logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa nhận thức
Monday, 12 October 2015 16:19

Phạm Quang Long. Vấn đề con người Việt Nam hiện nay nhìn từ các văn kiện quan trọng của Đảng

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
    NHÌN TỪ CÁC VĂN KIỆN QUAN TRỌNG CỦA ĐẢNG

  • Tác giả:

    Phạm Quang Long

  • Chức danh:

    PGS.TS., Khoa Văn học Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội

    Nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội

Phạm Quang Long. Vấn đề con người Việt Nam hiện nay nhìn từ các văn kiện quan trọng của Đảng

   1. Đặt vấn đề

Nói đến xây dựng hệ giá trị thì việc quan trọng nhất là xây dựng con người. Khi tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm Đổi Mới, nhiều ý kiến đánh giá quá trình ấy đã thu được những kết quả quan trọng, thậm chí có những thành quả “mang ý nghĩa lịch sử” nhưng riêng phần xây dựng con người Việt Nam thì không đạt được mục tiêu đề ra. Thậm chí, nhiều nhà khoa học và nhà quản lý còn chỉ ra rằng những nhiệm vụ xây dựng con người trong thời kỳ vừa qua đã thất bại. Đồng thời cũng có những ý kiến băn khoăn là tại sao trong các văn kiện quan trọng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (cả bản năm 1991 và bản bổ sung, sửa đổi năm 2011) và Nghị quyết TW 5 khóa VIII đã đặt ra những định hướng rõ ràng, tích cực, mục tiêu rất cao và trong thực tiễn, các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân đều dành nhiều công sức, nhân lực, tài lực cho sự nghiệp ‘trồng người” mà vẫn không thành công? Thậm chí trong xã hội còn có tâm trạng lo lắng, bất an về những vấn đề của con người hiện nay. Vấn đề đặt ra là nguyên nhân của những yếu kém ấy là do đâu? Đường lối, chủ trương đúng, tài lực đã được đầu tư dù chưa đáp ứng được yêu cầu những cũng không phải là nhỏ, công tác lãnh đạo, chỉ đạo cũng khá quyết liệt, dư luận xã hội đồng tình và đã dồn sức khá nhiều cho mục tiêu cần đạt đến nhưng có một thực tế là cứ sau mỗi năm năm-tương đương với một nhiệm kỳ đại hội, lại thấy một thực tế không vui là những yếu kém không khắc phục được, có mặt ngày càng xấu đi, báo hiệu những nguy cơ ảnh hưởng đến cả “sự tồn vong của chế độ”. Vì vậy cần khảo sát vấn đề này ở những chủ trương, đường lối, kế hoạch tổ chức thực hiện, nghĩa là phải ở cả hai phương diện nhận thức về mặt lý luận và kiểm điểm, đánh giá ở mặt thực tiễn để rút ra những bài học cần thiết. Có người đã cho rằng hình như những kế hoạch, biện pháp xung quanh vấn đề này chưa “bấm” đúng vào chỗ cần bấm nên dù động viên, hô hào, đề ra nhiều quy định, chế tài để ngăn “sự xuống cấp” của đạo đức xã hội vẫn không đem lại hiệu quả cần thiêt. Vậy vấn đề nằm ở đâu? Có những vấn đề gì nằm ở lý thuyết, chỉ đạo? Những bất cập nào nằm ở khâu tổ chức thực hiện? Bài viết này thử đi tìm một phần lời giải cho những câu hỏi trên nhìn từ ba văn kiện quan trọng của Đảng: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (dưới đây gọi tắt là “Cương lĩnh 1991”), Nghị quyết BCHTW khóa VIII năm 1998 (dưới đây gọi tắt là “NQ TW khóa VIII”) và Cương lĩnh xây dựng đất nước - bổ sung, phát triển năm 2011 (dưới đây gọi tắt là “Cương lĩnh 2011”).

