logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
Saturday, 29 September 2012 10:50

Ngô Văn Doanh. Thờ Thiên Y A Na – Nét đặc trưng văn hóa truyền thống của vùng duyên hải Khánh Hòa

Người post bài:  Nguyễn Thị Thúy Vy

THỜ THIÊN Y A NA – NÉT ĐẶC TRƯNG
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA VÙNG DUYÊN HẢI KHÁNH HÒA

Ngô Văn Doanh

 

Trong nhiều năm qua, chúng tôi có những nghiên cứu khá sâu và toàn diện về tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na. Những kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã được các nhà khoa học chấp nhận là: một trong những đặc trưng văn hóa tiêu biểu nhất và đặc thù nhất của cả dải đất duyên hải và các đảo thuộc Nam Trung Bộ là tín ngưỡng thờ nữ thần Thiên Y A Na. Trên suốt dải đất ven biển miền Trung, từ tỉnh Thừa Thiên Huế ở phía bắc đến tỉnh Bình Thuận ở phía nam và trên một số đảo lớn ở Nam Trung Bộ, như Cù Lao Chàm (Quảng Nam) và Lý Sơn (Quảng Ngãi), chúng tôi nhận thấy rất nhiều địa điểm thờ Thiên Y A Na. Cũng theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, trong đó có chúng tôi, vùng đất Khánh Hoà chính là nơi phát tích và là trung tâm của tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na của cả vùng duyên hải và hải đảo Nam Trung Bộ.

Hơn thế nữa, như các di tích, di vật và tài liệu lịch sử đã cho biết, nữ thần Thiên Y A Na cũng như tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na của người Việt bắt nguồn từ việc thờ phụng nữ thần Pô Inư Nagar (Nữ thần Mẹ xứ sở) của người Chămpa (xứ Kauthara của vương quốc Chămpa).

Còn trong bài tham luận này, chúng tôi chỉ muốn đi sâu phân tích vai trò phát tích và trung tâm của vùng đất Khánh Hòa đối với tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na của cả vùng duyên hải và hải đảo Nam Trung Bộ. Và qua những nghiên cứu cụ thể trên, chúng tôi muốn có những gợi ý cho việc phát huy các di sản (cả vật thể và phi vật thể) của tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na cho việc phát triển du lịch bền vững của tỉnh Khánh Hòa.

Cứ liệu thành văn xưa nhất cho biết: trên mặt một tấm bia đá ở tại ngôi đền Pô Nagar nổi tiếng ở Nha Trang là những dòng bia ký do vua Satyavarman khắc năm 706 Saka (tức năm 784) [Majumdar R. 1985: 41-44]. Cũng theo tấm bia ký trên, vào năm 696 Saka (774), ngôi đền bị phá và những đồ vật cùng linh vật mukhalinga bị cướp biển đem đi. Và vua Satyavarman đã truy đuổi bọn cướp biển. Sau khi trở về, vua Satyavarman cho xây ngôi đền khác và cho làm một mukhalinga mới có tên là Sri-Satya-Mukhalinga (đặt tên linga theo tên vua) cùng hình nữ thần Bhagavati.

Qua những dòng bia ký của Satyavarman, như các nhà nghiên cứu đã phân tích, có thể nhận thấy, ở địa điểm Tháp Bà Pô Nagar ngày nay, trước thế kỷ VIII, đã có một đền thờ thần siva bằng gỗ [H. Parmentier 1909] mà đối tượng thờ chính là linh vật mukhalinga do vị vua huyền thoại Vicitrasagara dựng lên từ cả hàng ngàn năm trước. Như vậy, kiến trúc bằng gỗ ban đầu (trước thế kỷ VIII) ở Pô Nagar là đền thờ Siva. Cũng theo các nhà nghiên cứu, ngôi đền thứ hai do vua Satyavarman dựng lên cũng bằng gỗ. Thế nhưng, từ thời điểm này (năm 784), việc thờ mukhalinga ở Tháp Bà Pô Nagar bắt đầu được gắn liền với việc thờ Bhagavati, tính nữ hay vợ của thần Siva, một trong ba vị thần tối thượng của Hindu giáo.

Vào khoảng năm 784 và 787, Satyavarman mất và con trai của ông là Indravarman lên làm vua Chămpa. Năm 801, Indravarman mất và người em rể là Harivarman nối ngôi. Các nguồn tài liệu khác nhau cho biết, dưới thời vị vua mới này, vương quốc Chămpa đã mạnh lên.

