1. TIẾNG VIỆT SÀI GÒN - MỘT BÁN PHƯƠNG NGỮ ĐÔ THỊ ĐANG SỨC LỚN
Hình thành và hoạt động trên một địa bàn nằm ở trung tâm Nam Bộ, tiếng Việt Sài Gòn tất nhiên cũng mang những đặc trưng chung của phương ngữ Nam và tiếng Việt Nam Bộ. Tuy nhiên, do Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh không phải là một tỉnh thành bình thường mà là một trung tâm kinh tế lớn nhất nước đồng thời là tiểu vùng văn hoá có ảnh hưởng lớn nhất đối với toàn Nam Bộ, nên tiếng Việt Sài Gòn có điều kiện để không ngừng tiếp biến các yếu tố của các phương ngữ Trung, Bắc, các ngôn ngữ thiểu số Hoa, Khmer, và các ngoại ngữ hoạt động mạnh nơi đô thị như tiếng Pháp trước đây và tiếng Anh hiện giờ. Tất cả đã và đang tiếp tục giao thoa với nhau, tiếp biến lẫn nhau, làm cho tiếng Việt Sài Gòn không ngừng phát triển theo hướng vượt ra khỏi cái khung ngữ âm, từ vựng của phương ngữ Nam và tiếng Việt Nam Bộ, trở thành một bán phương ngữ đô thị phát triển và cởi mở, luôn sẵn sàng chiêu nạp mọi tinh hoa ngôn ngữ và văn hoá của cả trong và ngoài nước.
Cũng chính vì lẽ đó, tiếng Việt Sài Gòn đã trở thành một bán phương ngữ rất khó nhận diện, khó nắm bắt dù chỉ là những đặc trưng của nó trong khoảnh khắc hôm nay. Nó như một cơ thể đang sức lớn mà bất cứ tích tắc "dừng hình" nào cũng không thể lột tả được toàn bộ thực trạng, và bất cứ nhát cắt đồng đại nào cho dù khéo léo cũng sẽ mau chóng lạc hậu với đà tăng trưởng, đổi thay từng ngày của nó. Tuy nhiên, nếu vì khó mà không làm gì cả thì sẽ dẫn tới tình trạng thả nổi, như chúng ta đang thấy hôm nay: vì không rõ tiếng Việt Sài Gòn thực chất ra sao, nên người ta có khuynh hướng nhồi nhét cả những hiện tượng ngôn ngữ giả tạo, lai căng vào cái khối mơ hồ được gọi là tiếng Sài Gòn, với lời giải thích rằng đó là "tiếng Sài Gòn mới", hay đó là do "tiếng Sài Gòn nó thế!".
Vì vậy, biết là khó nhưng trong khả năng của mình, chúng tôi vẫn cố gắng tìm kiếm một cái nhìn đúng về tiếng Việt Sài Gòn, để trên cơ sở nhận diện đúng, tiến tới đề nghị những cách thể hiện trong sáng hơn và phù hợp hơn với thực chất của tiếng Việt Sài Gòn.
2. ĐẶC TRƯNG NGỮ ÂM CỦA TIẾNG VIỆT SÀI GÒN
2.1. Hệ thống 5 thanh điệu: Tiếng Việt Sài Gòn chỉ có 5 thanh điệu, trong đó thanh HỎI tương đương với 2 thanh HỎI - NGÃ trong phương ngữ Bắc. Đặc điểm này khác với phương ngữ Bắc, giống với các phương ngữ Trung, Nam [1].
2.2. Chia tách 3 cặp phụ âm R - D/GI, S - X, TR - CH: Trong tiếng Việt Sài Gòn, các cặp phụ âm đầu R - D/GI, S - X, TR - CH được chia tách tương đối rõ. Cách phát âm phụ âm ngoặt lưỡi R thành phụ âm G hoặc J, phát âm phụ âm ngoặt lưỡi TR thành CH của một số nhóm dân cư có nguồn gốc Tây Nam Bộ, không được xem là cách phát âm tiêu biểu của tiếng Sài Gòn. Riêng cặp phụ âm S - X thì sự phân biệt không được người Sài Gòn chú trọng, nhưng vẫn phổ biến trong ngôn ngữ có tính chính thức - xã hội của các phát thanh viên, người dẫn chương trình, nghệ sĩ biểu diễn... Đặc điểm này hơi khác với các phương ngữ Bắc, Nam, giống với phương ngữ Trung.
