logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa nhận thức
Monday, 24 March 2008 00:00

Nguyễn Thúy Vy. Nhận thức về vai trò của văn hóa đối với quá trình phát triển

Người post bài:  TT VHH

NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC CỦA ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC     

 

                                                                        ThS. NGUYỄN THÚY VY
(BM Văn hóa học,
Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn)

1.  Sự thành công của quá trình Duy tân ở Nhật Bản, sự thất bại liên tục của các cuộc khởi nghĩa vũ trang ở nước ta trong những năm cuối thế kỷ XIX cộng với sự thay đổi một cách toàn diện đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã đưa đến một nhận thức mới nơi các sĩ phu Việt Nam: khởi nghĩa vũ trang đã không còn là phương thức đấu tranh thích hợp nữa. Giờ đây, Muốn giành lại chủ quyền, dân tộc ta phải tìm một đường lối, một phương cách khác trước và đường lối mới đó chính là phải canh tân đất nước theo mô hình các nước phương Tây, trong đó “khai dân trí” là một trong những mục tiêu cơ bản, đầu tiên.

Là một trường học do các sĩ phu Việt Nam sáng lập ở Hà Nội năm 1907, với phương châm “Dùng văn hóa như một phương tiện hữu hiệu giành lại độc lập, tự do cho dân tộc” Đông Kinh Nghĩa Thục đã xuất hiện như một giải pháp hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử văn hóa chính trị Việt Nam. Tuy mục đích cuối cùng vẫn chưa đạt được nhưng Đông Kinh Nghĩa Thục đã để lại cho hậu thế một cách nhìn mới, một quan niệm mới về vai trò của văn hóa đối với sự tồn tại và phát triển của một dân tộc. Trong các bài giảng của mình, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã phác thảo một cách cơ bản hệ thống lý luận về văn hóa để từ đó định hướng cho mọi hoạt động của mình.

Mở đầu bài viết về Văn minh trong tập sách Quốc văn độc bản, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã đưa ra định nghĩa về văn hóa (mà họ gọi là Văn minh): “Văn minh là tổng hợp nhiều mặt quan trọng: văn tự, pháp luật, giáo dục, luân lý, trồng trọt…” [Chương Thâu 1997: 159]. Có thể xem đây là định nghĩa văn hóa chính thức đầu tiên ở Việt Nam. Trong định nghĩa của mình, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã xem xét văn hóa với tư cách là tổng thể các thành tố của nó như văn tự, pháp luật, giáo dục, luân lý, trồng trọt… mà không xem văn hóa như một chỉnh thể. Nghĩa là, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục  đã nghiên cứu văn hoá như một loạt các yếu tố được phức tạp hoá dần dần của các vật thể văn hoá vật chất như công cụ lao động, kỹ thuật…Đầu thế kỷ XX , thông qua Tân thư các nhà nho cấp tiến ở Việt Nam cũng đã chịu ảnh hưởng rất rõ học thuyết “Darwin xã hội” (Social Darwinism) của phương Tây vốn rất phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản,… lúc bấy giờ. Dựa trên học thuyết tiến hóa ấy, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục cho rằng: văn minh là một quá trình phát triển từ thấp đến cao và quá trình đó phải trải qua ba thời kỳ:

+ Thời kỳ dã man: là thời kỳ con người chỉ biết sử dụng những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên để tồn tại. Trong thời kỳ này, con người “không biết trồng trọt, chỉ săn thú, bắt cá mà thôi, cũng không biết chế tạo dụng cụ, cho nên không dựng được nhà cửa, không may được quần áo, không có các thứ đồ dùng. Cũng chẳng có luân lý nên chẳng có tình nghĩa cha con, vợ chồng. Không có văn tự, phải thắt nút dây mà ghi nhớ. Không có pháp luật, không có giáo dục, nên tính tình hung hãn, kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu. Không có phương tiện giao thông bằng đường bộ hay đường thủy, nên các bộ lạc không đi lại, tiếp xúc với nhau” [Chương Thâu 1997: 159].

+ Thời kỳ văn minh thô sơ: thời kỳ này đã có mầm mống của chăn nuôi, trồng trọt, con người đã biết: “trồng trọt, dựng nhà cửa, đóng thuyền bè, xe cộ, vắt nặn đồ gốm, đặt ra nghi lễ hôn nhân, đạo nghĩa cha con, vua tôi, biết trao đổi hàng hóa, có văn tự, biết dạy học, lập ra hình pháp để trừng trị những kẻ không theo giáo hóa. Thế là có nền văn minh nhưng còn thô sơ, đơn giản, chưa hoàn bị” [Chương Thâu 1997: 160].