2. Những vận động, điều chỉnh về mặt lý luận xung quanh vấn đề xây dựng và phát triển con người trong ba văn kiện

Như đã nói ở trên, những biến đổi đi xuống của môi trường văn hóa nói chung, của đạo đức con người nói riêng đã trở thành những lo lắng cho xã hội, nó gây ra tình trạng bất an về nền tảng tinh thần. Theo kết quả điều tra của một cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 1997 với 3.062 người thì thấy có 20,6% đánh giá đạo đức xã hội tốt, 23,15% là không tốt, 55,99% cho là bình thường. Nếu đánh giá theo khu vực lao động thì ở công nhân là 23,15% , nông dân là 56,42% cho là không tốt. Trước câu hỏi “đạo đức xã hội so với 5-10 năm trước đây thế nào?” thì có 43,07% cho rằng sa sút [Hoàng Bá Thịnh 2014]. Nên nhớ rằng đây là số liệu của hơn 10 năm trước. Không có số liệu cụ thể cho những tình trạng này ở thời điểm hiện tại nhưng gần như ở hội nghị nào của giới chuyên môn hay hội nghị tổng kết của lực lượng công an, kiểm soát, phụ nữ, thanh niên…những kết luận về tình trạng “diễn biến phức tạp” của các loại tội phạm, xuống cấp của đạo đức xã hội…là những báo động có cơ sở.

Trong Cương lĩnh 1991, phần viết về chủ thể của chế độ nêu: “nhân dân lao động làm chủ”. Ở mục 4, phần về con người (không được đưa thành mục riêng mà nằm trong một mục chung về Chế độ xã hội trong thời kỳ quá độ) viết: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Ở mục 5 Chính sách xã hội thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ xã hội và những cố gắng của Đảng giải quyết đường hướng “vì hạnh phúc của nhân dân”, đảm bảo “công bằng, văn minh” cũng chỉ rõ: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội…Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân”. Cũng trong văn kiện này, có lẽ cũng phải qua vài kỳ đại hội, vấn đề xây dựng con người mới lại được nêu ra với những nội dung khá cụ thể. Không dùng khái niệm con người mới như trong đại hội 3 năm 1960 nhưng nội hàm của khái niệm con người đã thể hiện những nội dung mới, được cụ thể hơn ở một vài khía cạnh. “Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; giàu lòng yêu nước và và tinh thần quốc tế chân chính”. Cũng ở văn kiện này, vấn đề gia đình được đặt ra ở vị trí “là tế bào xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ”. Ngoài gia đình, những cộng đồng xã hội nhỏ như xí nghiệp, đơn vị sản xuất, học tập, công tác cũng là những đơn vị được xác định là có vai trò không nhỏ trong việc giáo dục con người. Ngoài ra, ở phạm vi lớn hơn như tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng được đề cập đến như những lực lượng xã hội có vai trò và tác động đến mỗi cá nhân. Và ở đây, những vấn đề về bình đẳng nam nữ, bình đẳng và đoàn kết dân tộc cũng được nhắc đến như một yêu cầu của chính sách xã hội. Và cũng lần đầu tiên, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng được xác định “là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” và xác định tự do lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng là quyền của mỗi người cũng đồng thời với việc chống lại chủ trương lợi dụng tín ngưỡng làm tổn hại tới lợi ích tổ quốc và của nhân dân…Đây là những nội dung mới, được tổng kết và đề xuất từ thực tiễn sau một thời gian khá dài Đảng ta tỏ ra ‘dè dặt” với những vấn đề nhạy cảm này. Sở dĩ nói dè dặt vì hầu như trong nhiều văn bản (từ Đề cương văn hóa 1943 tôn giáo không được đưa vào cương lĩnh văn hóa của Đảng và trong nhiều văn kiện của nhiều kỳ đại hội), vấn đề tôn giáo hầu như không được nêu ra và trong thực tiễn chỉ được nhìn nhận từ góc độ thường xuyên bị lợi dụng để chống phá, gây bất ổn cho chế độ).

Trong Cương lĩnh 2011, khi đúc rút những bài học của cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ, trải qua các giai đoạn đấu tranh giải phóng, tiến hành chiến tranh bảo vệ tổ quốc, xây dựng xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa, qua thực tiễn đổi mới đầy thử thách, đã viết: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, rời xa nhân dân đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”. Đi xa hơn những bài học kinh nghiệm trên, Đảng chỉ rõ mục tiêu mà đất nước Việt Nam phải xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ…; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.