2.3. Thay 3 phụ âm xát V, D/GI, CH bằng 2 phụ âm tắc J, CH: Trong tiếng Việt Sài Gòn, không có 3 phụ âm xát V, D/GI, CH, thay vào đó là hai phụ âm tắc J, CH. Phụ âm J tương ứng với V, D/GI, còn phụ âm CH tắc tương ứng với CH xát trong phương ngữ Bắc. Riêng đối với một số tầng lớp như phát thanh viên, người dẫn chương trình, nghệ sĩ biểu diễn, cán bộ nhà nước... là người Sài Gòn thì 3 phụ âm xát V, D/GI, CH có tình thế lưỡng phân: thường vắng mặt trong khẩu ngữ tự nhiên, nhưng thường xuất hiện trong ngôn ngữ có tính chính thức - xã hội mà thường gặp nhất là phụ âm V. Nhìn chung, đặc điểm này cơ bản khác với các phương ngữ Bắc, Trung, giống với phương ngữ Nam.
2.4. Thay âm đệm U/O bằng phụ âm tròn môi: Trong tiếng Việt Sài Gòn, âm đệm U/O không rơi rụng hẳn như trong tiếng Việt Nam Bộ mà hoà nhập vào phụ âm đầu, biến phụ âm đầu thành phụ âm tròn môi: buýt => BOÍT; chuyên => CHOIÊNG; duyên => DOIÊNG; đoàn => ĐOÀNG; goá => GOÁ; khuya => KHOYA; luyện => LOIỆNG; noãn => NOÃNG; nhuyễn => NHOIỄNG; phuy => PHOI; roảng => ROẢNG; soát => SOÁC; toàn => TOÀNG; truyền => TROIỀNG; thoáng => THOÁNG; xoa => XOA; ngoại => NGOẠI. Đặc điểm này khá giống với các phương ngữ Bắc, Trung, khác với phương ngữ Nam.
2.5. Thay âm đệm U/O bằng phụ âm xát môi-mạc hữu thanh W: Trong tiếng Việt Sài Gòn, có phụ âm xát môi-mạc hữu thanh W, hình thành từ sự hoà nhập của âm đệm vào 3 phụ âm đầu K, H, ? (phụ âm tắc thanh hầu không được thể hiện trên chữ viết): qua => WA; hoãn => WÃNG; oà => WÀ. Đặc điểm này lại khác với các phương ngữ Bắc, Trung, khá giống với phương ngữ Nam.
2.6. Số lượng và cách phân bố các cặp nguyên âm đối lập dài - ngắn có tính chất đặc thù, giống với phương ngữ Nam, khác với các phương ngữ Bắc, Trung:
- Có những cặp nguyên âm đối lập dài - ngắn tương tự phương ngữ Bắc, nhưng khác về quy tắc kết hợp với phụ âm cuối: I DÀI (y, im, ip) - I NGẮN (in, inh, it, ich); Ơ DÀI (ơ, ơn, ên, ênh) - Ơ NGẮN (ân, âng, ât, âc); A DÀI (a, an, ang) - A NGẮN (ăn, ăng, anh).
- Có các nguyên âm Ê DÀI (ê, êp, êm), E DÀI (e, en, eng), nhưng không có các nguyên âm Ê NGẮN (ênh, êch), E NGẮN (anh, ach) để đối lập với Ê DÀI (ê, ên, êt), E DÀI (e, en, et) như trong phương ngữ Bắc.
- Có những nguyên âm ngắn không có trong phương ngữ Bắc, đi đôi với các nguyên âm dài tương ứng: Ư DÀI (ư) - Ư NGẮN (ưn, ưng, ưc); U DÀI (u) - U NGẮN (un, ung, uc); Ô DÀI (ô, ôn, ôông) - Ô NGẮN (ông, ôc); O DÀI (o, on, oong) - O NGẮN (ong, oc);...
2.7. Sự đồng nhất của một số vần làm giảm số lượng phần vần: Trong tiếng Việt Sài Gòn, số lượng phần vần giảm xuống, do sự đồng nhất của các vần: ên = ênh; êt = êch; iêt = iêc; im = iêm; in = inh; ip = iêp; it = ich; iu = iêu; oc = ôc; oi = ôi; om = ôm = ơm; ong = ông; op = ôp = ơp; ưn = ưng; ươi = ưi; ươt = ươc; ươu = ưu = u; ưt = ưc; v.v. Đặc điểm này khác với các phương ngữ Bắc, Trung, giống với phương ngữ Nam.
2.8. Vận dụng song song một số hình thức ngữ âm của cả ba phương ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù của tiếng Việt Nam Bộ, nhưng đang chuyển hoá dần theo hướng sử dụng song song với hình thức ngữ âm của các phương ngữ Bắc, Trung: chánh - chính, nhứt - nhất, tui - tôi... Đặc điểm này khác với cả ba phương ngữ Bắc, Trung, Nam.