+ Thời kỳ văn minh: “là thời đại ngày nay, muốn gạo thì có gạo, muốn trà thì có trà, lại có nhà để che nắng, che mưa, có đủ đồ dùng hàng này , có cha mẹ thương yêu ta, có thầy học dạy dỗ ta, có thuyền bè, xe cộ, có đường giao thông thủy bộ, muốn sang đông, sang tây đều tiện lợi” [Chương Thâu 1997:160].

Như vậy theo các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nói riêng, sự đi lại, giao lưu tiếp xúc giữa các cộng đồng nói chung là một nhân tố quan trọng hàng đầu làm biến đổi nền văn hoá của một cộng đồng. Nhận định về nền văn hóa Việt, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã khẳng định: nước ta có nền văn hóa lâu đời, từ “mấy ngàn năm trước đã có văn tự, lịch toán, nhà cửa, thuyền bè, xe cộ. Cha con, vua tôi đều có đạo nghĩa, tang tế, giá thú đều có lễ nghi, văn học hay, chính trị rạng rỡ” [Chương Thâu 1997: 158]. Mặc dù vậy, đỉnh cao văn minh của nhân loại hiện nay (thời điểm Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời) lại thuộc về các nước Âu, Mỹ vốn là những nước “đều khai hóa hết sức muộn màng” [Chương Thâu 1997:158]. Trên cơ sở so sánh văn hóa Đông -Tây ở các lĩnh vực tư tưởng, giáo dục, kinh tế, tính tình, phong tục… các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã tìm ra được nguyên nhân nào đã mang lại sức mạnh cho phương Tây cũng như nguyên nhân nào làm cho Việt Nam ở trong tình trạng kém phát triển đến thế. Đó là do văn hóa phương Tây “luôn luôn động” trong khi đó văn hóa phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng lại “luôn luôn tĩnh” [Chương Thâu 1997:118]. Chính những đặc trưng tĩnh - động này là nguyên nhân chính yếu hướng các nền văn hóa Đông -Tây phát triển đến những trình độ khác nhau. Người phương Tây do “luôn luôn động” nên phát triển không ngừng: “Mở rộng đất đai thì họ chiếm các cửa biển, tìm hải đảo. Chế tạo máy móc, hơi nước không đủ thì họ dùng sức điện, sức điện không đủ thì họ nghĩ đến sức hấp dẫn của quả đất. Với một ý chí tiến thủ không mệt mỏi như vậy, dân họ mới mạnh, được trăm họ quý chuộng, thế lực của họ vươn ra khắp toàn cầu không phải là ngẫu nhiên” [Chương Thâu 1997:170-171]. Ngược lại, do “luôn luôn tĩnh” mà “nước ta trong triều ngoài nội, chính trị, phong tục không thay đổi chút nào. Dụng cụ của ta đều cũ kỹ lạc hậu, đồng ruộng hoang vu, dân đói rách, chưa bỏ thói ngang ngạnh, tính nô lệ vẫn còn” [Chương Thâu 1997:159].

Cũng trên quan điểm tiến hóa, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục xác định: “các nước trên địa cầu tất phải từ dã man mà khai hóa thành văn minh. Nhất định phải như thế” [Chương Thâu 1997:160]. Thế nhưng quá trình phát triển ấy nhanh hay chậm, trình độ ấy cao hay thấp thì lại phải tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Đồng thời, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục cũng khẳng định: “văn minh không có giới hạn, càng tiến thì càng cao. Có thể nói nước kia văn minh hơn nước này nhưng không thể nói văn minh nước kia đã đạt đến cực điểm” [Chương Thâu 1997: 160-161]. Do quan niệm văn minh không có giới hạn nên đối với các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục, những nước Âu, Mỹ – đại biểu cho sự văn minh của nhân loại đầu thế kỷ XX – vẫn còn rất nhiều hạn chế bởi vì “nhà tù của họ chưa bỏ trống, nạn rượu chè, hút xách chưa loại trừ hết, người bệnh tật ốm đau, bọn côn đồ hung hãn, dân mù chữ đâu đã vắng bóng” [Chương Thâu 1997: 161]. Ngược lại, văn minh nước ta dù “khuyết điểm còn nhiều, nhưng không có gì phải lo, chỉ phải tiến nhanh lên mà thôi” [Chương Thâu 1997: 161]. Và, cũng theo các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục, để đất nước có thể phát triển nhanh chóng người Việt cần phải đặc biệt xem trọng việc “khai dân trí”, tiếp thu những thành tựu của văn minh phương Tây. Muốn vậy, phải xem giáo dục là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, phải có “giáo dục phổ cập”, phải làm cho “trong cả nước không người nào không được đi học” [Chương Thâu 1997: 184].

