Vùng đất Nam Bộ là nơi hội tụ của nhiều dòng chảy văn hóa, lại luôn tiếp xúc với cái mới nên hầu như không một dạng thức văn hóa, một hình thức nghệ thuật, một nhu cầu thị hiếu văn hóa nào tồn tại nguyên dạng trong một thời gian nhất định, kể cả NLNB. Như các hình thức âm nhạc dân gian khác, NLNB chưa bao giờ được hệ thống, thống nhất một cách cứng nhắc về bài bản, cách trình tấu... Nhưng, những người am hiểu nhạc vẫn có ý thức, hiểu biết và gần như quy định rõ ràng về nhạc mục, cấu trúc bài bản, các ứng dụng trong những nghi thức lễ, phong cách trình tấu, dàn nhạc… trong NLNB. Với những thay đổi của thời đại, cuộc sống, con người… NLNB đã có những thay đổi khác xưa, có xu hướng biến dạng đến mức khó nhận ra, và có thể sẽ chỉ còn là một hoài niệm…
Từ lâu, trong đời sống âm nhạc người Việt ở Nam Bộ chỉ còn thấy Nhạc lễ được thực hành trong hai nghi thức là lễ tang và lễ tế. Do cơ cấu xã hội hiện đại, các nghi thức trong lễ quan (1) không còn nữa. Nhạc trong các nghi thức hôn nhân ngày nay thường được sử dụng là nhạc Tài tử (2). Vì vậy, nghe tiếng trống, tiếng kèn, người ta lập tức gọi đó là nhạc “đám ma” (!) chứ không hề biết rằng một số những bài bản ấy có xuất thân từ nhạc cúng tế trời đất trong các cuộc tế lễ của triều Nguyễn; một vài làn điệu có nguồn cội từ âm nhạc của người Việt cổ xưa đã theo chân những người đi khai phá trở thành nền tảng cho âm nhạc Nam Bộ .
Xưa kia, nhạc mục cũng như dàn nhạc sử dụng trong hai nghi lễ tang và tế có những quy định, cách thức nghiêm ngặt. NLNB được chia là hai phe: văn và võ. Phe văn còn gọi là bộ văn gồm những bài bản được diễn tấu bằng các nhạc cụ dây kéo (như đàn cò chỉ, còn dương, cò lòn, gáo). Giai đoạn sau này, những nhạc cụ trong phe văn có thay đổi, thường gồm các nhạc cụ kìm (nguyệt), bầu, tranh, guitare phím lõm, sến… Phe võ chủ yếu là những nhạc cụ gõ như đôi trống nhạc, trống cơm, trống bồng, mõ, phệch, đầu đường, tum, lố… (5 nhạc cụ sau thường gọi chung là đồ ngang). Ngoài ra, còn có một nhạc cụ không thể thiếu trong các ban nhạc lễ đó là cây kèn. Nhạc cụ này có tầm quan trọng chỉ xếp sau đôi trống nhạc (còn gọi là đôi trống lễ). Đôi trống lễ và kèn thuộc phe võ nhưng gần như xuất hiện thường xuyên trong tất cả các tiết mục âm nhạc của nghi thức lễ.
Dàn nhạc của NLNB đôi khi lên đến mười chín nhạc cụ. Nhưng nhạc sinh trong dàn nhạc chỉ khoảng 5 hoặc 6 người. Bởi mỗi người có thể sử dụng vài nhạc cụ và trong khi diễn tấu, có thể chơi hai, ba nhạc cụ cùng một lúc (ví vụ nhạc sinh đánh đồ ngang). Về nội dung, nhạc giới thường quy định gồm 2 loại: dương nhạc - nhạc dành cho lễ tế, và âm nhạc - nhạc dành cho lễ tang. Đây là cách phân chia theo trường hợp sử dụng. Điểm đáng chú ý là trong quá trình hình thành và phát triển âm nhạc ở Nam Bộ, một số bài bản trong nhạc mục của nhạc lễ cũng đồng thời thuộc nhạc mục của nhạc Tài tử, nhạc cho sân khấu Cải lương, sân khấu hát Bội… Tuy nhiên, về nhịp độ, phong cách diễn tấu, những nét luyến láy… đều có những điểm khác nhau.
