Lịch sử là cái đã qua, để lại các “tồn tại” vật chất có giá trị hoặc không có giá trị tùy theo bối cảnh văn hóa ở từng thời đại. Văn hóa coi các sự kiện hoặc biến cố lịch sử là biểu hiện biến thiên ở bề mặt, biến đổi cục bộ từ hình thái vật chất này sang hình thái vật chất khác; đó là những nốt nhạc, tiết tấu hoặc quãng nhạc trong một bản hòa âm đặc sắc. Văn hóa thể hiện cái toàn thể, không bị cắt đoạn trong không gian và thời gian. Lịch sử trong văn hóa là lịch sử được xâu chuổi thành cái toàn thể, theo một tiến trình nhân bản nhất quán.
Không gian lịch sử là sự biến đổi đứt đoạn của các sự kiện và biến cố; không gian văn hóa lịch sử là quá trình tiếp nối của tính cách và truyền thống. Cũng vậy, bối cảnh lịch sử là sự lắp ghép các sự kiện rời rạc theo trình tự lô-gích đến một thời điểm nhất định; còn bối cảnh văn hóa đòi hỏi xác định cột mốc lịch sử bao quát cả một thời kỳ. Chẳng hạn, thế kỷ XX đối với nước ta đánh dấu sự chuyển hướng khởi đầu một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên hội nhập với nền văn minh phương Tây.
Văn học và nghệ thuật Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh, trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ, là bộ phận của văn học và nghệ thuật của cả nước. Phạm vi giới hạn của thế kỷ XX trong tình hình văn hóa đặc thù ở Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh nói riêng và Nam Bộ nói chung đối với toàn cảnh lịch sử văn hóa dân tộc có lẽ nên xác định thành hai “cột mốc”:
1. Thời kỳ từ giữa cuối thế kỷ XIX đến năm 1975, với cuộc vận động cốt lõi của các phong trào văn học và nghệ thuật bảo vệ “cái nhà” dân tộc mang truyền thống yêu nước, đó là quá trình đấu tranh bảo tồn văn hóa dân tộc.
2. Thời kỳ tiếp theo từ sau năm 1975 đến nay, với nhiều cuộc vận động đang trong quá trình định hình nhằm xây dựng “cái nhà” dân tộc, đề cao tinh thần dân tộc, phát triển đất nước, vừa hội nhập bình đẳng với văn minh thế giới, vừa khẳng định truyền thống bản sắc dân tộc.
Tất nhiên, đây là một quá trình đan xen phức tạp, với nhiều biến cố và bối cảnh lịch sử khác nhau đến nỗi có khi không phân biệt ranh giới giữa hai thời kỳ. Sa đà vào phân kỳ lịch sử có nguy cơ cắt vụn đời sống văn hóa, có thể dẫn đến nhận định thiếu tính bao quát toàn diện hoặc thin kiến, chủ quan.
Văn học và nghệ thuật là mảng quan trọng vì tính hết sức phổ biến của chng làm nên giá trị tinh thần của đời sống văn hóa. Văn học và nghệ thuật, ở góc độ văn hóa, không nn chỉ căn cứ vào cc giá trị nổi bật đặc sắc của tác phẩm hoặc công trình, mà trước hết cần nhìn nhận chng ở thể dạng tiến trình. Căn cứ vào tiến trình văn học và nghệ thuật Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX, theo chng tơi, có lẽ nên mạnh dạn xem đây là “cái nôi” của nền văn học và nghệ thuật hiện đại của nước nh.
Văn học
Văn học Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh là tiến trình “có gốc có ngọn”, khởi đi từ văn học dân gian đặc sắc, đến văn học Hán Nôm, văn học chữ quốc ngữ, văn chương báo chí, thơ văn yêu nước ở Sài Gòn, phong trào “thơ mới”, tiểu thuyết, v.v… Đó là một tiến trình hoàn chỉnh, gồm cĩ ít nhất ba đặc điểm cần làm rõ: tính sáng tạo, tính kế thừa và tính cải lương.
