Lịch ta đã được các giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Nguyễn Xiển quan tâm nghiên cứu, sau đó được ông Nguyễn Mậu Tùng kế tục, bởi vậy so với lịch Tàu đã có một số cải tiến.
Điều rõ rệt nhất là Tết Mậu Thân, ta ăn Tết vào ngày 29-1-1968 trong khi theo lịch cũ của Tàu ngày Tết là ngày 30-1-1968. Năm sau Tết Kỷ Dậu ở ta cũng đến sớm hơn Tết Trung Quốc một ngày vào 16-2-1969 chứ không phải 17-2-1969 như lịch cũ. Hơn nữa, Tết Nguyên đán ất Sửu ở nước ta lại đến vào ngày 21-1-1985 sớm hơn Tết Trung Quốc gần một tháng (20-2-1985). Đó là vì ta đã tính lịch căn cứ vào múi giờ của ta là múi số 7, còn Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh ở múi số 8. Mồng một Tết bao giờ cũng là ngày sóc, ngày đó trái đất, mặt trăng, mặt trời xếp thẳng hàng với nhau. Tết Mậu Thân, sự giao hội đó xảy ra ở nước ta vào 0 giờ ngày 29-1 lúc ấy ở Bắc Kinh mới là 23 giờ của ngày hôm trước. Phải đợi tới năm Đinh Hợi, Tết Nguyên đán ở ta sẽ lại đến sớm hơn Trung Quốc một ngày vào 17-2 năm 2007 còn Trung Quốc là 18-2-2007.
Ta hay nói Tết đến là sang xuân có đúng không? Không hoàn toàn đúng, tuy Tết bao giờ cũng có hoa đào và hoa mai, vì năm nay theo lịch thì lập xuân tức đầu xuân là ngày 4-2 mà mồng một Tết lại vào 16-2-1999, như vậy Tết đến sau lập xuân 12 ngày. Còn năm ngoái, Tết Mậu Dần vào ngày 28-1-1998 trước ngày đầu xuân những bảy ngày. Tại sao như vậy? Bởi vì Tết Nguyên đán tính theo chu kỳ mặt trăng dài từ 29 ngày 6 giờ đến 29 ngày 20 giờ. Còn dương lịch theo sự vận động của trái đất chung quanh mặt trời. Theo dương lịch một năm có 365,25 ngày, trong khi đó năm âm lịch gồm 12 tháng dài 354,355 ngày, năm nhuận 13 tháng dài 383, 384 ngày. Trong lịch, người ta phải lo bố trí tháng nhuận sao cho ngày Tết Nguyên đán tuy không trùng với ngày lập xuân, nhưng cũng không quá xa ngày lập xuân bao nhiêu. Từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nhà thiên văn Hy Lạp Mê-tôn đã nhận ra chu kỳ 19 năm dương lịch chứa 235 tuần trăng. Do đó, lịch Tàu bố trí bảy tháng nhuận trong chu kỳ 19 năm, và tháng nhuận không bao giờ là các tháng giêng, mười một và chạp vì trong các tháng đó chuyển động biểu kiến của mặt trời nhanh hơn bình thường. Thông thường ngày Tết Nguyên đán tuy có thay đổi từng năm, nhưng thường là từ 20-1 đến 20-2 dương lịch là chậm nhất. Sau 19 năm, ngày Tết lại trùng lặp theo ngày dương lịch. Thí dụ Tết năm nay vào 16-2-1999 thì 19 năm trước, Tết cũng vào 16-2-1980; nhưng 19 năm trước nữa Tết vào các ngày 15-2-1961 và 15-2-1942 sớm hơn một ngày; 19 năm trước nữa Tết lại đúng vào 16-2-1923 và 16-2-1904.
Trên đã nói, các nhà khoa học của ta đã chú ý cải tiến lịch ta so với lịch Tàu, song vẫn để nguyên các tiết liên quan tới mùa vụ và thời tiết theo lịch Tàu. Theo ý chúng tôi, trên lịch ta chỉ có bốn tiết còn có ý nghĩa đối với nước ta: xuân phân (giữa xuân), hôm đó ngày dài bằng đêm, là ngày hoàng đạo gặp xích đạo khi mặt trời chuyển từ phương nam lên phía bắc; từ hôm đó ngày dài dần cho tới hạ chí (giữa hè), hôm đó mặt trời biểu kiến lên tới Bắc chí tuyến, ngày dài nhất và đêm ngắn nhất; sau đó, mặt trời trở lại phương nam, ngày ngắn dần tới khi hoàng đạo gặp xích đạo ở điểm thu phân (giữa thu), hôm đó ngày dài bằng đêm; từ hôm đó ngày ngắn dần, đêm dài ra và dài nhất vào ngày đông chí (giữa đông), là ngày mặt trời xuống tới Nam chí tuyến (chí tuyến Ma kết). Bốn ngày đó là những ngày cố định trong dương lịch: 21-3, 22-6, 23-9 và 22-12. Những ngày đó là những ngày đầu mùa khí hậu ở Bắc bán cầu ở các nước phương Tây, đồng thời là giữa mùa khí hậu ở vùng Trung nguyên của Trung Quốc. Nhưng sang nước ta các tiết chỉ mùa và tiết khí hậu đó trở nên vô nghĩa, nhất là đối với các vùng nằm ở phía nam đèo Hải Vân, một ranh giới khí hậu được mọi người công nhận.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa chính: mùa gió mùa đông bắc dài bốn tháng rưỡi, từ giữa tháng 11 đến hết tháng 3; mùa gió mùa hè cũng dài khoảng bốn tháng rưỡi, từ giữa tháng 5 đến hết tháng 9; mùa xuân ngắn chỉ dài một tháng rưỡi từ đầu tháng 4 đến giữa tháng 5 là một mùa chuyển tiếp; mùa thu cũng ngắn một tháng rưỡi từ tháng 10 đến giữa tháng 11 cũng là một mùa chuyển tiếp. Phía nam đèo Hải Vân hầu như quanh năm nóng chỉ có hai mùa khí hậu: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 11 còn lại là mùa khô, mỗi mùa dài sáu tháng. Nhưng cũng có năm như 1998 mùa khô kéo dài tới bảy tháng.