 Lần đầu tiên, trong Cương lĩnh 2011, vấn đề con người được đặt ra trực diện và ở tầm cao hơn nhiều so với các văn kiện trước. “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể lao động và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây đựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước; có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường trực tiếp, quan trọng giáo dục nhân cách”. Vấn đề con người được đặt ra ở trung tâm chiến lược phát triển một xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; được sống ấm no, tự do, hạnh phúc” là một bước tiến lớn trong mục tiêu cho con người, vì con người với tư cách là chủ thể của một xã hội. Cương lĩnh 2011 cũng đề cập đến vấn đề các đơn vị hành chính, môi trường học tập, lao động, công tác phải trở thành môi trường rèn luyện và bồi dưỡng nhân cách cho con người. Các mục về chính sách xã hội, giáo dục đào tạo, tín ngưỡng và tôn giáo cũng được nhắc đến, không có sự phát triển mới mà vẫn theo tinh thần của Cương lĩnh 1991. Nói như vậy không có nghĩa là trừ vấn đề con người, những vấn đề còn lại vẫn như cũ. Điểm mới ở đây, như đã phân tích ở trên, con người và quyền con người được đặt trong trung tâm của chiến lược phát triển và những yếu tố còn lại như những yếu tố điều kiện, yếu tố môi trường đảm bảo cho con người được phát triển toàn diện, trong đó yếu tố dân chủ, công bằng cho mọi người như những yếu tố quyết định để con người vươn lên một cuộc sống tự do và hạnh phúc. Tính chất dân chủ sẽ tạo ra những biến chuyển lớn trong các quan hệ xã hội, trong đó con người sẽ được tạo những tiền đề vô cùng quan trọng để được tự do phát triển nhân cách với tư cách là một nhân cách văn hóa trong quan hệ giữa người với người. Công bằng và dân chủ là những khái niệm chỉ trình độ phát triển của xã hội đã đạt đến mức cao, ở đó, những tiền đề về mặt pháp lý, chứ không phải đạo đức, đảm bảo cho quyền con người được thực thi. Công bằng và dân chủ được Hiến pháp công nhận và được pháp luật bảo vệ sẽ tạo cho con người một môi trường tự do sống, làm việc và hưởng thụ những thành quả của mình theo những quan hệ dân sự. Tất nhiên tính chất công bằng và dân chủ phải được thực thi trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống và xã hội có đủ các chế tài đảm bảo cho quá trình dân chủ, công bằng ấy đi vào đời sống như nó cần phải như vậy.

NQTW khóa VIII là một nghị quyết chuyên đề về văn hóa nên đã trình bày khá chi tiết và cụ thể về thực trạng của văn hóa, nêu ra những kết quả đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển, đánh giá những nguyên nhân yếu kém và chỉ ra phương hướng khắc phục. Yếu kém lớn nhất, dễ thấy nhất và gây nhức nhối cho xã hội nhất là sự xuống cấp của đạo đức xã hội không còn ở phạm vi nhỏ lẻ nữa mà đã trở thành một lo lắng, gây ra những bất ổn cho xã hội. Tình trạng “chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ…vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thày trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Mê tín, dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới tràn lan”… “Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn chặn có hiệu quả”. Từ những đánh giá ấy, vấn đề xây dựng một nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là định hướng cần đạt tới, trong đó mục tiêu về mặt con người được nêu ra với 5 phẩm chất (mà văn bản gọi là “những đức tính”) rõ ràng là:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước khỏi đói nghèo và lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ thiên nhiên và môi trường sinh thái.

- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực”.

Ngoài ra, vấn đề môi trường văn hóa để con người được phát tiển toàn diện cũng được coi trọng, trong đó vấn đề gia đình và môi trường sống, làm việc, môi trường sinh hoạt của cá nhân góp phần hình thành nhân cách được chú ý.

3. Một số nhận xét

(a) Trong cả ba văn bản này, vấn đề con người được đặt ra ở tầm mức quan trọng hơn nhiều so với các văn kiện trước đó của Đảng. Được xác định là điều kiện cần, điều kiện tiên quyết để thực hiện nhiệm vụ chiến lược “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, xây dựng đất nước theo hướng “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, văn bản cũng nhấn mạnh sự phát triển của xã hội phải đạt được mục tiêu làm cho con người có đủ điều kiện để “có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”. Đây là một định hướng xuyên suốt trong suốt thời kỳ xây dựng và phát triển xã hội. Ngoài ra, những chính sách về giáo dục, đào tạo, về thực hiện công bằng xã hội cũng được nhấn mạnh theo hướng tạo cho con người những điều kiện để được sống trong tự do, được vươn lên trong bình đẳng giữa các nhóm người, các vùng miền, dân tộc. Quá trình xây dựng các chính sách gắn với việc thực hiện định hướng này đã chứng tỏ sự quan tâm và tạo điều kiện để con người trở thành trung tâm, mục tiêu, đích phấn đấu của chế độ. Tính ưu việt của chế độ hay nói theo chính thống là “tính định hướng xã hội chủ nghĩa” được đặt ra một cách công khai, trở thành đường lối và chính sách, được bảo trợ của pháp luật.