Nam Bộ là nơi tập hợp nhiều nhóm di dân từ vùng ngoài vào. Nhóm dân di cư từ Miền Bắc vào khoảng từ những năm 30-45 của thế kỷ XX ở vùng Hố Nai, Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) thường có nhạc mục, cách trình tấu, phong cách… riêng. Người ta thấy, có những nhóm nhạc lễ Bắc trình tấu nhiều bài bản và biên chế dàn nhạc khác hẳn với NLNB. Trong lễ tang, nhóm nhạc Bắc không trình tấu bài trống của phe võ như lớp Xổ để vào nghi Dựng giá, mà mở đầu bằng bài Trống thượng đường, hoặc thay cho bài Nam ai của phần âm nhạc là bài Lâm khốc.v.v… Nhạc lễ Bắc cũng có những đặc điểm riêng khác, tuy nhiên, điểm nhận thấy rõ nhất là họ đã bảo tồn, giữ gìn nghiêm ngặt được nét văn hóa cũ của quê cha, đất tổ.
Hiện nay, nhìn chung số bài bản NLNB được diễn tấu chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, so với những bài bản lưu hành trong nhạc giới NLNB vào giai đoạn trước - sau năm 1975, thì đây là một điều đáng lo ngại. Trong lễ tang, những bài nhạc của phe võ chỉ còn sót lại vài tiết tấu rời rạc mở đầu cho những điệu Nam ai, Xuân nữ... còn những Lớp xổ, Lớp Bồng chập, Trống thét, Trống xây, Tấn phạn, Tư rơi… đã là những của “quý hiếm”, chỉ tồn tại trong vài nhóm nhạc lễ như Gò Vấp (TP. Hồ Chí Minh), Chợ Lách (Bến Tre), huyện Cần Đước (Long An)… Đó là chưa kể những băng cassette, những CD nhạc lễ do Sở Văn hóa Thông tin một số tỉnh phát hành(3) chủ yếu gồm các bài: Bài hạ (Ngũ đối hạ), Xuân nữ... với phong cách trình tấu thực chất rất gần với nhạc Cải lương ! Trong các băng nhạc lễ chính thức ấy, các “lớp” nhạc võ chỉ toàn là một số môtip, đoạn tiết tấu mang tính chắp vá, không rõ thể điệu, lớp lang nào, những trình tự kết hợp giữa nhạc và các nghi thức trong lễ thì hầu như còn ít người nắm vững cũng như thực hiện đúng.
Nhạc trong lễ tế ở các đình cũng muôn màu, muôn vẻ. Một số đình có quy mô lớn, Ban quý tế mạnh, có nhiều Mạnh Thường Quân hỗ trợ như Lăng Lê Văn Duyệt (Tp. Hồ Chí Minh), đình Phú Nhuận (Tp.HCM), đình Bình Thủy (Cần Thơ), đình Tân Thành (Cà Mau)... trong những dịp lễ Kỳ yên, người ta cố gắng rước những nhóm nhạc còn giữ được nhiều vốn cổ, tấu được những bài bản đúng nghi thức cũ. Nhưng phần lớn bài bản trong nhạc cúng ở các đình so với xưa đã có nhiều thay đổi. Bài bản của phe võ được trình tấu nhiều nhất trong nhạc lễ tế cũng như được gìn giữ trong các nhóm nhạc lễ là bài Nghinh thiên tiếp giá (Ba hồi chín chập). Tuy vậy, những lớp nhạc của bài này cũng như nhiều bài bản khác trong phe võ vẫn còn đôi điều phải bàn. Việc mai một những roi trống ngẫu hứng tuyệt vời của những “giạ” nhạc ở Nam Bộ là điều đương nhiên. Hiện nay, số nghệ nhân có khả năng diễn tấu được hoàn chỉnh vốn bài bản của NLNB chỉ còn đếm trên đầu ngón tay chứ chưa kể đến việc gìn giữ những roi trống, tiếng đàn tuyệt diệu của lễ nhạc.