Như vậy, việc ghi các tiết khí hậu của Trung Quốc trong các cuốn lịch kể cả lịch bỏ túi đối với chúng ta trở nên vô nghĩa. Chẳng hạn, tiết Vũ thủy (nước mưa vào ngày 19-2), tiết Kinh trập (sâu nở vào ngày 6-3) không đúng vì còn đang là mùa mưa phùn, gió bắc; tiết Thanh minh (trời trong sáng vào ngày 5-4), cũng không đúng vì đầu tháng 4, tuy có ấm hơn, nhưng vẫn còn mưa phùn và thường thì trời còn âm u; tiết Cốc vũ (mưa rào vào ngày 20-4) chưa chắc có mưa rào; tiết Tiểu mãn (mới kết hạt vào ngày 21-5) chỉ đúng với mùa vụ Trung Quốc, bên ta nhiều người nói tới lũ tiểu mãn, nếu đúng là quy luật nhiều năm, thì nên ghi: lũ nhỏ vì đầu tháng 5 đã bắt đầu mùa mưa; tiết Mang chủng (hạt mọc râu vào ngày 6-6) không có ý nghĩa gì với ta! Các tiết Tiểu thử (nắng nhẹ vào ngày 7-7) và Đại thử (nắng gắt vào ngày 23-7) chỉ đúng một phần, vì hai tháng 6 và 7 đều nắng nóng cả. Tiết Xử thử (nắng muộn vào ngày 23-8) có thể đúng vì hai tháng 8 và 9 còn nắng, tuy đêm có dịu chút ít. Tiết Bạch lộ (sương trắng vào ngày 8-9) chỉ đúng với vùng Trung Nguyên Trung Quốc. Hai tiết Hàn lộ (sương giá vào ngày 8-10) và Sương giáng (sương sa vào ngày 23-10) hơi sớm đối với miền bắc nước ta! Còn Tiểu tuyết (tuyết nhẹ vào ngày 22-11) và Đại tuyết (tuyết lớn vào ngày 7-12) thì không thể có, dù trên đỉnh Hoàng Liên Sơn!
Thế thì các nhà làm lịch và in lịch ghi vào làm gì để cung cấp những thông tin ghi bằng những từ khó hiểu lại vô nghĩa ngay cả đối với miền bắc, huống chi đối với miền nam!
Việt Nam nằm giữa xích đạo và bắc chí tuyến mặt trời đi qua thiên đỉnh tới hai lần tại các điểm. Những ngày đó buổi trưa mặt trời đứng bóng thường là những ngày rất nóng. Các nhà thiên văn hãy ghi các ngày mặt trời qua thiên đỉnh ở TP Hồ Chí Minh, ở Huế và ở TP Hà Nội. Qua thống kê nhiều năm, các nhà khí tượng hãy ghi vào lịch ngày bắt đầu lũ sớm, rồi lũ chính ở miền bắc, ở đồng bằng Cửu Long, mùa bão bắt đầu ở ba miền, mùa gió Tây khô nóng ở miền trung, mùa gió chướng ở Nam Bộ, v.v. Chúng tôi muốn biết các vụ: đông-đông xuân, xuân, xuân hè, hè thu, v.v. bắt đầu từ tháng nào, ở đâu. Chúng tôi suy nghĩ đó là những thông tin có ích cho cả người lãnh đạo, lẫn người nông dân và cả khách du lịch. Rất mong Nhà nước nên sớm giao đề tài lịch pháp và mùa vụ Việt Nam cho một số nhà thiên văn kết hợp với Viện Khí tượng-Thủy văn thực hiện đề tài thiết thực này. Tôi mong trong lịch bỏ túi năm 2001 chỉ còn ghi những thông tin có ích cho người Việt Nam chúng ta!
Nguồn: Trí tuệ Việt Nam