(b) So với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 có một bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về vấn đề con người. Lần đầu tiên trong một cương lĩnh – văn kiện được coi là quan trọng nhất chỉ đạo cho những đường hướng phát triển trong nhiều năm, qua nhiều kỳ đại hội, sau đó đã được đưa vào Hiến pháp nước cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 – đã ghi nhận quyền con người và vị trí của con người trong chiến lược phát triển của đất nước: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển sẽ định hướng lấy con người là mục tiêu cuối cùng cho những chiến lược hay kế hoạch phát triển ở từng lĩnh vực hoặc trong chiến lược tổng thể. Thực tiễn đã chứng minh: nếu chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà không chú trọng vấn đề con người sẽ phải trả giá bởi những hệ quả của quá trình phát triển này. Xin đơn cử hai ví dụ thuộc lĩnh vực đô thị hóa và phát triển mạng lưới giáo dục và tăng tỉ lệ sinh viên. Một làng quê đang sản xuất nông nghiệp, dân cư chủ yếu là làm nông nghiệp, chỉ có một số làm nghề thủ công truyền thống. Khi làng biến thành phường, đất đai bị thu hồi nhưng không có sự chuẩn bị thỏa đáng cho quá trình chuyển đổi (không đào tạo nghề, không chuyển đổi nghề…) sẽ gây ra những hậu quả xã hội khó lường. Bằng một quyết định hành chính (chuyển từ làng sang phường), ruộng đất bị thu hồi phục vụ quá trính đô thị hóa, người nông dân không còn đất canh tác, lại không có nghề nghiệp, người dân và những giá trị truyền thống gia đình, cộng đồng sẽ dần bị cuộc sống khác trước (bị đô thị hóa) làm cho tha hóa đi. Những giá trị cũ bị mai một, thay đổi, những giá trị mới chưa hình thành, con ngưởi bị bứt dần khỏi những ràng buộc từ ngàn đời, chuyển rất nhanh theo những xu hướng mới, trong đó có nhiều yếu tố ngoại lai, không phù hợp. Con người dần bị cắt đứt khỏi truyền thống và những quan hệ truyền thống ngay chính trên quê hương mình. Đất đai và truyền thống canh tác, đạo đức cũ không còn. Người dân tứ xứ đến mua đất, xây dựng nhà cửa và định cư tại đây. Rất nhiều các vấn đề xã hội khác phát sinh về cơ sở hạ tầng, trường học, bệnh viện; tệ nạn xã hội phát sinh. Nhiều giá trị cũ do cộng đồng làng xã xây dựng bị sao nhãng, giá trị mới chưa kịp hình thành. Không có ai và tổ chức nào quản lý được sự phát triển tự phát này và xã hội phải gánh chịu hậu quả.

Ví dụ thứ hai về vấn đề này nằm trong sự phát triển giáo dục thiếu kiểm soát như hiện nay. Do nhận thức chưa đầy đủ về tăng số lượng sinh viên chưa tương ứng với dân số, do nhận thức về mục tiêu nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực chưa đúng nên trong khoảng thời gian gần đây, số lượng các trường đại học và cao đẳng ở ta tăng quá nhanh. Do chưa được chuẩn bị các điều kiện về trường sở, giảng viên nên chất lượng sinh viên thấp, ngành nghề đào tạo không phù hợp với nhu cầu xã hội. Theo thống kê, hiện có 78.000 sinh viên ra trường không tìm được việc làm, nhiều sinh viên phải bỏ chuyên môn đã được đào tạo, đi làm công nhân. Nhiều ngành và trường không tuyển sinh được, có nguy cơ đóng cửa. Những hệ lụy ở đây không chỉ là sinh viên không tìm được việc làm mà còn gắn với nhiều vấn đề về đời sống, kinh tế, quan hệ gia đình…gắn với gia đình những sinh viên ấy vì phần lớn những sinh viên ấy đều có nguồn gốc ở nông thôn, vùng kém phát triển. Những hậu quả về đầu tư sai sẽ kéo theo nhiều hệ lụy khác mà xã hội cần phải giải quyết là vì thế. Hai ví dụ nêu ra ở trên cho thấy rất rõ điều này: chính sách phát triển không đúng, mục tiêu vì con người không đạt được mà lại làm phát sinh ra những vấn đề xã hội không có lợi cho sự phát triển, làm lệch mục tiêu vì con người và cho con người.