Ta có bảng so sánh các đặc trưng ngữ âm của tiếng Sài Gòn so với các phương ngữ chính như sau:
Bảng so sánh các đặc trưng ngữ âm
của tiếng Việt Sài Gòn với các phương ngữ chính
Đặc trưng ngữ âm của tiếng Việt Sài Gòn |
Khác biệt / Tương đồng với PN Bắc |
Khác biệt / Tương đồng với PN Trung |
Khác biệt / Tương đồng với PN Nam |
Hệ thống 5 thanh điệu |
Khác biệt |
Tương đồng |
Tương đồng |
Chia tách 3 cặp phụ âm R - D/GI, S - X, TR - CH |
Hơi khác biệt |
Tương đồng |
Hơi khác biệt |
Thay 3 phụ âm xát V, D/GI, CH bằng 2 phụ âm tắc J, CH |
Khác biệt |
Khác biệt |
Tương đồng |
Thay âm đệm U/O bằng phụ âm tròn môi |
Khá tương đồng |
Khá tương đồng |
Khác biệt |
Thay âm đệm U/O bằng phụ âm xát môi-mạc hữu thanh W |
Khác biệt |
Khác biệt |
Khá tương đồng |
Số lượng và cách phân bố các cặp nguyên âm đối lập dài - ngắn |
Khác biệt |
Khác biệt |
Tương đồng |
Sự đồng nhất của một số vần làm giảm số lượng phần vần |
Khác biệt |
Khác biệt |
Tương đồng |
Vận dụng song song một số hình thức ngữ âm của cả ba phương ngữ |
Khác biệt |
Khác biệt |
Khác biệt |
Nhận xét rút ra từ bảng so sánh: Nếu lấy 8 đặc trưng ngữ âm nêu trên làm tiêu chí xem xét thì tiếng Sài Gòn không có đặc trưng nào hoàn toàn tương đồng với phương ngữ Bắc, có 3 đặc trưng tương đồng với phương ngữ Trung, và có 5 đặc trưng tương đồng với phương ngữ Nam. Điều đó có nghĩa là, mặc dù từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 ảnh hưởng của phương ngữ Bắc đã tăng lên mạnh mẽ, nhưng về mặt ngữ âm thì tiếng Sài Gòn ngày nay căn bản vẫn đặt nền tảng trên phương ngữ Nam, với sự tiếp biến một số yếu tố của phương ngữ Trung, từ đó mà hình thành trong nó một số đặc trưng riêng, khác biệt cả với phương ngữ Nam và tiếng Việt Nam Bộ. Chính vì lẽ đó, có thể nói về mặt ngữ âm, tiếng Sài Gòn không đơn thuần là một bộ phận của phương ngữ Nam hay tiếng Việt Nam Bộ, mà đã trở thành một bán phương ngữ đô thị có sức sống riêng ở vùng đất phương Nam.
3. ĐẶC TRƯNG TỪ VỰNG CỦA TIẾNG VIỆT SÀI GÒN
3.1. Sự phong phú của các từ ngữ biểu thị đồng bằng sông nước: Hình thành và phát triển trên vùng đất Sài Gòn mà từ hàng trăm năm trước đã là trung tâm thu mua, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu nông thuỷ sản của toàn Nam Bộ, tiếng Sài Gòn có một đặc trưng từ vựng là sự phong phú của các từ ngữ chỉ các loại hình sông nước, hoạt động sông nước, tên gọi các giống lúa, các loại gạo, các loại trái cây là sản phẩm gieo trồng trên hai vùng châu thổ sông Đồng Nai và sông Cửu Long rộng lớn phì nhiêu. Đặc trưng này khá tương đồng với cả ba phương ngữ chính Bắc, Trung, Nam, nhưng đặc biệt tương đồng với phương ngữ Nam hơn cả.
3.2. Sự bảo lưu từ ngữ gốc Mon-Khmer và tiếp biến từ ngữ gốc Chăm, Hoa, Khmer, Pháp, Mỹ: Hình thành và phát triển trên một tiểu vùng văn hoá đa tộc người ở trung tâm Nam Bộ, giao lưu tiếp biến văn hoá diễn ra sôi động, tiếng Sài Gòn có một đặc trưng từ vựng là sự bảo lưu nhiều từ ngữ gốc Mon-Khmer, sự tiếp biến nhiều từ ngữ gốc Chăm, gốc Hoa, gốc Khmer, gốc Pháp, gốc Mỹ... Hệ quả là làm hình thành trong tiếng Việt Sài Gòn một bộ phận từ vựng đặc thù, khác với các phương ngữ Bắc, Trung, và căn bản tương đồng với phương ngữ Nam.