Các bia ký cũng cho biết, vào năm 817, đức vua Harivarman đã phục hồi thánh đường ở Pô Nagar, một khu đền “đã từ lâu trống rỗng” và làm bức tượng Bhagavati mới “bằng đá và phủ lên tượng nhiều đồ trang sức đủ màu sắc…”. « Sau khi đã làm pho tượng nữ thần Bhagavati bằng đá mới và cung tiến nhiều thứ khác nhau, đức vua còn dâng cho nữ thần Mahabhagavati (Đại thần nữ Bhagavati) vàng, bạc, châu báu, y phục các màu khác nhau và nhiều vật dụng khác. Sau đấy, ngài còn hiến cho nữ thần những cánh đồng ở Kauthara cùng trâu bò và các nô lệ nam nữ.” [Majumdar R. 1985: 61-64].

Như vậy, bài minh khắc năm 817 ở Pô Nagar cho biết thêm về số phận của ngôi đền cùng pho tượng do vua Satyavarman dựng lên ở Pô Nagar năm 784. Đến năm 817, tức sau hơn 30 năm, pho tượng đã bị mất và ngôi đền đã bị trống rỗng. Tại khu đền Pô Nagar, lần thứ ba, tượng nữ thần Bhagavati được làm để thờ. Điều quan trọng là, đến thời điểm này (đầu thế kỷ IX), nữ thần Bhagavati được tôn làm đại thần nữ Bhagavati (Mahabhagavati) và trở thành đối tượng thờ phụng chính ở khu đền quan trọng nhất phía nam Chămpa này. Bia ký ở Pô Nagar đã mô tả hình ảnh vị đại thần nữ của miền nam Chămpa: “Nữ thần của Kauthara, người có tấm thân đẹp lộng lẫy và ngời sáng lên nhờ tấm choàng tuyệt vời bằng vàng và có khuôn mặt rực rỡ lộng lẫy và xinh đẹp như đóa hoa sen, luôn ban thưởng hào phóng cho tất cả ước nguyện của những ai cúi đầu cầu khẩn người. Vị nữ thần tôn kính, người có mái tóc vàng rực sáng nhờ những viên châu ngọc ở trên đầu ngự ở ngay sát biển Kauthara, người mà đôi tai dài được trang điểm bằng những viên ngọc ngời sáng không tỳ vết, luôn tỏa sáng ở cả ba thế giới…”[Majumdar R. 1985: 67-71].

Đến đây, bắt đầu xuất hiện như một linh tượng và được thờ song hành (chỉ là biểu hiện phụ) cùng vị thần chủ của Siva giáo (dòng Bà La Môn giáo chủ đạo của vương quốc cổ Chămpa) là thần Siva. Vào năm 784, nữ thần Bhagavati đã nhanh chóng trở thành đại thần nữ và trở thành đối tượng thờ phụng chính của ngôi đền Pô Nagar tại xứ biển Kauthara.

Thế nhưng, rất tiếc, sau khi Vikrantavarman mất, do không có con, các vị đại thần trong triều đã chọn Indravarman II lên kế vị. Với sự lên ngôi của Indravarman II, lịch sử Chămpa chuyển sang một thời kỳ mới- thời kỳ vương triều Indrapura phía bắc. Đến đây, vương triều Hoàn Vương kéo dài cả một thời kỳ đúng 100 năm đã chấm dứt.

Giai đoạn lịch sử 100 năm của vương triều Hoàn Vương là cả một thời kỳ lịch sử khá đặc biệt của vương quốc Chămpa. Suốt cả 100 năm ấy, các vua có nguồn gốc phía nam Chămpa (vùng Kauthara và Panduranga, nay là vùng đất Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận) đã trị vì vương quốc Chămpa. Khu đền thờ Pô Nagar nhanh chóng trở thành một trung tâm tôn giáo không chỉ của vùng phía nam Chămpa mà còn của cả vương quốc Chămpa. Cũng chính từ trung tâm tôn giáo phía nam này của Chămpa, trên cơ sở thờ phụng nữ thần Bhagavati của Ấn Độ, tín ngưỡng thờ nữ thần Mẹ của người dân Chămpa cổ đã bắt đầu ra đời tín ngưỡng thờ nữ thần Mẹ của người dân Chămpa cổ.