Tiến trình này làm cho Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh được ví như “cái nôi” khai sinh nền văn học Việt Nam hiện đại. Chính vì không thừa nhận hoặc không chú ý đến tiến trình nay mà có quan niệm cho rằng: từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Nam Bộ không có văn học (!?).
Dòng chủ lưu của văn học Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX trước hết là sự thể hiện lòng yêu nước. Cần phân tích tính chất yêu nước qua từng thời kỳ, ở từng lĩnh vực để tìm hiểu các khuynh hướng văn học rất đa dạng. Không nên đi theo chiều ngược lại, xây dựng các tiêu chí văn học yêu nước “cách mạng” để đưa vào áp dụng cho các thời kỳ và các lĩnh vực khác nhau, để phê phán hoặc đánh giá không phải là các khuynh hướng văn học mà là đòi hỏi thể hiện tính chất hay mức độ của lòng yêu nước một cch “thô thiển”, một chiều trong văn học.
Dòng văn học yêu nước trong văn học dân gian dựa trên nền tảng thuần phác, gắn bó với đời sống và thời cuộc; từ văn học Hán Nôm là phương tiện khẳng định tính kế thừa của truyền thống yêu nước; đến văn học chữ quốc ngữ là sự thể hiện tính tiên phong tiếp nhận cái mới làm phương tiện phổ biến văn học, duy trì tinh thần yêu nước trong quảng đại quần chúng; tiếp theo là văn phong báo chí đóng vai trò cổ vũ và định hình nền văn học dân tộc hiện đại, tiêu biểu là phong trào “thơ mới” mở đầu “cuộc cách mạng về thi ca” ở Sài Gòn những năm 30 của thế kỷ.
Đặc điểm của văn học Sài Gòn thời kỳ này là xu hướng “tiên phong” đưa văn học tiếp cận gần gũi với đối tượng công chúng, có khi bị đánh giá là “văn không phải văn”, không chú trọng câu chữ cầu kỳ súc tích(!). Đó không là biểu hiện thứ văn chương dễ dãi mà có chủ đích của tầng lớp trí thức trong buổi giao thời giữa cũ và mới ở Sài Gòn, làm cho Sài Gòn đầu thế kỷ XX trở thành nơi đi đầu cổ súy phong trào “cải lương” đổi mới toàn diện đối với nền văn học của cả nước.
“Chủ nghĩa quốc gia” trong văn học Sài Gòn thời kỳ nô dịch của đế quốc Mỹ dưới chiêu bài ý thức hệ “chống cộng” nên chăng cũng có thể coi như là một trong những biến thái của lòng yêu nước, ít nhất đối với quảng đại quần chúng. Vượt qua những rào cản tâm lý, có đầy đủ bản lĩnh “gạn đục khơi trong” sẽ mở ra triển vọng khai thông hoặc có thể nhìn thấy một phần giá trị, chiều hướng không chỉ có tiêu cực của văn học Sài Gòn giai đoạn 1954-1975, m cịn bổ sung thêm tính nhân văn độc đáo trong kho tàng văn hóa dân tộc, làm nổi rõ thêm, ở mặt phản diện, dòng văn học yêu nước cách mạng.
Cuối cùng, phân tích và đánh giá thế nào tình hình văn học Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh thời kỳ sau năm 1975 vẫn đang là dấu lửng. Có thể có những khuynh hướng “lạ lẫm”, “háo hức”, rồi “bão hòa”, “bế tắc” do không ăn nhịp với đời sống văn hóa hoặc không ít hiện tượng “gió lành”, “gió độc”... Song ngay cả những biến thái của dòng văn học Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh thời kỳ này, nhất là trong giai đoạn “mở cửa”, đang rất cần sự nhìn nhận thẳng thắn, sự đánh giá nghiêm túc mới có thể dự báo hoặc định hướng đúng mức.