Một bước tiến lớn trong Cương lĩnh 2011 là đã khẳng định quyền con người, “tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân đặt trong tương quan với quyền công dân”. Lần đầu tiên vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích dân tộc, quốc gia và quyền làm chủ của nhân dân được đặt ra và được luật pháp bảo vệ. Nếu không có những chế định về mặt Hiến pháp và những cách thức tổ chức thực hiện đảm bảo luật pháp được thực thi thì những tư tưởng lớn này vẫn chỉ là những lời kêu gọi, những định hướng. Trong thực tế, quyền con người chưa được bảo đảm như đã nêu trong cương lĩnh, trong văn kiện của đại hội. “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, “nhân dân làm chủ” là những định hướng rất tiến bộ nhưng nó đòi hỏi phải được xác định bằng những cơ chế, được luật pháp bảo hộ thì mới có thể được thực thi. Hiện nay người dân chưa được quyền tiếp cận những lĩnh vực mà lẽ ra họ phải được hưởng như quyền được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trong dịch vụ vay vốn, dịch vụ hỗ trợ y tế, hưởng thụ văn hóa, cung cấp thông tin, tiếp cận quyền lực… Dù các văn bản hướng dẫn, kể cả pháp luật cũng đã có những điều khoản cho việc này nhưng trong thực tiễn, nó chưa được thi hành đúng như quy định. Cần có thời gian để xã hội tập được thói quen thi hành pháp luật đúng như Hiến pháp đã nêu ra cả ở những văn bản cần và đủ cho thi hành Hiến pháp và thói quen thượng tôn pháp luật cả ở người dân lẫn những cơ quan hành pháp. Dù sao vấn đề con người và quyền con người được nêu ra trong Cương lĩnh 2011 là một bước tiến về nhận thức. Nó đặt ra những tiền đề để thực hiện và hoàn chỉnh dần.

(c) Trong những định hướng về phát triển con người, cả trong Cương 1991 lẫn Cương lĩnh 2011 đều nêu ra những định hướng lớn, mang tầm vóc chiến lược. Nhưng, như đã nói ở trên, trong những văn bản này, chưa nêu rõ vấn đề con người cần phải được chú ý xây dựng theo những tiêu chí cụ thể nào mà mới chỉ nêu ra định hướng về mục tiêu con người được hưởng những gì ở thành quả của chế độ xã hội, trong đó nhiều vấn đề còn mang tính lý tưởng, rất khó đạt được trong thực tế. Ví như tiêu chí “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động” là một tiêu chí về hình thức rất logic, khoa học và đầy tinh thần nhân văn nhưng nếu cứ tính theo lao động và đóng góp của công chức nhà nước thì rõ ràng những nội dung nêu ra ở đây mang tính định hướng, khẩu hiệu nhiều hơn là những điều có thực, được thực hiện trong cuộc sống. Con người ở xã hội đó “làm theo năng lực, hưởng theo lao động, được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công”, “có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” vẫn chỉ là viễn cảnh trong tương lại, bởi trong thực tế, những điều này chưa được đảm bảo cả ở phương diện chưa có cơ sở vật chất để thực hiện và cả những quy định mang tính pháp lý, chính sách cũng chưa đầy đủ. Trong điều kiện ấy, những Chính sách xã hội đúng đắn, (như tên gọi của một mục trong Cương lĩnh xây dựng đất nước và Cương lĩnh 2011) đã nêu, dù mang tính phổ quát, định hướng để thực hiện nhưng cũng mới chỉ giải quyết được những mục, những phần mang tính cục bộ chứ chưa thể giải quyết được ở tầm vóc toàn xã hội như mục tiêu nêu ra. Trong Cương lĩnh 2011 nêu vấn đề “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội…Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân” cũng vẫn là những định hướng. Cũng trong văn kiện này, có lẽ cũng phải qua vài kỳ đại hội, vấn đề xây dựng con người mới lại được nêu ra với những nội dung khá cụ thể, “Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”. Những định hướng này rất đúng nhưng rõ ràng nó vẫn thiếu những nội dung cụ thể. Đó là những yêu cầu về phẩm chất chứ cũng chưa phải là những hệ giá trị và điều này cũng giống như trong NQTW khóa VIII, những tiêu chí về con người vẫn chung chung, vẫn là những định tính chứ không phải những nội dung hay tiêu chí cụ thể.