3.3. Sự thay thế và lược bỏ đại từ ẤY: Trong tiếng Việt Sài Gòn, đại từ có nghĩa khiếm diện ẤY bị nhược hoá rất mạnh, hoà nhập hẳn vào danh từ đứng trước, làm hình thành một nhóm đại từ có nghĩa khiếm diện mang THANH ĐIỆU HỎI: bển, đẳng, trỏng, ngoải, trển, hổm, nẳm, ổng, bả, chả, mẻ, ảnh, chỉ, ẻm, cẩu, mở, dỉ, dưởng, vả, thẳng, cỏn, thẩy, cổ...
Trong trường hợp danh từ đứng trước mang các thanh hỏi, ngã, sắc như khoảng, dưới, tháng, bữa, cái, bác, chú, thím, cháu... khiến cho đại từ ẤY không thể hoà nhập được, tiếng Việt Sài Gòn có ba cách xử lý:
- Thay thế ẤY bằng một đại từ có nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi: "Bà đã gặp bác Năm rồi, vậy ổng nói sao?".
- Thay thế ẤY bằng đại từ ĐÓ: "Bánh trái thì ở dưới đó chứ ở đâu, không lo kiếm mà cứ hỏi hoài?".
- Lược bỏ ẤY: "Trên này bày biện xong rồi, ở dưới xong chưa?".
Đặc trưng này hơi khác với các phương ngữ Bắc, Trung, giống với phương ngữ Nam.
3.4. Ưu tiên sử dụng các từ xưng hô lâm thời: Từ xưng hô trong tiếng Việt Sài Gòn là một lớp từ vô cùng phức tạp, do 8 nhóm từ khác nhau hợp thành: danh từ thân tộc (cố, cụ, ông, bà, nội, ngoại, cha, mẹ, ba, má, bác, chú, thím, cô, cậu, mợ, dì, dượng, anh, chị, em, con, cháu, họ, anh em, chị em, anh chị em, bà con, cô bác...); danh từ chỉ quan hệ xã hội (thầy, trò, bạn, đồng nghiệp, đồng chí, đồng bào, chiến hữu...); danh từ chỉ chức danh xã hội (tui, sếp, bác sĩ, đại tá...); danh từ chỉ người (ngài, người, mình, vú, quý vị, chúng...); tên cá nhân (Nam, Hùng, Hoa, Tuyết...); đại từ nơi chốn (đây, ấy, bên bển, đằng đó...); đại từ có nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi (bển, đẳng, trỏng, ngoải, trển, ổng, bả, chả, mẻ, ảnh, chỉ, ẻm, cẩu, mở, dỉ, dưởng, vả, thẳng, cỏn, thẩy, cổ...); đại từ nhân xưng (tao, mày, bây, nó, y, va...). Trong số đó, chỉ có một nhóm từ xưng hô thực thụ duy nhất là các đại từ nhân xưng, còn lại đều là những nhóm từ xưng hô lâm thời. Nhưng chính các nhóm từ xưng hô lâm thời mới được ưu tiên sử dụng trong giao tiếp. Còn nhóm từ xưng hô thực thụ chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp thân mật hoặc suồng sã mà thôi.
Như vậy, về cách sử dụng từ xưng hô, tiếng Việt Sài Gòn căn bản tương đồng với phương ngữ Nam, và có ít nhất 4 điểm khác biệt với các phương ngữ Bắc, Trung:
- Trong nhóm danh từ thân tộc, nó không dùng bố, u, me, ôông, mụ, bọ, mạ, mệ, cậu (gọi người ngang hàng), tía, củ, ý, chế, hia..., nhưng sử dụng cố, cụ, ông, bà, nội, ngoại, cha, mẹ, ba, má, bác, chú, thím, cô, cậu, mợ, dì, dượng, anh, chị, em, con, cháu, họ, anh em, chị em, anh chị em, bà con, cô bác... để xưng hô.
- Trong nhóm danh từ chỉ chức danh xã hội, nó không dùng tôi, tớ, chúng tôi, chúng tớ, bọn tôi, bọn tớ, nhưng sử dụng tui, tụi tui, sếp, bác sĩ, đại tá... để xưng hô. Riêng một số tầng lớp như phát thanh viên, người dẫn chương trình, nghệ sĩ biểu diễn, cán bộ nhà nước... là người Sài Gòn thì vẫn dùng tui, tụi tui trong khẩu ngữ tự nhiên, nhưng dùng tôi, chúng tôi trong ngôn ngữ có tính chính thức - xã hội.
- Sử dụng các đại từ có nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi để xưng hô.
- Không dùng tên con cháu để xưng hô.
3.5. Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ dùng chung với phương ngữ Bắc như thật, rất, lắm, quá, còn sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: lậng, hà, thiệt, ghê, hung, dữ, lung. Bên cạnh đó là các phó từ chỉ mức độ đi kèm với tính từ: dở ẹc, tối hù, sáng rỡ, dài thoòng, cụt ngủn, cao nhòng, lùn xủng, ốm nhom, mập lù... Đặc trưng này hơi khác với các phương ngữ Bắc, Trung, giống với phương ngữ Nam.
3.6. Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: Không sử dụng các ngữ khí từ của phương ngữ Bắc: hở, ư, nhỉ, nhé, cơ, ạ, ồ, ôi, giời ôi, eo ơi, thảo nào, bỏ bu... Thay vào đó, nó sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, há, hé, héng, hèng chi, hôông, a, í, ngheng, nghôông, chèng ơi, chèng đéc ơi, mèng ơi, trời ơi, trời ơi là trời, dữ ác hôông, chết cha, chứ bộ... Đặc trưng này khác với các phương ngữ Bắc, Trung, giống với phương ngữ Nam.
3.7. Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ dùng chung với phương ngữ Bắc, còn sử dụng các quán ngữ đặc thù: quá cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, tận cùng bằng số, hết nước hết cái, mút chỉ cà tha, mút mùa Lệ Thuỷ, tan nát đời cô Lựu, tệ hơn vợ thằng Đậu, tiêu tán thoòng, hui nhị tỳ, xí lắt léo, ngủm cù đèo, cà kê dê ngỗng, trần ai khoai củ, bỏ đi Tám, hổng dám đâu... Đặc trưng này hơi khác với các phương ngữ Bắc, Trung, giống với phương ngữ Nam.
3.8. Sự hội tụ từ vựng của các vùng miền: Hình thành và phát triển trên một tiểu vùng văn hoá đô thị mà đặc trưng đô thị đã thể hiện ngay từ khởi thuỷ, tiếng Sài Gòn có một đặc trưng riêng là sự hội tụ từ vựng của các vùng miền. Hệ quả là từ vựng của tiếng Sài Gòn ngày càng tiến gần đến ngôn ngữ toàn dân (xe hai bánh gắn máy => xe gắn máy => xe máy; tàu bay => phi cơ => máy bay...). Về mặt này, tiếng Sài Gòn khác với cả ba phương ngữ chính Bắc, Trung, Nam, và đóng vai trò kết nối ba phương ngữ đó.
Ta có bảng so sánh các đặc trưng từ vựng của tiếng Sài Gòn so với các phương ngữ chính như sau:
Bảng so sánh các đặc trưng từ vựng
của tiếng Việt Sài Gòn với các phương ngữ chính
Đặc trưng từ vựng của tiếng Việt Sài Gòn |
So sánh với PN Bắc |
So sánh với PN Trung |
So sánh với PN Nam |
Sự phong phú của các từ ngữ biểu thị đồng bằng sông nước |
Khá tương đồng |
Khá tương đồng |
Tương đồng |
Sự bảo lưu từ ngữ gốc Mon-Khmer và tiếp biến từ ngữ gốc Chăm, Hoa, Khmer, Pháp, Mỹ... |
Khác biệt |
Khác biệt |
Tương đồng |
Sự thay thế và lược bỏ đại từ ẤY |
Hơi khác biệt |
Hơi khác biệt |
Tương đồng |
Ưu tiên sử dụng các từ xưng hô lâm thời |
Hơi khác biệt |
Hơi khác biệt |
Tương đồng |
Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù |
Hơi khác biệt |
Hơi khác biệt |
Tương đồng |
Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù |
Khác biệt |
Khác biệt |
Tương đồng |
Sử dụng các quán ngữ đặc thù |
Hơi khác biệt |
Hơi khác biệt |
Tương đồng |
Sự hội tụ từ vựng của các vùng miền |
Khác biệt |
Khác biệt |
Khác biệt |
Nhận xét rút ra từ bảng so sánh: Nếu lấy 8 đặc trưng từ vựng nêu trên làm tiêu chí xem xét thì tiếng Sài Gòn không có đặc trưng nào hoàn toàn giống với các phương ngữ Bắc, Trung, và có đến 7 đặc trưng giống với phương ngữ Nam. Đặc trưng khác biệt với phương ngữ Nam là đặc trưng "Sự hội tụ từ vựng của các vùng miền". Điều đó cho thấy về mặt từ vựng, tiếng Sài Gòn hình thành và phát triển trên cái nền từ vựng của phương ngữ Nam, nhưng nó cũng không ngừng du nhập từ vựng của tất cả các vùng miền khác. Chính nhờ vai trò kết nối các phương ngữ Bắc, Trung, Nam về mặt từ vựng mà tiếng Sài Gòn mới có thể trở thành một bán phương ngữ đô thị có sức sống riêng ở vùng đất phương Nam, chứ không đơn thuần là một bộ phận của phương ngữ Nam hay tiếng Việt Nam Bộ nữa.
4. NHỮNG LỖI THƯỜNG GẶP TRONG THỂ HIỆN TIẾNG VIỆT SÀI GÒN
4.1. Nguyên nhân
Những lỗi thường gặp trong thể hiện tiếng Việt Sài Gòn xuất hiện cả trong ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói. Nguyên nhân dễ thấy của tình trạng đó là kỹ năng vận dụng, thể hiện tiếng Việt Sài Gòn non kém của người sử dụng. Nhưng còn có một nguyên nhân khác, khó thấy hơn, đó là hiện tượng siêu chỉnh ngôn ngữ. Siêu chỉnh ngôn ngữ là hiện tượng người sử dụng ngôn ngữ cố gắng điều chỉnh và sử dụng ngôn ngữ một cách khác thường, nhằm khẳng định sự hiểu biết hoặc vị thế xã hội của mình. Do phải "vận dụng" một thứ ngôn ngữ khác với tập quán nói năng thường nhật, nên họ thường vấp phải những lỗi ngôn ngữ mà họ không tự nhận ra, và nhiều khi những cố gắng của họ chỉ làm sản sinh ra một thứ ngôn ngữ giả tạo, không có trong hoạt động giao tiếp bình thường của người bản ngữ kể cả bản thân họ.
Siêu chỉnh ngôn ngữ không loại trừ bất cứ tầng lớp xã hội nào, trình độ học vấn nào. Thí dụ một cán bộ lãnh đạo đã thoát ly sản xuất nhiều năm, khi đến thăm công nhân, cố gắng nói chuyện bằng một ngôn ngữ mà ông ta cho là gần gũi với công nhân. Hoặc một nông dân vừa giàu lên nhờ bán đất, khi gia nhập hàng ngũ các đại gia, cố gắng ăn nói bằng một ngôn ngữ mà ông ta cho là xứng với tư thế của đại gia. Cả hai trường hợp đó đều có thể sản sinh ra những sản phẩm siêu chỉnh ngôn ngữ mang dấu ấn riêng, thể hiện tâm thức muốn thay đổi vị thế xã hội của các chủ thể siêu chỉnh.
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, siêu chỉnh ngôn ngữ là một tình trạng phổ biến ở các phát thanh viên, biên tập viên phát thanh - truyền hình, người dẫn chương trình, diễn viên, nghệ sĩ lồng tiếng của một số đài truyền hình, kênh truyền hình... Hiện tượng siêu chỉnh ngôn ngữ này dẫn đến cách phát âm sai, dùng từ sai rất chướng tai. Đó là vì, do siêu chỉnh, họ đã tự tạo ra một thứ ngôn ngữ riêng của họ mà không thấy có ở bất cứ vùng miền nào khác, loại người nào khác.
Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng siêu chỉnh ngôn ngữ này có thể là quan điểm tự tôn, quan điểm tự ti, và quan niệm sai về sự chuẩn hoá ngôn ngữ. Quan điểm tự tôn thường cho rằng nói năng bằng ngôn ngữ bình thường của công chúng là nhà quê, không văn hoá, không trí thức. Ngược lại, quan điểm tự ti lại cho rằng cần phải bắt kịp cách nói năng của công chúng hôm nay, đặc biệt là những cách nói năng mới mẻ, được gọi là "tiếng Sài Gòn mới". Còn quan niệm sai về chuẩn hoá ngôn ngữ thì dẫn tới sự bóp méo ngôn ngữ tự nhiên của con người. Thật ra, chuẩn hoá ngôn ngữ vốn có ý nghĩa tốt đẹp là sự xác lập chuẩn mực của ngôn ngữ về mặt ngữ âm-chính tả, từ vựng, ngữ pháp; chuẩn hoá ngôn ngữ tích cực góp phần nâng cao hiệu quả chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Nhưng trên thực tế, ở nước ta chuẩn hoá ngôn ngữ thường được hiểu đơn giản là lấy tiếng Bắc Bộ, hoặc tiếng Hà Nội, hoặc tiếng Vinh, hoặc chữ Quốc ngữ... làm chuẩn. Đó là cách hiểu vô căn cứ và áp đặt, cả trên hai phương diện khoa học và pháp lý.
4.2. Lỗi ngữ âm thường gặp
Khi thể hiện ngôn ngữ nói của tiếng Việt Sài Gòn, các ngành nghệ thuật và các phương tiện truyền thông thường mắc phải lỗi ngữ âm: không chuyển thể ngôn ngữ trên văn bản thành ngôn ngữ nói, mà là đọc văn bản đó thành lời, bằng ngữ âm Nam Bộ, ngữ âm Sài Gòn. Thí dụ: "anh ấy" => "anh ẤY" thay vì "ảnh"; "đổ bệnh" => "đổ BỢN" thay vì "đổ bịnh"; v.v.
Riêng các nhà siêu chỉnh ngôn ngữ thì còn đi xa hơn: họ sáng tạo ra cả một hệ thống ngữ âm riêng, rất đặc thù: ảnh => anh ẤY; cổ => cô ẤY; bịnh viện (BỊN JIỆNG) => BỢN VIỆNG; kinh rạch (KIN RẶT) => CƠN RẶT; hoan nghinh (WANG NGHIN) => HWANG NGƠN; văn hoá (JĂNG WÁ) => VĂNG HWÁ; vinh dự (JIN JỰ) => VIN ZỰ; diễn viên (JIỂNG JIÊNG) => ZIỂNG VIÊNG...
Cách khắc phục, theo chúng tôi, là cần phải nhận thức đúng các đặc trưng ngữ âm của tiếng Việt Sài Gòn, phân biệt với các phương ngữ khác. Kế đó là phân biệt ngôn ngữ trên văn bản với ngôn ngữ trong thực tế nói năng. Trên các tác phẩm, kịch bản, ngôn ngữ hội thoại thường được viết theo ngữ âm phương ngữ Bắc. Cho nên, khi tái hiện ngôn ngữ đó bằng tiếng Việt Sài Gòn, cần phải chuyển thể nó theo ngữ âm thông dụng của tiếng Việt Sài Gòn.
4.3. Lỗi từ vựng thường gặp
Khi thể hiện ngôn ngữ nói của tiếng Việt Sài Gòn, các ngành nghệ thuật và các phương tiện truyền thông thường mắc phải lỗi từ vựng: không chuyển đổi từ ngữ trên văn bản thành từ ngữ thông dụng của tiếng Việt Sài Gòn, mà là đọc nguyên xi từ ngữ đó, bằng ngữ âm Nam Bộ, ngữ âm Sài Gòn. Thí dụ: "đảm bảo" => "ĐẢM BẢO" thay vì "bảo đảm"; "ối giời ơi!" => "ỐI JỜI ƠI!" thay vì "chu cha ơi!"; "tài nhỉ!" => "TÀI NHỈ!" thay vì "giỏi quá ha!"; v.v. Các cấu trúc đoản ngữ có nguồn gốc ngoại lai đôi khi cũng được giữ nguyên chứ không chuyển đổi thành cấu trúc thông thường trong tiếng Việt. Thí dụ: "Chuyến bay A7 được điều khiển bởi NASA đã được bấm nút xuất phát lúc 6 giờ 15", thay vì "Chuyến bay A7 do NASA điều khiển đã được bấm nút xuất phát lúc 6 giờ 15", hoặc "Trung tâm Hàng không Vũ trụ NASA đã bấm nút xuất phát cho chuyến bay A7 vào lúc 6 giờ 15", v.v.
Riêng các nhà siêu chỉnh ngôn ngữ thì còn đi xa hơn: họ sáng tạo ra cả một tập hợp từ vựng đặc thù: chủ kiến => chính kiến; chung cư => chúng cư; cứu tinh => cứu cánh; sát nhập => sáp nhập; số mạng => số MỢN; xuồng ba lá => THUYỀN ba lá; mày tao => cậu tớ; tụi mình => chúng ta...
Cách khắc phục, theo chúng tôi, là cần phải nhận thức đúng các đặc trưng từ vựng của tiếng Việt Sài Gòn, phân biệt với các phương ngữ khác. Kế đó là phân biệt ngôn ngữ trên văn bản với ngôn ngữ trong thực tế nói năng. Trên các tác phẩm, kịch bản, ngôn ngữ hội thoại thường được viết bằng từ vựng phương ngữ Bắc. Cho nên, khi tái hiện ngôn ngữ đó bằng tiếng Việt Sài Gòn, cần phải chuyển đổi nó thành từ ngữ thông dụng của tiếng Việt Sài Gòn. Đối với các cấu trúc đoản ngữ có nguồn gốc ngoại lai, cần phải chuyển đổi nó thành cấu trúc thông thường trong tiếng Việt.
5. THAY LỜI KẾT: CẦN NẮM VỮNG VÀ VẬN DỤNG ĐÚNG TIẾNG VIỆT SÀI GÒN
Ngày nay, tiếng Việt Sài Gòn đã trở thành một trong những phương tiện giao tiếp, phương tiện truyền thông quan trọng ở nước ta. Vì vậy, nắm vững và vận dụng đúng các đặc trưng ngôn ngữ của tiếng Việt Sài Gòn là một yêu cầu thiết yếu, thiết thân đối với những người làm các công việc liên quan đối ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ hội thoại nói riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam: dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, phát thanh viên, người dẫn chương trình, đạo diễn, biên kịch, nghệ sĩ biểu diễn, nghệ sĩ lồng tiếng, chuyên viên quảng cáo, nhà văn, soạn giả, phóng viên, biên tập viên... Chúng tôi hy vọng bài viết này, nếu chưa đưa ra được một giải pháp toàn diện thì ít ra cũng cung cấp được một cái nhìn nghiêm túc từ phía công chúng để những người trong cuộc lấy đó làm xuất phát điểm soi rọi lại tri thức ngôn ngữ và việc thực hành ngôn ngữ của mình.
[1] Trong các chuyên khảo ngữ âm học và phương ngữ học, người ta thường dùng ký hiệu phiên âm quốc tế IPA để phiên âm. Ở đây, để tạo thuận lợi cho tất cả những bạn đọc có hoặc không có kiến thức về ngôn ngữ học, chúng tôi thay các ký hiệu đó bằng chữ cái La Tinh, dưới hình thức chữ in hoa (A, B, ...), ngoại trừ phụ âm tắc thanh hầu phải ghi bằng ký hiệu ?. Các dẫn liệu bằng chữ viết, mà trên thực tế thường có âm đọc khác nhau tuỳ theo phương ngữ, được ghi bằng chữ in thường, có gạch dưới (an, ang, ...).
TP. Hồ Chí Minh, ngày 8/8/2009.
Nguồn: Tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Xuân Hạo & Lý Tùng Hiếu... (2005), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, tái bản lần thứ nhất có sửa chữa bổ sung, NXB Khoa học Xã hội.
2. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.
3. Đinh Lê Thư & Nguyễn Văn Huệ (1998), Cơ cấu ngữ âm tiếng Việt, NXB Giáo dục.
4. Hồ Lê & Trần Thị Ngọc Lang... (2005), Lỗi từ vựng và cách khắc phục, tái bản lần thứ nhất có sửa chữa bổ sung, NXB Khoa học Xã hội.
5. Lê Trung Hoa (2005), Lỗi chính tả và cách khắc phục, tái bản lần thứ nhất có sửa chữa bổ sung, NXB Khoa học Xã hội.
6. Lý Tùng Hiếu (1991), "Khắc phục lỗi chính tả ở học sinh phổ thông miền Nam", Tiếng Việt trong đời sống, Hội Ngôn ngữ học TP. Hồ Chí Minh, trang 92-104.
7. Lý Tùng Hiếu (2008), Dẫn luận ngôn ngữ học, tập bài giảng, Trường Đại học Hoa Sen, TP. Hồ Chí Minh.
8. Lý Tùng Hiếu (2009), Các tiểu vùng văn hoá đô thị Việt Nam, www.vanhoahoc.edu.vn, 12/5/2009.
9. Lý Tùng Hiếu (2009), Vùng văn hoá Nam Bộ: Định vị và đặc trưng văn hoá, www.vanhoahoc.edu.vn, 15/5/2009.
10. Lý Tùng Hiếu (2009), Tiếng Việt Nam Bộ: Lịch sử hình thành và các đặc trưng ngữ âm, từ vựng, www.vanhoahoc.edu.vn, 15/7/2009.
11. Nguyễn Kiên Trường chủ biên & Lý Tùng Hiếu hiệu đính (2005), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
12. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục.
13. Nguyễn Văn Ái chủ biên & Nguyễn Văn Đức & Nguyễn Công Khai (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ. Những khác biệt về từ vựng - ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ, NXB Khoa học Xã hội.
15. Trần Thị Ngọc Lang chủ biên & Lý Tùng Hiếu hiệu đính (2005), Một số vấn đề về phương ngữ xã hội, NXB Khoa học Xã hội.