Thế nhưng, vì sự thay đổi vương triều, từ sau năm 854 trở đi, Pô Nagar hầu như bị các vua chúa Chămpa “quên”. Chỉ đến năm 918, nghĩa là sau 64 năm “bị bỏ”, ngôi đền Pô Nagar mới được sống lại. Ngôi đền Pô Nagar sống lại và nổi danh lần này với pho tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.

Việc dựng tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng và khắc bia ở Pô Nagar đã chứng tỏ sự quan tâm và sự mở rộng quyền lực của các vua chúa vương triều Indrapura phía bắc tới các tỉnh phía nam Chămpa (Kauthara và Panduranga). Đây là lần đầu tiên một vị vua Chămpa phía bắc dựng tượng và khắc bia ở khu đền thờ chính của các vua Hoàn Vương phía nam. Với việc dựng tượng vàng và khắc bia này, ngoài việc “để có được danh thơm trên khắp thế giới”, các vua phía bắc còn đã hòa vị nữ thần Bhagavati của miền nam Chămpa vào hệ thống thần điện chung, thống nhất của Chămpa.

Như vậy, kể từ khi “sống lại” vào năm 918, nữ thần Bhagavati, nữ thần của xứ Kauthara, đã không chỉ còn là của miền nam nữa mà đã trở thành nữ thần, dù không ở vị trí tối cao, của cả vương quốc Chămpa. Cuộc viễn chinh ra phía bắc của Bà chúa xứ Kauthara bắt đầu từ đây. Thế nhưng, thật không may, pho tượng vàng nữ thần Bhagavati chỉ ngự ở ngôi đền Pô Nagar một thời gian rất ngắn. Các tài liệu bia ký cho biết, pho tượng vàng đã bị cướp và ngôi đền đã bị tiêu huỷ vào năm 950. Bài minh khắc trên mặt D tấm bia đá Pô Nagar năm 887 Saka (năm 965 dương lịch) của vua Jaya Indravarman I cho biết, pho tượng vàng Bhagavati đã bị người Kambuja cướp đi. Tất cả những sự việc trên diễn ra vào cuối thời trị vì của vua Indravarman III, người đã dựng lên pho tượng vàng nữ thần Bhagavati ở Pô Nagar. Thế nhưng, dù cuộc chiến tranh có khốc liệt và gây ra nhiều tàn phá, cuối cùng thì đạo quân xâm lược Kambuja của Rajendravarman II cũng bị Chămpa đánh bại.

Sau khi Indravarman III mất, vào năm 959, Jaya Indravarman I lên ngôi vua và đến năm 965, vị tân quân này đã phục hồi lại đền thờ Pô Nagar. Không chỉ phục hồi ngôi đền, vua Jaya Indravarman I còn cho dựng pho tượng nữ thần ở đây, nhưng lần này là pho tượng đá [Majumdar R. 1985: 144]. Cho đến nay, pho tượng đá do vua Sri Jaya Indravarman dựng năm 965 vẫn là tượng thờ chính của khu đền tháp Pô Nagar và là một trong những tác phẩm điêu khắc đá đẹp và độc đáo của nền nghệ thuật cổ Chămpa.

Sau sự việc vua Sri Jaya Indravarman cho dựng vào năm 965 ở Kauthara, pho tượng nữ thần bằng đá thay cho bức tượng vàng mà người Kambuja lấy đi mất, hầu như không có một tài liệu nào nhắc tới ngôi đền thờ nữ thần Bhagavati nổi tiếng của miền nam Chămpa. Rất tiếc là, những tài liệu thành văn muộn nhất của Chămpa kể về việc thờ phụng các thần ở khu đền Pô Nagar (Tháp Bà, Nha Trang) mà cho đến nay còn được biết lại chỉ là một số bia ký ngắn ngủi có niên đại nửa sau thế kỷ XIII. Tài liệu có niên đại muộn nhất là bài minh văn của Indravarman IV (1265- 1285; từ năm 1265 đến 1277). Trên mặt thứ nhất, bài minh nói tới vua Indravarman và ghi chép những đất đai và rừng cây mà nhà vua dâng cúng cho linga Bhagavati Kautharesvari; còn ở mặt kia, bài minh nói về việc dựng thần Sivalinga [Ngô Văn Doanh 2004: 52- 55].