Mặc dù nhạc lễ là thể nhạc dân gian, việc biến hóa, thêm thắt, ngẫu hứng là điều tất nhiên, nhưng những nét chính, khung sườn của bài bản cũng như hơi giọng… cần phải giữ lại. Đến nay, các điệu trống khi diễn tấu hầu như không còn theo một quy định gì, người diễn tấu thường là bớt, đơn giản hóa bài bản, thậm chí bỏ hẳn nhiều nhạc cụ khác nhau trong khi hòa đàn. Còn lại là sự pha trộn giữa những bài bản nhạc lễ với một số làn điệu dân ca như các bài Lý chuồn chuồn, Lý trăng soi, Lý qua cầu, Lý Mỹ hưng (4)… Trong Liên hoan Nhạc lễ và đờn ca Tài tử tại Bình Dương năm 2002, các nhóm nhạc đã pha trộn giữa nhạc Tài tử, nhạc Cải lương và những bài nhạc Lễ.
Dù Nam xuân, Nam ai, Ngũ đối hạ… không phải là nhạc mục dành riêng cho nhạc lễ, nhưng pha trộn những bài bản này với những làn điệu dân ca, hoặc cắt xén các bài bản được trình tấu với phong cách nhạc cho sân khấu Cải lương nhiều hơn là lễ nhạc… là điều đáng lo ngại. Đó là chưa kể, một số nhóm, đội nhạc lễ đã thay đổi bài bản đến mức khó hiểu vì lý do để bớt đi những bài bản rườm rà, cũ kỹ, không ai hiểu…(5). Đội nhạc lễ Thị trấn Hóc Môn (TP. Hồ Chí Minh) đã nêu rất rõ là: “Xin phép chính quyền địa phương, Nhà văn hóa… để “chuyển âm” các điệu nhạc lễ cũ thành các điệu mới như Lý chuồn chuồn, Lý con sáo (6)… nhạc Nghi (7) chuyển thành bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo (8), nhạc đưa (9) chuyển thành bài Lòng mẹ” (10)!!!…
Về dàn nhạc, sự thay đổi cũng rất “linh hoạt”. Ngoài việc đưa vào cây guitare phím lõm như thường thấy, còn có cả đàn guitare hawienne, đàn violon, đàn phím điện tử … Có những nhạc cụ được “cải tiến” theo kiểu gán ghép rất “sáng tạo”. Ví dụ như đàn guitare hawienne gắn thêm một bộ phận gồm mẩu gỗ, dây căng ngang … và được sử dụng như cây đàn bầu.
Ở phương diện tâm linh, phải sử dụng những băng, đĩa cho những nghi thức tế lễ trong dịp Kỳ yên, húy kỵ các anh hùng, nghĩa sĩ… ở các đình làng, người dân cảm thấy giống như phải dùng loại hoa, quả,… bằng nhựa để dâng cúng! Những người quan tâm càng cảm thấy buồn và khó chịu khi nhạc lễ bỗng trở nên tầm thường bởi những ca khúc đầy tính đương đại! Tính thiêng trong nghi thức lễ bái dân tộc cổ truyền bị suy giảm bởi phương tiện hiện đại và bởi thị hiếu. Ý nghĩa văn hóa - xã hội, nền tảng của sự sản sinh và phát triển thể nhạc trong nghi lễ, bị biến thái, méo mó, trở thành loại nhạc “góp vui” cho những người tham gia.
Trong Liên hoan âm nhạc Châu Á tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh năm 1981, Đội nhạc lễ Gò Vấp đã giới thiệu NLNB là một vốn âm nhạc dân tộc cổ truyền trước bè bạn quốc tế. Họ đại diện cho các “giạ” NLNB trình tấu, được ngưỡng mộ và nhận huy chương bạc của liên hoan. Những nghệ nhân ngày ấy bây giờ đã rất già, họ sắp mang một vốn quý âm nhạc dân tộc ra đi mà không có người thừa kế.
Tháng 2-2004, VTV3 đã dự kiến tổ chức Liên hoan Nhạc lễ Nam Bộ với đóng góp của những nghệ nhân đầu ngành, những người nghiên cứu, những người tâm huyết với nhạc lễ… Một tập thể cố vấn cho Liên hoan được ra đời và đã ra một văn bản mang nội dung cơ bản của thể nhạc, để mời các nhóm nhạc lễ khắp các tỉnh Nam Bộ tham dự liên hoan. Nhưng, toàn miền Nam chỉ có 3 nhóm nhạc lễ đăng ký tham dự và Liên hoan không thể tổ chức được.
