu để thờ.
- Nhiều trường hợp trong gia đình có chuyện không may có người đau yếu liên miên, có cảnh tang gia liên tiếp (trùng tang) hoặc từ bất kỳ một sự xui xẻo nào của gia đình, họ mượn thầy pháp, thầy cúng, lên đồng và được người “khuất mặt” cho biết là bị bà quở trách. Gia đình vội vàng phải lập miếu thờ bà ngay trong phạm vi đất mình đang sinh sống.
Những miếu thờ bà Chúa Xứ của cộng đồng thông thường đặt tại các ngã ba sông được xây dựng bằng cây, lợp lá tôn hoặc xây dựng bằng gạch thường có qui mô về không gian và diện tích lớn hơn các miếu thờ khác. Thông thường thì miếu thờ bà Chúa Xứ dù nhỏ nhất cũng vừa tầm của một người có chiều cao trung bình đi vào một cách bình thường. Có những miếu thờ được xây cất với chiều ngang khoảng 8m, chiều sâu 5m không kể gian trống phía trước được che bằng tôn, không dựng vách để tạo sự thông thoáng thuận lợi cho việc hội họp của ban trị sự cũng như việc tổ chức cúng lễ đãi tiệc. Đằng sau miếu thường là có cây cổ thụ hoặc những loại cây cao có tán rộng tạo điều kiện mát mẻ và tạo được vẻ uy nghi, huyền diệu ở nơi trú ngụ của thần linh. Vị trí của miếu luôn ở về một phía của ngã ba sông (ngã ba sông được tạo bởi một sông cái và một con sông nhỏ hoặc một con kênh nhỏ thẳng góc dẫn vào trong một xóm, ấp, khu vực dân cư). Mặt trước của miếu thường hướng ra dòng sông chính và có một khoảng cách với bờ sông để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và các điều kiện cho việc cúng lễ khi tập trung đông người vào những ngày chánh lễ. Bài vị trong gian thờ thường được viết bằng chữ Hán như: Chúa Xứ Nương Nương; Chúa Xứ Thánh Mẫu đôi khi còn có tên Chúa Xứ Bổn Cảnh.
2. Miếu thờ Bà Thủy Long
Cũng trong hệ thống tín ngưỡng thờ mẫu, tục thờ cúng thần thủy còn được gọi là thủy long thần nữ cũng khá phổ biến tại Cà Mau. Miếu thờ thủy thần cũng khá đa dạng không khác gì so với miếu bà Chúa Xứ nhưng số lượng ít hơn (có 04/24 miếu khảo sát tại 03 huyện). Miếu thờ bà Thủy Long có đôi nét dị biệt hơn miếu thờ bà Chúa Xứ.
Miếu thờ thần thủy ở Cà Mau đều là miếu của cộng đồng (trong khảo sát tại 03 huyện chưa thấy miếu thủy thần nào thuộc sở hữu gia đình) trong khi miếu thờ bà Chúa Xứ có thể là miếu của cộng đồng cũng có thể là miếu của gia đình. Cũng có khi miếu ban đầu là của gia đình sau này trở thành miếu của cộng đồng.
- Qui mô của miếu thờ thủy thần đa dạng hơn miếu thờ bà Chúa Xứ. Có những miếu thờ thủy thần giống như miếu thổ công: Bài vị đặt dưới đất, kích thước miếu khoảng 0,8m x 1m, chiều cao khoảng 1m (tại ấp Cả Hàng, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước). Có miếu thờ với không gian rộng hơn như miếu thủy long thần nữ tại xã Hàng Vịnh, huyện Ngọc Hiển. Khuôn viên của miếu khoảng 12m x16m với các yếu tố bài trí như một đình thần (có tả ban, hữu ban, tiền hiền, hậu hiền, tiên sư, thành hoàng bổn cảnh, cô hồn, Nam hải đại tướng quân, chúa sơn lâm...). Có miếu có hình dáng trung bình như một căn nhà nhỏ nhưng có hoành phi và 03 cặp câu đối hoàn chỉnh (Rạch Bà Hội, thị trấn Thới Bình, huyện Thới Bình).
Thủy long thần nữ đúng ra là một vị nữ thần trông coi về ao hồ, giếng nước với tính cách là một phúc thần nhiều hơn là hung thần. Nghĩa là đặc tính của vị nữ thần này có cả hai mặt thiện và ác. Có thể ban phúc cho những người sống gần nơi sông nước nhưng đồng thời cũng có thể giáng họa cho những người nào xúc phạm đến uy danh của thần. Những người dân hành nghề hạ bạn (nghề đánh bắt cá dưới nước) hoặc hành nghề đưa đò, chạy tàu trên sông rất sùng bái vị thần này. Trong khi đó Hà Bá mới chính là một hung thần trong coi về sông rạch nhưng ít được thờ cúng hơn so với thủy thần. Người ta thờ cúng Hà Bá chỉ vì sợ tai họa chứ không cầu xin được phúc lộc như ở nữ thủy thần. ở đây, một lần nữa, chúng ta lại thấy trong tâm thức của người Việt, tín ngưỡng thờ mẫu vẫn là yếu tố trội hơn các tín ngưỡng khác. Thờ nữ thần sông nước, ao hồ với ý niệm sùng bái trong tâm linh, trong khi đó đối với nam thần có cùng một phạm vi và đối tượng cai quản thì lại có thái độ e dè, chiếu lệ trong nghi thức thờ cúng.
3. Miếu Thổ Thần.
Đây là một loại miếu thơ hầu hết thuộc sở hữu của gia đình và là loại miếu thờ phổ biến nhất ở Cà Mau. Trong cộng đồng không có miếu thờ nào dành riêng để thờ Thổ thần.Nếu là miếu của cộng đồng thì chỉ là một miếu nhỏ trong quần thể các miếu khác hoặc nhiều khi chỉ là một bài vị đặt dưới đất trong phạm vi miếu lớn. Miếu thờ Thổ Thần xuất phát từ tín ngưỡng thờ đất của người Việt. Qua khảo sát miếu ở 02 huyện Cái Nước và Ngọc Hiển, kết quả cho thấy:
- Huyện Cái Nước, trên tuyến sông 12km từ thị trấn Cái Nước đến xã Phú Tân, có khoảng 15 miếu thờ thổ công.
- Huyện Ngọc Hiển, trên một đoạn sông khoảng 9km thuộc khu vực từ thị trấn Năm Căn đến giáp ranh xã Hàng Vịnh trên tuyến sông cửa lớn có khoảng trên 30 miếu thờ Thổ Thần.
Vì là miếu Thổ Thần nên đối tượng thờ là đất. Phạm vi của đất lớn nhỏ sẽ quyết định đến việc thờ cúng. Tùy theo phạm vi và hình thức của đất mà mỗi người (chủ đất) sẽ xây dựng miếu của mình cho phù hợp. Chính vì lý do đó mà miếu thờ Thổ Thần ở Cà Mau là một mô hình thờ cúng rất tự do. Người ta dựng miếu theo bất kỳ hướng nào cho phù hợp với mảnh đất của mình. Thậm chí ở một ranh đất có hai miếu thờ đâu lưng lại với nhau do 02 chủ đất khác nhau, đã từng có những mâu thuẫn với nhau về phạm vi đất đai. Điều này cho thấy rõ hơn về ý thức tôn giáo - tín ngưỡng: Thần Thánh chính là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra.
Không gian của miếu thờ Thổ Thần có qui mô nhỏ nhất so với các miếu khác. Chất liệu xây dựng cũng tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của gia chủ. Có những miếu được cất bằng tre lợp lá, bao quanh bằng tấm lợp nylon. Có những miếu được xây cất bằng gạch, quét vôi rất sạch sẽ, trang trọng. Tất cả các miếu thờ thổ thần có chiều cao không quá 1m2. Miếu thờ Thổ Thần của gia đình thường là miếu độc lập, nghĩa là không có sự chung đụng với các đối tượng thờ khác, nhưng đôi khi nằm trong quần thể các miếu khác ở cùng một khu vực thờ tự của cộng đồng nhưng chiếm một vị trí rất nhỏ bé, khiêm tốn. Trong xu hướng hiện nay, khi tỉnh Cà Mau thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất; mở rộng phạm vi nuôi trồng thủy hải sản thay cho sản xuất nông nghiệp thì đời sống người dân đã khá hơn nhiều so với trước. Các miếu thờ Thổ Thần cũng được chuyển biến từ chất liệu tre, lá sang các chất liệu gạch đá.
Trong dân gian, miếu thờ Thổ Thần còn được gọi là miếu ranh (ranh đất) hoặc miếu thờ Thổ Thần chủ. Phía sau miếu luôn luôn là một gốc cây để tạo sự mát mẻ, giảm bớt được nắng, mưa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thờ cúng.
4. Miếu thờ thần Bổn Cảnh:
Miếu thờ thần ở Cà Mau xuất phát từ tín ngưỡng thờ thần thành hoàng của người Việt. Đúng ra, tín ngưỡng này gắn liền với thiết chế đình làng nhưng vì điều kiện lập làng và xây dựng đình quá tốn kém, nên người Cà Mau lập miếu thờ thần thành hoàng bổn cảnh thay cho đình, nhưng số lượng miếu này rất ít. Có miếu được xây dựng gần như đầy đủ các yếu tố của đình như: bài vị, tả ban - hữu ban - tiền hiền - hậu hiền rồi sau đó có lẽ không xin được sắc phong cho nên vẫn không được chấp nhận như đình. Đây là trường hợp mà trong dân gian gọi là miếu Ông Cò tại khu vực chợ xã Phú Tân, huyện Cái Nước. Từ bờ sông bước lên, người ta thấy tấm bình phong bằng xi măng có bức phù điêu rồng vờn cọp có sơn màu phù hợp biểu tượng cho âm dương giao hòa. Phía sau của bức bình phong này là một bệ thờ bằng đá, phía sau bệ đá, hai chữ thần nông màu đỏ được đắp nổi trên nền màu xanh. Cách tấm bình phong 4m, phía bên phải thờ Hà Bá, phía bên trái thờ Thổ Thần, cả hai có kích cỡ như nhau (0,6m x 0,5m, cao 0,7m). Hai miếu này đâu mặt với nhau ở về phía hai bên trước mặt miếu chính. Miếu chính cách 02 miếu Thổ Thần và Hà Bá khoảng 6m. Trước mặt miếu chính là đường đi của dân. Đối diện với miếu chính phía tay trái, nằm ở ngay lề đường có miếu nhỏ tương đương với miếu Hà Bá và Thổ Thần là miếu thờ thần hổ.
Qua sự bố trí các miếu và các hình thức tại miếu Ông Cò cho thấy hình thức quần thể kiến trúc này đã muốn vươn tới việc xây dựng đình của cư dân địa phương nhưng thời gian của thời đại phong kiến không còn nữa nên họ không thể hoàn thành các điều kiện lập đình như nguyện vọng của họ.
Qua sự khác biệt về phạm vi không gian của các miếu nói trên, ta thấy rõ ràng sự phân cấp thứ bậc quan trọng trong tâm linh của người dân nơi đây . Bà Chúa xứ luôn là đối tượng thờ quan trọng nhất trong tâm thức của cư dân trong khi đó thần thành hoàng với danh nghĩa là thần bổn cảnh lại đứng vai trò thứ yếu. Đây chính là tính trội của yếu tố nữ trong công đồng người Việt nói chung.
5. Miếu thờ Ngũ hành nương nương.
Đối với tín ngưỡng thờ Ngũ hành nương nương, đa số được phối tự chung với các đối tượng thờ khác với biểu tượng bằng bài vị. Đặc biệt tại bến phà Đầm Cùng (giáp ranh huyện Cái Nước và Ngọc Hiển) có miếu thờ Ngũ hành nương nương riêng biệt. Trong miếu có 05 pho tượng bằng thạch cao được sơn theo 05 mẫu của ngũ hàng tương ứng với 05 bát nhang được đặt chung trên bệ thờ chiếm tỷ lệ 2/5 chiều cao của miếu (miếu có chiều cao khoảng 2,4m, chiều ngang 2m và chiều dài 2m). Do khu vực này khá chật hẹp, các nhà liên kế sát với nhau nên người ta tận dụng khoảng không gian còn lại của phía sau một căn nhà để dựng miếu. Miếu được xây bằng gạch, quét vôi sạch sẽ, trang trọng. Nguồn gốc của miếu nầy thuộc về dòng họ Huỳnh, một dòng họ người Hoa đã sống lâu đời ở nơi đây, miếu được xây cất lại từ năm 1999, trước đó miếu lập bằng cây ván địa phương và thờ cúng bằng bài vị ngũ hành. Do sự phát triển của dòng họ về kinh tế, miếu được chỉnh trang như hiện trạng ngày nay. Trong dân gian miếu này được mang tên miếu thờ 5 bà mẹ. Bên trong miếu, ngoài 5 pho tượng 5 bát nhang, một bức rèm đỏ che ngang, ta không thấy một chi tiết nào khác. Không bài vị, hoành phi, câu đối như các miếu khác.
6. Miếu Ông Tà.
Tục thờ cúng ông Tà chính là tục thờ cúng Neákta của người Khơme, là tín ngưỡng thờ đá của cư dân Nam Đảo còn lưu truyền lại đến nay.
Số lượng miếu ông Tà ở Cà Mau so với các miếu thờ mẫu, miếu thờ Thổ Thần dọc theo tuyến sông nước chiếm tỷ lệ tương đối ít. Thực ra, xét về đối tượng và mục đích thờ cúng thì miếu ông Tà và miếu thờ Thổ Thần giống như nhau, nghĩa là cùng một niềm tin, cùng một sự trông cậy vào một vị thần giúp cho người dân sự bình an, may mắn, sự hưng thịnh trong cuộc sống. Tuy nhiên biểu tượng thờ thì hoàn toàn khác nhau. ở miếu thờ Thổ Thần nhiều khi chỉ là một bát nhang, không bài vị, không đèn nến. Trong khi đó tại miếu ông Tà, biểu tượng thờ là một hoặc hai ba cục đá tròn hình bầu dục, nhẵn nhụi, thường là đá hoa cương. Sự khác biệt này, xét về phương diện tâm linh, do người ta tin rằng Thổ Thần xuất nhập từ trong đất, Ông Tà xuất nhập từ hòn đá trong miếu thờ. Đây là điểm đặc thù trong tín ngưỡng thờ đá của người Khơme mà người Việt tiếp thu. Đã là miếu ông Tà thì phải có biểu tượng của cục đá. Có những trường hợp cục đá ấy bị đánh cắp do những người khác xóm đến cúng vái cầu xin đạt được ý nguyện, họ đem về lập miếu thờ ở gia đình. Cũng có khi họ tạm “mượn” về để cầu xin việc riêng, sau đó đem trả về chỗ cũ. Đây là trường hợp khá phổ biến trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian ở Cà Mau. Để tạo sự trang trọng, người ta thường phủ lên những cục đá ấy bằng tấm vải đỏ. Đối với niềm tin của người dân, ông Tà cũng như thổ địa là một vị phúc thần, giúp cho họ đạt được những ý nguyện tương đối nhỏ như: Tìm lại được của đã bị mất, mua may bán đắt trong những buổi đưa hàng ra chợ, trúng số đề. Riêng trong lãnh vực số đề, có một thời gian, và ngay cả hiện nay miếu Ông Tà đã là nơi tập trung cho những người mê tín dị đoan đến đây để cầu số. Ông Tà cũng đã từng trở thành đối tượng cho những kẻ lừa bịp mượn danh qua việc ngồi đồng, ngồi cốt ban số đề để trục lợi cá nhân.
Hình thức miếu thờ ở Cà Mau rất đa dạng, có qui mô lớn nhỏ khác nhau, sự bài trí không theo một khuôn mẫu nhất định nào nhưng tựu trung cũng chỉ do thành ý của người cầu xin với lễ vật, nhang đèn và lời khấn vái thì người khuất mặt có thể cảm thông mà châm chước mọi điều. Người Cà Mau không “mặn mòi” lắm với hình thức lễ nghi và về bề ngoài của nơi thờ tự. Có khả năng nhiều làm nhiều, khả năng ít làm ít. Điều cốt yếu là ở lòng thành đối với trời đất, thần thánh. Không gian thiêng thờ thần linh trong miếu ở Cà Mau không được quyết định bởi Nhà nước phong kiến. Đây là một điểm đặc thù của Cà Mau. Ở Cà Mau, không có một miếu thờ thần nào được triều đình sắc phong. Thậm chí đến các đình thần số sắc phong hiện nay (theo báo cáo của Bảo tàng Cà Mau) không đến 10 sắc trên tổng số khoảng 20 ngôi đình còn sót lại qua hai cuộc chiến tranh.
Đối với các xóm ấp ở Cà Mau, sinh hoạt tín ngưỡng trong dân chúng hoàn toàn không có khái niệm về đền, điện, phủ như ngoài Bắc mà chỉ có đình và miếu, trong đó miếu thì vô cùng phong phú và đa dạng về hình thức và nội dung thờ cúng. Hầu hết các miếu ở Cà Mau đều được xây dựng dọc theo tuyến sông rạch vì nó phù hợp với điều kiện đi lại của dân chúng (gần 10.000km đường thủy trong khi quốc lộ 1 chỉ có 13km). Miếu được xây dựng với nhiều hình thức và qui mô khác nhau. Thông thường thì ở ngã ba sông, ở đầu những con rạch, con kênh nơi dẫn vào khu tập trung của một xóm cư dân quây quần sinh sống người ta thường lập miếu để thờ cúng. Có thể ví ngã ba ấy như là cổng chào để đi vào đình làng. Đầu kênh, rạch là nơi thuận lợi cho cộng đồng vì nó là cửa ngõ giao thông vì ở đó ai cũng dễ dàng thực hiện các hành vi thờ tự của mình, ai cũng có thể “đi thưa về trình” với thần linh. Cửa ngõ giao thông ấy là điểm hẹn để hội tụ các gia đình trong xóm ngõ vào các dịp cúng lễ nhất là những ngày sóc vọng và các ngày rằm chính (thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên tức rằm tháng giêng, tháng 7, tháng 10).
Như vậy, miếu thờ ở Cà Mau có thể xem như một hình thức thờ tự phổ biến với nhiều dang tín ngưỡng đến từ sự giao thoa của ba nền văn hóa Việt-Hoa-Khơ me. Sự đa dạng về chủng loại cũng như sự hỗn dung tín ngưỡng trong các miếu thờ, sự phong phú về số lượng của miếu thờ trải rộng trên một vùng sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt đã thể hiện nhu cầu cũng như khát vong về văn hóa tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của người dân Cà Mau.
Nguồn: Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật (Số 5/2004)