Cũng tại khu đền Pô Nagar, còn có một vài bia ký cùng thời với các bia ký của Indravarman IV. Chẳng hạn như, hai bia ký của công chúa Ratnavali (tức Suryadevi, con gái vua Indravarman IV) khắc năm 1189 Saka (năm 1267/68) và khắc năm 1197 Saka (năm 1275). Trong đó, một bia ký còn cho biết, vào năm 1178 Saka (năm 1266), công chúa Ratnavali đã dâng các đồ trang điểm khác nhau bằng vàng và bạc cho nữ thần Pu-Nagara (yan pu nagara) và đặt ra những quy định cho các vũ nữ hầu hạ nữ thần. Bài minh văn thứ hai (viết bằng chữ Chăm cổ, khắc trên mặt C của cột trụ cửa bên trái ngôi đền chính) nói rằng, vào năm 1197 Saka, công chúa Ratnavali đã dâng cúng cho nữ thần Pu-Nagara và nữ thần Bhagavati Matrlingesvari nhiều đất đai ở các nơi khác nhau, các nô lệ và nhiều đồ vật [Majumdar R. 1985: 155].

Như vậy là, như các bia ký cho biết, cho đến cuối thế kỷ XIII, thời điểm cuối cùng được biết về ngôi đền Pô Nagar qua các tài liệu thành văn, thần Siva vẫn là thần chủ của khu đền Pô Nagar. Còn thần nữ Pu Nagara, dù đã được coi là nữ thần của vương quốc (yan pu nagara devi), như đã được ghi trong bia ký khắc năm 1160/61 ở Pô Nagar của vua Jaya Harivarman I, vẫn chỉ là một trong những tính nữ (shakti) hay nữ thần - vợ (devi) của thần Siva.

Như các nhà nghiên cứu đã chứng minh, cùng với sự hình thành và phát triển của Hindu giáo, tín ngưỡng thờ Nữ Thần Mẹ nguyên thuỷ của các cư dân bản địa Ấn Độ đã được nâng cao lên thành một khái niệm triết học, một biểu tượng tôn giáo mang tính khái quát cao: Shakti. Với chức năng là Shakti, các Nữ Thần Mẹ nguyên thủy thoạt đầu đã trở thành vợ của các vị thần Hindu giáo. Rồi sau đó, từ những chức năng của Nữ Thần Mẹ và vợ của các thần, Hindu giáo đã sáng tạo ra cả một ý niệm triết học về tính nữ của thần linh tối cao hay sức mạnh sinh tồn tối thượng của vũ trụ dưới tên gọi là Shakti.

Hindu giáo đã đem tất cả ý niệm triết học và tôn giáo về Shakti và Devi của mình đến với vương quốc Chămpa và các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á. Riêng ở Chămpa, việc thờ phụng Shakti hay Devi lại được tập trung mạnh nhất và lâu dài nhất tại khu đền thờ mà ngày nay có tên là tháp Bà hay tháp Pô Nagar ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Cũng chính tại khu đền tháp cổ kính này, Shakti hay Devi của Hindu giáo đã được người Chămpa tôn lên thành Nữ thần Bảo hộ của vương quốc. Vậy cái tên Yan Pu Nagara xuất hiện bao giờ và như thế nào trong lịch sử của khu đền Pô Nagar?

Theo những tài liệu hiện có, được khắc năm 1084/1085 (năm 1006 Saka) của vua Paramabodhisatva (1081- 1086), cái tên Yan Pu Nagara xuất hiện lần đầu trong bia ký bằng chữ Chăm cổ ở ngôi đền chính Pô Nagar (trụ cửa nam của cửa ra vào) [Golzio Karl-Heinz 2004: 144-145].

Ngay tại bia ký này, Yan Pu Nagara lần đầu tiên được tôn vinh là Nữ thần Hộ mệnh của Vương quốc, là nữ thần lớn. Chỉ bắt đầu từ thời điểm được tôn lên làm Nữ thần của vương quốc, cái tên mang tính chất “ngữ nghĩa” Yan Pu Nagara mới ngày càng xuất hiện nhiều và dần dần được xác định và trở thành vị thần chính của khu đền Pô Nagar. Trong bia ký có niên đại thế kỷ XII (thời trị vì của Jaya Indravarman II từ 1086- 1113), được khắc bằng chữ Sanskrit và chữ Chăm cổ trên cột cửa trái của ngôi tháp chính, cái tên Yan Pu Nagara không chỉ được nhắc tới, mà còn được chỉ dẫn khá chi tiết về nguồn gốc [Majumdar R. 1985: 173-175; Golzio Karl-Heinz 2004: 150-152].