Có thể nói, NLNB đã tồn tại trong lòng người dân Nam Bộ từ những ngày mở đất, với sự tiếp thu âm nhạc cung đình triều Nguyễn, những yếu tố dân gian được bổ sung thêm yếu tố chuyên nghiệp và hoàn chỉnh như một thể nhạc đặc biệt dành cho lễ bái. Trong quá trình phát triển, NLNB có một nhạc mục, phong cách riêng, dàn nhạc với biên chế rõ ràng và nhất là đã tập hợp được một đội ngũ nghệ nhân, nghệ sĩ, nhạc sinh giỏi nghề có tính chuyên nghiệp. Đến nay, thì nhạc mục nghèo nàn, thậm chí bị pha trộn từ bài bản đến phong cách trình tấu nhiều khi không còn nhận ra diện mạo của NLNB.
Có nhiều lý do làm cho thể nhạc này có nguy cơ mai một, nhưng phải nhắc đến trước nhất là trách nhiệm của người làm công tác quản lý văn hóa, sau nữa là sự dễ dãi của một số người làm nghề nhạc, do thiếu đào tạo hoặc được đào tạo không chu đáo..., và cuối cùng là lý do khách quan: sự biến đổi trong kinh tế thị trường!
Nhiều nhà quản lý đã nhận thức nhạc lễ như một thể nhạc của chế độ cũ, là tàn tích của chế độ phong kiến chứ không hiểu đây là vốn di sản văn hóa quý. Mặt khác, một số nhà quản lý văn hóa địa phương cho là nhạc thời nào phải theo thời ấy, nên nhạc lễ trong thời đại cách mạng tất yếu phải là những bài hát cách mạng, từ đó họ khuyến khích sử dụng nhạc mới, nhạc Cách mạng… trong tất cả những nghi thức, từ cúng đình - lễ tế đến nhạc đám ma - lễ tang! Một cách suy nghĩ khác của nhiều người làm văn hóa theo xu hướng thích đổi mới, phát triển cho là cần loại bỏ nghệ thuật âm nhạc cũ, làm mới nó bằng những bài bản mới, phong cách mới… chứ không nhận thức được vốn cổ là cái đã được định hình trong quá trình lịch sử văn hóa dân tộc, cái đã đi vào tiềm thức của dân tộc. Người xưa trong quá trình sáng tạo nghệ thuật đã vận dụng tính kế thừa, sáng tạo, thêm thắt trên nền tảng cơ bản và tâm thức dân tộc chứ không loại bỏ hay thay đổi. Dù được xem như một thể loại âm nhạc, NLNB chỉ nên bảo tồn, bởi đây còn là một kho báu về nghệ thuật hòa tấu cổ truyền cũng như nghệ thuật trình tấu ngẫu hứng. Nếu cần phát triển nó, chỉ nên là những sáng tạo bổ sung, trên nền tảng của vốn cổ đã được định hình. Đừng vì lý do “phát triển” mà làm đơn giản hóa, thui chột hoặc biến thái, thay đổi một tinh hoa của nghệ thuật âm nhạc cổ truyền.
Về những người trực tiếp làm nghề, do cuộc sống, nhạc lễ ngày nay không còn là nghề nghiệp có thể nuôi sống họ, nên việc lơ là, không chuyên tâm với nghề là lẽ đương nhiên. Đó là chưa kể, nếu có sống được bằng nghề thì sự tâm huyết với nghề cũng không còn bởi thị hiếu xã hội thay đổi. Và muốn tồn tại tất yếu họ cũng phải thay đổi. Đến nay, chỉ còn những gia đình có truyền thống mới là những lò đào tạo nghề nhạc lễ. Những nhạc sinh thường là những con, em của họ, nhưng họ cũng phải làm thêm những nghề khác để kiếm sống.
Đứng trước thực trạng như trên, một câu hỏi được đặt ra là NLNB tồn tại hay không tồn tại? Và chúng ta đã làm gì cho những vốn quý âm nhạc dân tộc cổ truyền, cho NLNB?