Như vậy, dù không quan niệm văn minh Tây phương là toàn bích, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục vẫn chủ trương rằng: trước khi có thể tự tạo lập được một nền văn minh tiên tiến cho chính mình, người Việt tạm thời cần phải chủ động tiếp thu những thành tựu văn hóa phương Tây trước đã và để quá trình tiếp thu văn hóa phương Tây này đạt hiệu quả cao nhất, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã đề ra sáu nhiệm vụ cơ bản cần phải tiến hành: Dùng văn tự nước nhà, Hiệu đính sách vở, Sửa đổi phép thi, Cổ võ nhân tài, Chấn hưng công nghệ, Mở tòa báo và sáu nhiệm vụ này được Đông Kinh Nghĩa Thục xem là phương châm, là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của mình. Có thể thấy, khi xem văn hóa như một phương tiện hữu hiệu để giành lại chủ quyền cho đất nước, Đông Kinh Nghĩa Thục đã đưa ra một cách nhìn, một chiến lược vô cùng mới mẻ, chưa hề có trong truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc ta.

 2.  Trên cơ sở nhận thức về vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc, các nhà Đông Kinh Nghĩa thục đã chủ trương phải hiện đại hóa đất nước về mọi mặt, trong đó việc quan trọng và cấp thiết nhất là phải xây dựng cho được một nền học thuật mới cho dân tộc. Mầm mống của sự hình thành ý thức xây dựng nền học thuật mới này đã xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XIX qua những đề nghị của các nhà canh tân như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch và phần nào qua hoạt động văn hóa của các nhà Tây học đầu tiên xứ Nam Kỳ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký… Sang đầu thế kỷ XX, ý thức trên đã trở nên rõ nét hơn qua hoạt động của các nhà Duy Tân miền Trung, và đến Đông Kinh Nghĩa Thục, việc xây dựng nền học thuật mới cho dân tộc đã trở thành nhiệm vụ hàng đầu. Có thể thấy điều này qua “sáu đường” mà  các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã đề ra. Trong sáu đường ấy, ngoài “chấn hưng công nghệ” thì năm đường còn lại đều có liên quan đến nhiệm vụ xây dựng nền học thuật mới cho dân tộc.

Theo các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục, một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho các nước phương Tây phát triển nhanh chóng là do nền học thuật- giáo dục của họ luôn chú trọng vào đời sống thực tế. Trong khi đó, nền học thuật truyền thống của nước ta chỉ biết “lấy khoa cử làm mục đích” [Chương Thâu 1997:188]. Với quan điểm “học là để có ích cho bản thân mình và cho quốc gia, xã hội” các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã thẳng thắn phê phán nền học thuật truyền thống là “nền học vấn rất vô dụng” [Chương Thâu 1997:126] bởi theo họ, một nền học vấn hữu dụng ít nhất phải mang đến cho con người ba điều: “một là học vệ sinh, tức là học phương pháp làm cho thân thể cường tráng, không bệnh tật; hai là học trị sinh, tức là học phương pháp làm cho có thức ăn, đồ mặc và quản lý sản nghiệp; ba là học làm người, làm quốc dân, tức là học cách tự kiềm chế và cách đối xử với quốc gia, xã hội. Đạt được ba điều ấy là cái học hữu dụng, không đạt được ba điều ấy là cái học vô dụng”  [Chương Thâu 1997:185].

 Đề ra những biện pháp thiết thực để xây dựng nền học thuật mới cho nước nhà, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đặc biệt chú ý đến việc tuyên truyền mở mang dân trí, tiếp thu văn hóa phương Tây. Họ kêu gọi: “người trí thức phải đề ra những nguyên tắc mới, biên soạn những sách mới có ích cho mọi người trong nước, người thông hiểu văn tự Đông Tây phải dịch những cuốn sách có ích để mở mang phong khí, công, nông, thương phải có chí tiến thủ để khuếch trương nghề nghiệp” [Chương Thâu 1997:190]. Và bước đầu tiên phải làm trong việc mở mang dân trí, theo các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục, là phải sử dụng chữ Quốc ngữ vì đây chính là phương tiện hữu dụng nhất trong việc tiếp thu văn hóa phương Tây.