Nghệ thuật
Nghệ thuật Nam Bộ, trong đó có Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh, vận hành theo quy luật phát triển của văn hóa. Đó là sự kết hợp độc đáo của ba “tiến trình”:
1. Tiếp nối với truyền thống văn hóa và nghệ thuật đặc sắc của người Việt;
2. Gắn bó với quá trình khai phá vùng đất mới, phản ánh các sắc thái đặc thù của vùng đất – con người, rất gần gũi với đời sống hiện thực;
3. Tiếp xúc và hội nhập rất sớm vào dòng chảy nghệ thuật của văn minh nhân loại kể từ nửa cuối thế kỷ XIX, phát khởi trào lưu “cải lương” không chỉ trong lĩnh vực nghệ thuật.
Nghệ thuật diễn xướng dân gian có thể coi là điển hình đặc sắc của “tiến trình” nghệ thuật Nam Bộ. Từ các hình thức ca xướng của các điệu hát lý tập thể (Nam lý, Bắc thơ, Huế hò); hò vè gắn với sinh hoạt lao động; nói vè, nói thơ theo kiểu tự sự mang hơi hướm của đời sống; nói tuồng kết hợp với các điệu bộ; hát đưa linh, hát bóng rỗi thuoc đời sống tâm linh; đến các loại hình nghệ thuật biểu diễn (sân khấu), tiêu biểu là hát bội, cải lương, về sau thêm loại hình ca múa nhạc và kịch nói.
Giá trị của nghệ thuật kiến trúc ở Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh không dừng lại ở một số công trình kiến trúc theo mô thức phong kiến (thành Quy, thành Phụng…) hoặc các công trình kiến trúc theo phong cách phương Tây, mà trên hết đó là quá trình chuyển biến không gian tự nhiên thành không gian “sống” của con người bằng nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch đô thị. Từ việc xây dựng tự phát nhà sàn ven kênh rạch đến các phố thị thương mại “trên bến dưới thuyền”, các trục lộ giao thông huyết mạch… cho đến các chương trình chỉnh trang quy hoạch đô thị hiện nay là sự tiếp nối liền lạc của quá trình “đô thị hóa” kỹ thuật và nhân văn kể từ dấu chân đầu tiên của lưu dân người Việt ở Sài Gòn và Nam Bộ.
Nghệ thuật nhiếp ảnh, điện ảnh, mỹ thuật, hội họa… rất điển hình của các trào lưu nghệ thuật và phát triển văn minh nghệ thuật của phương Tây du nhập rất sớm vào Sài Gòn cũng đã đạt đến trình độ biểu hiện cc sắc thái nghệ thuật và phong cách độc đáo, sáng tạo, hấp dẫn công chúng nghệ thuật. Vấn đề không phải là nên hay không nên hoặc du nhập như thế nào, mà cần chủ động thiết lập “lộ trình” giao tiếp văn hóa, tiếp thu và chuyển hóa cái bên ngoài thành cái “của ta”, xây dựng nền nghệ thuật của dân tộc ta. Một số loại hình khác như âm nhạc, múa (khiêu vũ)… đặt ra vấn đề giữa truyền thống và hiện đại, v.v.
Cùng với văn minh kỹ thuật ngày càng phát triển và quá trình mở rộng giao tiếp văn hóa của nước ta, một số loại hình nghệ thuật truyền thống đang hoạt động ngắc ngoải (hát bội, cải lương) hoặc bế tắc không có hướng ra (hát bóng rỗi…) dường như cũng đồng nghĩa với nguy cơ “xóa sổ” bản sắc văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Bên cạnh đó, sự bộc phát tràn lan của một số loại hình nghệ thuật tân tiến (video, karaoke, khiêu vũ…) tạo nên khuynh hướng coi rẻ giá trị nghệ thuật dn tộc, coi nghệ thuật như là phương tiện giải trí hoặc thương mại hóa nghệ thuật.
Trong khi không thể cưỡng lại xu hướng lôi kéo nghệ thuật ngày càng đến gần hơn với tầm với của con người, bản thân nghệ thuật đòi hỏi cư xử một cách “có nghệ thuật”, bằng nhiều hình thức phong phú, lành mạnh, có tổ chức và định hướng, để nghệ thuật được đóng trọn vai trong đời sống văn hóa nghệ thuật Thành phố bước vào thế kỷ XXI.n