Ngay ở hai dòng đầu tiên của bia ký, Yan Pu Nagara đã được diễn giải là ai rồi: “1. Tôi cúi đầu thành kính trước vị thần được Brahma và các thần linh khác ca tụng và người vợ thần thánh của Ngài, người mẹ của ba thế giới, người được nổi danh với cái tên Yapu- Nagara…2. Hãy ban phước lành cho tôi, hỡi Đức Ông, người thâm nhập vào tất cả mọi vật…và, hỡi Đức Bà, người vợ thần thánh của Ngài, người nổi danh dưới cái tên Yapu -Nagara…”. Không còn nghi ngờ gì, ở bia ký này, vị thần được Brahma và các thần khác ca tụng và vị thần thâm nhập vào tất cả mọi vật, chính là Siva, còn Yapu-Nagara chính là vợ của Ngài.

Như vậy là, như các dòng bia ký đã chỉ rõ, chính vị nữ thần chính của dòng Siva giáo là Bhagavati vốn được thờ phụng ở khu đền Pô Nagar ngay từ những ngày đầu bên cạnh vị thần tối cao - người chồng của mình là thần Siva. Đến cuối thế kỷ XI - đầu thế kỷ XII, từ nữ thần của xứ Kauthara, bà trở thành nữ thần chủ của cả vương quốc Chămpa và được nổi danh dưới một tên gọi mang tính ngữ nghĩa Yan Pu Nagara (“nữ thần của vương quốc”).

Đến bia ký được khắc năm 1160/1161 của vua Jaya Harivarman I (1145- sau 1170) thì nữ thần Yan Pu Nagara đã trở thành đối tượng chính duy nhất được cầu và dâng cúng [Majumdar R. 1985: 194-195; Golzio Karl-Heinz 2004: 162-163]. Đoạn đầu của bia ký viết: “Sau khi đã tận hưởng niềm vui vì quyền lực của mình trải lên cả mặt đất cũng như ra xa ngoài biển khơi, và muốn hướng tới có được niềm vui quyền lực đối với các thần trên trời, người mà đức vua tôn kính và dâng cúng rất nhiều của cải là nữ thần có tên Ya Pu Nagara.” Thế là, đến nửa sau thế kỷ XII, nữ thần Yan Pu Nagara không chỉ trở thành nữ thần chính của khu đền Pô Nagar, mà cái tên mang tính “ngữ nghĩa” Nữ thần của vương quốc (Yan Pu Nagara devi) gần như đã được thay hẳn cho cái tên có nguồn gốc Ấn Độ.

Như vậy là, những tài liệu bia ký của khu đền Pô Nagar đã cho thấy cả một chặng đường hình thành và phát triển của một hình tượng nữ thần rất đặc trưng và tiêu biểu của nền văn hoá cổ Chămpa: Nữ thần Vương quốc Yan Pu Nagara. Có thể thấy rất rõ một điều là, hình tượng Nữ thần Mẹ Bhagavati của văn hóa Ấn Độ chính là nguồn gốc của nữ thần Chămpa Yan Pu Nagara. Cùng với sự thay đổi chức năng từ một nữ thần mẹ của Bàlamôn giáo và chỉ có phạm vi bảo hộ trong một xứ đến nữ thần chủ hộ mệnh cho cả vương quốc (nagara) Chămpa, vị thần Ấn Độ đã được có thêm một tên gọi mang tính “ngữ nghĩa” là Yan Pu Nagara (nữ thần của vương quốc). Dần dần, theo thời gian, cái tên ngữ nghĩa Yan Pu Nagara đã trở thành tên gọi chính của nữ thần được thờ chính ở khu đền Pô Nagar. Cũng theo thời gian, cái tên Yan Pu Nagara đã dần lấn át và thay thế hẳn cái tên gốc Bàlamôn giáo của vị nữ thần ban đầu.