Đến đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ đã có một vị trí nhất định trong đời sống văn hóa ở miền Nam, tạo điều kiện cho các sĩ phu nhận ra: với ưu điểm vượt trội về tính khoa học, hệ thống của chữ Quốc ngữ so với chữ Hán, chữ Quốc ngữ sẽ là phương tiện cực kỳ hữu hiệu giúp dân tộc ta nhanh chóng tiếp thu những thành tựu văn minh phương Tây. Trong tác phẩm Văn minh tân học sách, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã kêu gọi: “Người trong nước đi học nên lấy chữ Quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên, để cho trong thời gian vài tháng, đàn bà trẻ con cũng đều biết chữ; và người ta có thể dùng Quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay, và thư từ thì có thể chuốt lời và đạt ý. Đó là bước đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy” [Chương Thâu 1997: 123].

Việc học chữ Quốc ngữ đã được các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục phát động thành một phong trào sôi nổi khắp Hà thành và lan rộng ra toàn quốc vào  năm 1907. Bên cạnh việc dạy chữ Quốc ngữ, những môn học “mới” theo hệ thống giáo dục phương Tây như lịch sử, địa lý, toán pháp, giáo dục công dân, thể dục, vệ sinh, thậm chí chính trị cũng được đưa vào chương trình giảng dạy của nhà trường. Với một thành phần ban Tu thư hùng hậu, Đông Kinh Nghĩa Thục đã biên soạn được nhiều sách giáo khoa có nội dung vừa nêu cao được tinh thần dân tộc; vừa giới thiệu một cách cơ bản về đất nước, con người và nền văn minh của các nước phương Tây; vừa giới thiệu về đất nước và con người Việt Nam cụ thể, hoàn toàn phù hợp với đường lối hoạt động của nhà trường như: Quốc dân độc bản, Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư, Nam quốc địa dư, Nam quốc giai sự truyện, Luân lý giáo khoa, Quốc văn tập đọc,… các sách giáo khoa này không chỉ được giảng dạy ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục mà còn trở thành tài liệu giảng dạy chính yếu ở một số trường học Duy tân ở các tỉnh thành khác trong cả nước.

3.  Khi phát động phong trào phổ biến chữ Quốc ngữ, hẳn các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục cũng nhận ra dân tộc ta đang đứng trước nguy cơ: sự chuyển đổi văn tự sẽ dẫn đến sự đứt gãy giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Để giải quyết vấn đề này, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đã chủ trương hiệu đính lại những sách vở cũ như: Khâm định Việt sử cương mục, Thực lục, Liệt truyện, Nhất thống chi, Lịch triều chí, Vân đài loại ngữ, Công hạ kiến văn, Địa dư chí, Gia định chí, Nghệ An phong thổ thoại, Đồ Bàn thành ký, Hưng Hóa thập lục châu ký, Phủ Man tạp lục,… là những tài liệu về sơn xuyên, phong tục, văn vật, điển chương của người trước, bỏ bớt những chỗ rườm rà cho người đọc dễ hiểu rồi sau đó “dịch ra Quốc ngữ để làm độc bản cho lớp sơ học” [Chương Thâu 1997:124]. Chính nhờ nhận định này của các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục mà dân tộc ta, dù có tiếp thu kiến thức phương Tây, dù có tiếp nhận một hình thức văn tự hoàn toàn xa lạ vẫn giữ vững được truyền thống văn hóa của dân tộc.

 Không chỉ dịch ra chữ Quốc ngữ những tài liệu văn hóa cũ, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục  còn chủ trương:

“Sẵn cơ sở để khai tâm trí

Rồi sẽ đem các thứ giáo khoa

Chữ Tàu dịch lấy chữ ta,

Chữ Tây cũng phải dịch ra chữ mình…”

                                               [Chương Thâu 1997: 263]

Từ chủ trương trên có thể thấy, các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục đặc biệt coi trọng việc tiếp thu tư tưởng học thuật tiến bộ của nước ngoài kể cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, “các thứ giáo khoa” mà các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục chủ trương phổ biến, tuyên truyền ở đây không phải là các loại sách giáo khoa theo cách hiểu của chúng ta ngày nay mà thực chất chúng chủ yếu là các Tân thư. Các tác phẩm chính luận này đã được ban Tu thư của trường tổ chức dịch, chọn lấy ý chính và sau đó biên tập lại thành sách giáo khoa dùng giảng dạy trong trường. Nhờ các sách giáo khoa của Đông Kinh Nghĩa Thục mà lần đầu tiên người Việt Nam mới tiếp cận một cách tương đối hệ thống một số các khái niệm của phương Tây như: nguồn gốc xã hội, văn minh, độc lập cá nhân, chính phủ, quốc hội, pháp luật, ngân hàng, tư bản, séc, công ty,… theo lời giám học Nguyễn Quyền, các loại sách giáo khoa này được người Việt đặc biệt ưa chuộng, mặc dù đã được “in đi in lại nhiều lần, mà lần nào cũng ấn hành mấy muôn tập mà vẫn không đủ phát” [Đào Trinh Nhất 1938: 29].

4.  Qua hoạt động sôi nổi của Đông Kinh Nghĩa Thục có thể thấy đến đầu thế kỷ XX, các sĩ phu nước ta đặc biệt xem trọng vai trò của văn hóa – giáo dục đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Xét trên bình diện văn hóa, khi Đông Kinh Nghĩa Thục quyết định chọn chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán làm văn tự chính thức của nước nhà và định hướng xây dựng nền học thuật theo mô hình phương Tây cũng có nghĩa là họ đã tạo ra sự chuyển biến từ quan hệ văn hóa mang tính khu vực sang quan hệ văn hóa mang tính quốc tế. Sự chuyển biến quan hệ văn hóa này cho thấy một điều: văn hóa Việt Nam đang bắt đầu manh nha có bước chuyển biến từ phạm trù văn hóa truyền thống sang phạm trù văn hóa hiện đại. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam đang nằm trong giai đoạn giao thời: cái cũ vẫn chưa qua hẳn, cái mới vừa mới chớm đến. Vấn đề cơ bản của giai đoạn này là xây dựng tư tưởng học thuật chứ chưa phải là nền học thuật. Trong tình hình đó, với việc đưa ra định hướng tiếp thu những yếu tố mới mẻ, tiến bộ từ bên ngoài vào đồng thời phát huy những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc để canh tân đất nước, Đông Kinh Nghĩa Thục đã “đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử văn hóa – tư tưởng dân tộc” [Nguyễn Văn Hiệu 2003: 160]. Với phương châm, đường lối hoạt động riêng của mình, Đông Kinh Nghĩa Thục đã tạo nên một phong trào cải cách văn hóa có tính toàn quốc và thống nhất, góp phần đưa văn hóa Việt Nam đi vào một thời kỳ mới trong tiến trình lịch sử văn hóa của dân tộc: thời kỳ văn hóa hiện đại.  

 

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

 1.          Chương Thâu (Chủ Biên)  1996: Văn Thơ Đông Kinh Nghĩa Thục – in trong Tổng tập văn học Việt Nam số 21 – HN: Nxb Khoa Học Xã Hội.

2.          Chương Thâu 1997: Đông kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa  đầu thế kỷ XX – HN: Nxb Văn Hoá - Thông Tin.

3.          Đào Trinh Nhất 1938: Đông Kinh Nghĩa thục – Hà Nội: Nxb Mai Lĩnh.

4.          Nguyễn Văn Hiệu 2003: Diện mạo và đặc điểm cơ bản của văn hoá Việt Nam trong buổi đầu tiếp xúc văn hoá Đông - Tây – In trong Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Trong Bối Cảnh Hội Nhập Quốc Tế – Nxb Tp. HCM.

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Trần Văn Bính. Phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc

  • Tạ Ngọc Hải, Nguyễn Văn Kiều. Niềm tin của người dân – Lý luận và thực tiễn

  • Lê Thị Lan. Tư tưởng làng xã ở Việt Nam

  • Tạ Ngọc Tấn. Nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội, con người: Thực trạng và những vấn đề đặt ra

  • Vũ Thị Hằng. Ý niệm về sự bất tử và tái sinh trên đèn đồng Đông Sơn

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 121
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 4 0 3 0
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa nhận thức