Về tâm linh, Nhạc lễ được trình tấu không phải chỉ với mục đích làm nền cho nghi thức lễ bái, hoặc để người tham dự lễ thưởng thức. Đó là thể nhạc dâng cúng. Trong không gian tín ngưỡng và tâm linh ấy, người Việt xem những tiếng trống, kèn, phách… như biểu hiện của lòng thành, một thứ cầu nối bằng âm thanh mang tính biểu tượng để chuyển dẫn ngôn ngữ của người sống đến tổ tiên, chư vị anh hùng, liệt sĩ, người đã khuất… Cần phải nhận thức được rằng NLNB không chỉ đơn thuần là yếu tố nghệ thuật mà còn chứa đựng những biểu tượng của văn hóa, của truyền thống Việt Nam. Người Việt có câu “sống dầu đèn, chết kèn trống”, ở Nam Bộ, cha mẹ qua đời mà con không mời được một “giạ” nhạc thì không tỏ được lẽ hiếu vậy. Giữ gìn những giá trị văn hóa này sẽ là cái gốc cho giáo dục, là phương pháp, phương tiện giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc. NLNB còn là thể nhạc lưu giữ nhiều tinh hoa của nghệ thuật âm nhạc truyền thống, vì thế bảo tồn nó sẽ là cơ sở để nghiên cứu những đặc trưng trong nghệ thuật hòa tấu cũng như lối trình tấu ngẫu hứng trong âm nhạc của ông cha ta ngày xưa.
Về cảm thụ của người dân, chúng tôi cho rằng trước khi yêu, thích, người dân cần được giới thiệu để biết, hiểu. Nếu không, e rằng chỉ trong mươi năm nữa, NLNB không còn được bao nhiêu người nghe. Người dân cần được tạo một môi trường để cho thị hiếu lành mạnh phát triển và kể cả giáo dục một bản lĩnh văn hóa dân tộc trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay. Trách nhiệm này thuộc về những nhà quản lý văn hóa.
Về tổ chức hoạt động, các “giạ” nhạc lễ hay những nhóm, đội nhạc lễ cần một tổ chức bảo trợ về hoạt động cũng như chuyên môn. Hình thức Câu lạc bộ, đội nhóm, hội ngành nghề… dưới sự quản lý, hướng dẫn, tài trợ… của các sở Văn hóa thông tin đã trở nên cần thiết cho NLNB ngày nay.
Về đào tạo, do không được ghi chép, thống nhất trong nhạc giới hoặc hệ thống hóa, hơn nữa, NLNB đang trên đà mai một bởi số người theo học không còn được bao nhiêu, các nghệ nhân đầu ngành đã ở tuổi xưa nay hiếm... nên phải nhanh chóng có những biện pháp thu thập tư liệu âm thanh cũng như bài viết. Mặt khác, cần có chính sách đãi ngộ đối với người theo học hoặc làm nghề này. Nếu không có điều kiện tổ chức bảo tồn, trình tấu hoặc dạy trong các cơ sở chính thức về nghệ thuật âm nhạc của nhà nước thì nên chăng, tổ chức, mở lớp tập huấn hay các liên hoan như đã từng thực hiện trong những năm 90 của thế kỷ XX cho ngành Nhạc lễ.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (Số 12/2004)
CHÚ THÍCH:
1. Quan không phải là lễ đội mũ đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên mà là lễ tiếp rước quan. Về sau, lễ này còn có nghĩa là “hoan hỉ” bởi người miền Nam khi phát âm không phân biệt phụ âm đầu “qu” và “h”.
2. Qua khảo sát một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và phỏng vấn các nghệ nhân có tuổi đời trên 70.
3. Băng casseette, CD của các Sở VHTT Tiền Giang, Long An…
4. Ba bài sau này là sáng tác của nhạc sĩ Cao Văn Lý (tức Phạm Lý), được quần chúng đón nhận nhiệt tình nên thường được xem như những làn điệu dân ca .
5. Cassette do Viện âm Nhạc thu năm 1978.
6. Dân ca Nam Bộ
7. Nhạc trong nghi thức cúng vong, cúng cơm hoặc có người đến viếng, làm lễ bái lạy…
8. Ca khúc của nhạc sĩ Xuân Hồng
9. Nhạc trong nghi thức cúng để động quan và di quan.
10. Ca khúc của nhạc sĩ Y Vân