Như các tài liệu lịch sử cho biết, từ năm 1675, vùng đất từ sông Phan Rang trở về phía đông đến địa giới Phú Yên, nơi có ngôi đền Pô Nagar nổi tiếng của Chămpa, đã được chúa Nguyễn Phúc Tần sáp nhập vào lãnh thổ của Đại Việt. Thế nhưng, chỉ từ sau năm 1771, người Chăm mới hoàn toàn di chuyển trung tâm thờ Pô Inư Nưgar (Nữ thần mẹ xứ sở) của mình từ Pô Nagar về vùng quê Hữu Đức (huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) ngày nay [Majumdar R. 1985: 41-44].

Chắc hẳn, chỉ từ thời điểm gần cuối thế kỷ XVIII này, người Việt mới thật sự làm chủ và biến khu đền tháp Pô Nagar của người Chăm thành nơi thờ phụng linh thiêng của mình.

Do sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, nên người Việt đã dần dần Việt hóa những yếu tố tôn giáo của người Chăm liên quan đến ngôi đền cũng như việc thờ phụng ở đây. Thoạt đầu là sự Việt hóa cái tên của ngôi đền: chuyển từ cái tên Chăm Yan Pô Inư Nagar thành cái tên Thiên Y Ana nửa Việt nửa Chăm (“Thiên”, tức thần trời, là dịch nghĩa của Yan Pô; còn Y A Na là phiên âm của Inư Nưgar). Sau đấy là Việt hóa các linh vật được thờ trong các ngôi tháp trong khu đền Pô Nagar: tòa tháp chính là nơi thờ Bà Thiên Y A Na; tháp nam- nơi thờ thái tử Bắc Hải, chồng Bà Thiên Y A Na; tháp đông nam- thờ ông bà Tiều, cha mẹ nuôi Bà Thiên Y A Na; tháp tây bắc là nơi thờ công chúa Quý và hoàng tử Trí, hai người con của Bà Thiên Y A Na.

Mãi đến năm 1856, quan thượng thư Phan Thanh Giản mới ghi lại câu chuyện huyền thoại về bà Thiên Y Ana của dân chúng vùng Khánh Hòa và truyền cho quan đầu tỉnh khắc vào bia đá dựng trước tháp chính. Về sau, từ câu chuyện của Phan Thanh Giản, người Việt còn cải biên thành những bài văn cúng, văn chầu và những bài kinh bằng văn vần khác nhau để lưu truyền rộng rãi khắp Nam Trung Bộ. Từ trung tâm Pô Nagar (Tháp Bà Thiên Y A Na tại Nha Trang), việc thờ phụng Nữ thần mẹ xứ sở (Pô Inư Nưgar) và Thánh mẫu Thiên Y A Na cũng dần lan tỏa rộng khắp ở người Chăm và người Việt ở dọc dải đất duyên hải và các đảo Nam Trung Bộ, suốt từ Huế tới tận Phan Thiết. Lễ hội tháp Bà hay lễ vía Bà vào tháng ba âm lịch hàng năm tại Tháp Bà Nha Trang, từ xưa tới giờ, luôn là lễ hội thờ Mẫu lớn nhất và cũng đặc sắc nhất của tỉnh Khánh Hoà và của cả vùng duyên hải Nam Trung Bộ.

Đúng là, nếu chỉ thuần tuý nhìn vào những thành tố văn hóa và lịch sử cấu thành thì rất dễ nhận thấy sự kết hợp những yếu tố Chăm- Việt trong lễ hội Vía Bà. Nơi diễn ra lễ hội và đối tượng thần linh được cầu cúng vốn là của người Chăm còn những người tổ chức lễ hội và những người đến với lễ hội lại là người Việt. Thế nhưng, có đến dự lễ hội này và nghiên cứu sâu về lễ hội này, ta mới thấy Vía Bà ở Tháp Bà, về cơ bản, rõ ràng là lễ thức truyền thống của người Việt. Nó hoàn toàn khác các lễ cúng Nữ thần Mẹ xứ sở Po Inư Nưgar của người Chăm hiện nay.