Trong những phẩm chất hay tiêu chí về con người được Cương lĩnh xây dựng đất nước, Cương lĩnh 2011 và NQTW khóa VIII nêu ra như một hiện tượng văn hóa, một sản phẩm xã hội vừa là kết quả của một quá trình xây dựng vừa như một nhu cầu cần có, phải có cho sự nghiệp cách mạng nhưng việc nghiên cứu những giá trị văn hóa truyền thống và mới này chưa được xem xét và chỉ ra một cách rành mạch, cụ thể. Những phẩm chất chung và riêng, truyền thống và hiện đại cũng mới chỉ được nhắc đến một cách định tính, như một nét thuộc về giá trị tinh thần, ai cũng biết, ai cũng nói tới nhưng nếu xét một cách cẩn trọng, khoa học về nó thì lại chưa rõ ràng. Ví dụ nói về lòng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc thì cũng cần chỉ rõ trong truyền thống nó được thể hiện ra như thế nào, thời chiến tranh thế nào, thời kỳ xây dựng đất nước thế nào…nghĩa là nó đòi hỏi phải chỉ ra được những nội dung cụ thể, những giá trị để yêu cầu mọi người thực hiện theo những tiêu chí đó chứ không thể nói chung chung. Thêm nữa, nhiều khái niệm cũng cần được xác định cụ thể hơn, sát với thực tiễn hơn. Trong 5 phẩm chất về con người đã nêu cũng cần sắp xếp lại, lược đi những yếu tố trùng nhau, ngắn gọn và cụ thể hơn.

(d) Vấn đề gia đình, môi trường có vai trò quan trọng để hình thành nhân cách con người, làm tiền đề cho sự phát triển bền vững cũng được các văn kiện nêu ra và đặt trong mối quan hệ khăng khít với sự phát triển con người, cộng đồng, xã hội. Đây là một bước tiến trong tư duy về con người. Gia đình như nhân tố quan trọng đối với cá nhân và là tế bào lành mạnh đảm bảo cho quan hệ xã hội phát triển theo hướng lành mạnh không tách rời khỏi cộng đồng dân cư, môi trường làm việc, đơn vị hành chính mà cá nhân ấy gắn bó. Định hướng về môi trường văn hóa đã xác định nhưng cần có những cơ chế phù hợp để nó phát huy tác dụng trong việc giáo dục, hình thành nên nhân cách mỗi người. Nên chăng nhấn mạnh thêm cả các quan hệ mang tính pháp lý bằng những quy định, chính sách bởi không bao giờ những vận động thuyết phục, dù tốt nhất cũng không thể thay thế bởi những định chế, khế ước xã hội. Sự kết hợp giữa vận động, thuyết phục với những quy định bắt buộc là cần thiết, trong đó những quy định bắt buộc cần được chú ý hơn.

(đ) Cả ba văn bản đều nêu vấn đề xuống cấp của đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội, trong đó những vấn đề về tham nhũng, suy thoái, tệ nạn xã hội đang làm băng hoại con người và những giá trị xã hội, có nguy cơ làm suy thoái xã hội cả ở sự phát triển bền vững lẫn đến tương lai dân tộc. Chỉ ra những tệ nạn đó và kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện của nó nhưng cuộc chiến này qua thực tiễn không đạt được mục tiêu mà qua mỗi kỳ đại hội, những cảnh báo về nguy cơ của tình trạng đó lại trầm trọng hơn. Trong các văn bản trên đều chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan đồng thời cũng nêu ra cả những phương hướng khắc phục khá cụ thể. Bốn nguyên nhân khách quan trong đó nguyên nhân quan trọng hàng đầu là sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã gây ra những biến động lớn trong nhận thức chính trị, làm suy giảm vào những lý tưởng xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa. Điều đó hoàn toàn đúng nhưng ở đây chưa lý giải tính chất ảo tưởng, duy ý chí của đường lối tuyên truyền của chủ nghĩa xã hội mang tính không tưởng, thiếu cái nhìn thực tiễn, chỉ chú trọng đến con người chính trị mà chưa chú ý đến tính thực tiễn của những cách tuyên truyền này. Thực tiễn không đúng với tuyên truyền nên tính thuyết phục yếu. Mặt khác, do không chấp nhận những cách nói khác, nói ngược (dù đúng) nên tình trạng hình thức, chủ nghĩa thành tích dẫn đến những dối trá cả trong hệ thống tổ chức lẫn tổ chức xã hội và đạo đức xã hội. Còn khi nói đến những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường thì cũng chỉ ra những khía cạnh kinh tế, khía cạnh tư tưởng, nghĩa là những cái chung chung, chưa nói đến những mặt cụ thể, đến những thay đổi và điều chỉnh về hệ giá trị và chưa nói đến trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong việc điều chỉnh tổng thể cho phù hợp với cơ chế đó. Trong những khuyết điểm cụ thể có nói đến việc đầu tư yếu nhưng thực ra trong khâu đầu tư còn để xảy ra tình trạng vừa thiếu vốn, vừa thiếu khả thi, vừa thiếu kế hoạch, vừa dàn trải, không có trọng điểm, gây lãng phí lớn. Về lý thuyết, nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu, khảo sát cả về mặt lý thuyết lẫn tổng kết thực tiễn nhưng đã có những kết luận mang tính duy ý chí nên khi triển khai khắc phục hoặc phát triển rất ít hiệu quả.

Nói về những nguyên nhân chủ quan, văn kiện khẳng định: Đảng chưa “lường hết những tác động tiêu cực” khi chỉ đạo phát triển kinh tế, “chưa đặt đúng vị trí của văn hóa, chưa coi trọng công tác giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả hai mặt “xây” và “chống” trong lĩnh vực văn hóa. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế… Chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hóa (trong đó có chiến lược phát triển con người xứng đáng với nó) song song với chiến lược phát triển kinh tế”. Nói cho công bằng thì những chiến lược về văn hóa đã được đặt ra từ sớm trong chiến lược cách mạng, được ứng dụng trong một thời gian dài nhưng vấn đề là những chiến lược đó lại chỉ là những phương châm, nguyên tắc, định hướng trong khi những nhiệm vụ lại là những công việc rất cụ thể, gắn với từng lĩnh vực, luôn vận động trong đời sống thực tiễn, cần được điều chỉnh và bổ sung thường xuyên. Đến đây phải đặt câu hỏi vì sao cả bộ máy của Đảng, chính quyền, các cơ quan hành pháp và nhân dân đều đồng tình, đầu tư rất nhiều tiền bạc, công sức vào mà không thành công?

Theo điều tra xã hội học về phòng chống tham nhũng, hầu hết các công chức nhà nước giữ vị trí quản lý, những công chức nắm các nguồn lực cấp phát về tài chính, đất đai, những công chức làm việc ở những vị trí có nghĩa vụ phải xem xét, giải quyết yêu cầu của công dân và xã hội…đều có thu nhập cao hơn nhiều lần mức họ được hưởng theo quy định của pháp luật, tài sản của họ có được nhiều hơn số họ tích lũy được từ lương và mức sống của họ cao hơn mức sống của những người làm công ăn lương khác. Khoảng cách giầu nghèo giữa họ và những người làm công ăn lương khác ngày một xa hơn. Ở đây có vấn đề cơ chế đẻ ra sự lợi dụng quyền hạn, lạm dụng quyền lực và những kẽ hở cho tham nhũng tồn tại. Vì vậy nạn chạy chức, chạy quyền ngày càng tăng là do khi ở một vị trí quản lý nào đó thu nhập của người quản lý mặc nhiên được tăng lên nhiều lần so với việc chỉ làm công ăn lương. Những ưu đãi được đảm bảo bằng chính sách của Nhà nước (về phụ cấp, ưu đãi về xe, nhà và các quyền lợi khác dù chưa cao so với các nước khác nhưng cũng lớn hơn nhiều mức của người bình thường) cũng vô tình kích thích mọi người phấn đấu để được đề bạt vào các vị trí lãnh đạo ở tất cả các cấp, các ngành. Bản chất của con người bao giờ cũng mang tính tư lợi. Con người bản năng, con người kinh tế, con người cá nhân, con người hiện thực khác nhiều với con người chính trị, con người đạo đức, con người chức năng…mà chúng ta đã tổng kết. Ở con người chính trị, con người đạo đức hay con người chức năng vẫn tồn tại những con người cá nhân, bản năng…mà ở đó những yếu tố vị kỷ, tư lợi, thấp kém về mặt nhân phẩm luôn thường trực. Ở đây, nếu để kiềm chế những tác hại của các yếu tố này cần những chế tài, những quy định pháp lý có ý nghĩa trừng phạt và răn đe mang tính hiệu quả hơn là những thuyết phục, vận động. Đồng thời, những cơ chế kiểm soát, giám sát, phát hiện, xử lý cần thiết thực và hiệu quả hơn.

(e) Qua những luận điểm cơ bản trong các văn kiện của Đảng về vấn đề con người, có thể thấy qua từng thời gian, nhận thức của Đảng về vấn đề con người càng đa diện và tiệm cận thực tiễn hơn. Vấn đề con người là trung tâm của chiến lược phát triển là hết sức đúng đắn, đầu tư cho con người là đầu tư cho tương lai, cho tiền đồ phát triển của dân tộc; chăm lo cho con người là chăm lo cho nhân tố quyết định sự phát triển và trình độ phát triển của xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ. Những định hướng ấy là đúng đắn nhưng nó chỉ có thể trở thành động lực cho phát triển, đảm bảo cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, nhân dân “được ấm no, hạnh phúc” khi những định hướng, chủ trương phải được chuyển hóa thành những cơ chế, chính sách phù hợp. Mà muốn vậy cần có sự nghiên cứu khoa học những yêu cầu về mặt xã hội, con người, gia đình, môi trường để con người phát triển toàn diện trong một tổng thể những chính sách kinh tế, xã hội…khác nữa. Một xã hội thực sự công bằng, dân chủ, con người thực sự được tôn trọng, trở thành tài sản của đất nước, quyết định sự phát triển của đất nước khi con người được phát triển nhân cách trong một môi trường giàu tính nhân văn, trong một quan hệ xã hội bình đẳng, tự do, thượng tôn pháp luật, tôn trọng quyền con người. Đó là mục tiêu và cũng là nội dung cơ bản nhất của Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 và NQTW khóa VIII của Đảng.

Tài liệu tham khảo

1.         Hoàng Bá Thịnh 2014: Giá trị văn hóa gia đình - tế bào lành mạnh của sự phát triển. – In trong: “Văn hóa sức mạnh nội sinh của sự phát triển”. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

2.         Nguyễn Minh Thuyết 2014: Nhìn lại kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng con người Việt Nam. – In trong: “Văn hóa sức mạnh nội sinh của sự phát triển”. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

3.         Phạm Quang Long 2014: Xây dựng văn hóa dân tộc thời hội nhập. – In trong: “Văn hóa sức mạnh nội sinh của sự phát triển”. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

4.         Phùng Hữu Phú 2014: Xây dựng, phát triển văn hóa - nguồn lực nội sinh của phát triển: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. – In trong: “Văn hóa sức mạnh nội sinh của sự phát triển”. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

5.         Trần Ngọc Thêm 2014: Tổng quan những bài học lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa từ đổi mới đến nay. – In trong: “Văn hóa sức mạnh nội sinh của sự phát triển”. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.

 

Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Trần Văn Bính. Phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc

  • Tạ Ngọc Hải, Nguyễn Văn Kiều. Niềm tin của người dân – Lý luận và thực tiễn

  • Lê Thị Lan. Tư tưởng làng xã ở Việt Nam

  • Tạ Ngọc Tấn. Nhận thức lý luận về văn hóa, xã hội, con người: Thực trạng và những vấn đề đặt ra

  • Vũ Thị Hằng. Ý niệm về sự bất tử và tái sinh trên đèn đồng Đông Sơn

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 101
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 1 0 9 6
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa nhận thức