Dù có đưa gần như toàn bộ mô hình và cách thức tổ chức lễ hội của mình vào, người Việt không thể không tiếp thu những di sản lễ hội, đặc biệt là hình thức tiến hành các lễ thức, mà người Chăm đã để lại cho Tháp Bà. Một trong những di sản dễ nhận thấy nhất trong lễ hội Vía Bà ở Tháp Bà là múa bóng. Có thể rất dễ nhận thấy một điều là, múa bóng hoàn toàn khác các điệu múa (kể cả các điệu múa tín ngưỡng) trong các lễ hội nông nghiệp truyền thống của người Việt, dù rằng những vũ nữ là những cô gái Việt. Sở dĩ có sắc thái độc đáo đó là vì múa bóng vốn là của người Chăm truyền lại cho người Việt ở các thôn làng quanh Tháp Bà. Đã từ lâu, mọi việc từ tổ chức cho đến việc trình diễn múa bóng đều do những người trong xóm phía trước Tháp Bà phụ trách. Những vũ nữ phần lớn là người trong xóm, rồi thì trường dạy múa cũng ở trong xóm. Bởi vậy, xóm có tên là xóm Bóng (thuộc làng Cù Lao). Nhưng từ trước chiến tranh thế giới thứ hai, vào thời Bảo Đại, lệ múa bóng đã bị bỏ. Vì thế mà, trong dân gian mới có câu ca:

Ai về Xóm Bóng thăm nhà,

Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn chăng?

Cùng với những ngôi tháp gạch cổ kính và huyền ảo được xây dựng từ thời vương quốc cổ Chămpa, lễ hội Vía Bà đã góp phần làm cho khu di tích lịch sử văn hoá Tháp Bà Thiên Y A Na, nổi tiếng của tỉnh Khánh Hòa nói riêng và của cả khu vực Nam Trung Bộ nói chung, thêm những sắc thái văn hóa phi vật thể có một không hai. Chính tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na đã tạo cho Khánh Hòa một trong những nét hấp dẫn nhất để phát triển du lịch. Đã từ lâu, Tháp Bà Thiên Y A Na ở Nha Trang luôn trở thành điểm đến hấp dẫn không chỉ đối với người dân Khánh Hòa, mà còn đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Theo số liệu của Ban Quản lý di tích tỉnh Khánh Hoà, trong những năm gần đây, số lượt khách đến Tháp Bà ở Nha Trang mỗi năm một tăng lên đáng kể. Nếu trong năm 1998, chỉ có 126.718 lượt người đến Tháp Bà, thì đến năm 2005, số lượt người đến đây tăng lên 285.444. Còn đến năm 2010, số lượt người đến Tháp Bà đã lên tới 594.148 lượt.

Như vậy, chỉ qua một vài con số thống kê vừa kể trên, đã có thể thấy, Tháp Bà Nha Trang, nơi phát tích và là trung tâm thờ Thiên Y A Na của tỉnh Khánh Hoà đã trở thành một điểm du lịch không chỉ hấp dẫn, mà còn ngày càng thu hút thêm nhiều khách đến. Chắc chắn là, không chỉ hiện nay, mà cả trong tương lai, các di sản văn hóa của tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na, đặc biệt là các di sản vật thể (các di tích đền tháp) và phi vật thể (lễ Vía Bà) của khu Tháp Bà Nha Trang đã, đang và sẽ là một trong những thành tố quan trọng cho sự phát triển du lịch bền vững của tỉnh Khánh Hòa.

 

Tài liệu trích dẫn

  1. 1.Golzio Karl-Heinz 2004: Inscriptions of Campa.-Aachen: Shaker Verlag.
  2. 2.Majumdar R. 1985: The inscriptions of Champa.-Delhi: Gian Publishing House.
  3. 3.Ngô Văn Doanh 2004: Đền thờ Pô Nagar: pho tượng Durga năm 965, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
  4. 4.Parmentier H. 1909: Inventaire Descriptif des Monuments Chams de L’ Annam,(I.C.).-Paris.

Nguồn: Văn hóa Biển Đảo Khánh Hòa, NXB Văn hóa, 2012.

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Hải Hoành. Bàn thêm về nguồn gốc chữ Quốc ngữ

  • Nguyễn Thanh Lợi. tín ngưỡng thờ Bạch Mã Thái Giám

  • Cao Xuân Hạo. Mấy vấn đề về văn hóa trong cách xưng hô của người Việt

  • Nikulin. Vua Hàm Nghi - Một họa sĩ

  • Nguyễn Hữu Sơn. Giá trị văn học của Nam Phong tạp chí

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 117
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 4 2 4 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân