Với tư cách là một giai điệu trong dòng nhạc ngũ cung, có giá trị sử dụng độc lập như một ca khúc và còn có khả năng kết hợp với nhiều giai điệu khác trong tổng phổ của nó. Trong nghệ thuật cải lương, vọng cổ có giá trị sử dụng rất đa dạng và có thể xem là một biểu trưng cao nhất ở địa hạt này.
Trong hệ thống âm nhạc cải lương rất mênh mông giai diệu, tổng thể của một vở diễn hay chương trình được chia thành nhiều hệ thống đơn thể (riêng lẻ) hay nói cách khác, trong tổng thể của nó còn có nhũng cấu trúc theo tìm tập hợp tham gia của từng nhóm hơi - điệu. Sự đa dạng phong phú ấy, chưa tính đến các dòng âm nhạc khác can dự vào một đơn vị biểu diễn, như : nhạc ta, nhạc Tàu, nhạc Tây, nhạc Ấn,... dung lượng của mỗi dòng nhạc, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia còn tùy thuộc vào ý đồ các tác giả vở diễn (nhạc sĩ, tác giả kịch bản, đạo diễn) trong quá trình xây dựng tác phẩm sân khấu. Có khi do tính chất hoặc thể tài kịch bản, nên có dòng nhạc không xuất hiện. Nhưng bất cứ hình thức nào của cải lương : sàn diễn, truyền thanh, truyền hình, băng dĩa... cũng đều không thể thiếu bóng dáng của bài vọng cổ, nếu không có nó khó thành cải lương hay. Đây là đặc điểm khẳng định - vọng cổ là biểu trưng "độc nhất vô nhị” của cải lương.
Khán giả xem cải lương hay nghe cải lương, cũng chờ đợi, nghệ sĩ lên vọng cổ... xuống "hò'', tựa hồ như họ đang nín thở để thưởng thức. Và, ngất ngây thả hồn theo làn hơi chất giọng ngọt ngào của thanh âm mà diễn viên truyền đi. Cũng chính qua bài vọng cổ, mà nhiều nghệ sĩ cải lương đã tạo tên tuổi lẫy lừng trong công chúng. Có thể ví như bản vọng cổ là "vùng đất màu mỡ'' cho những giọng ca trở thành “hạt giống đỏ” và họ còn tạo phong cách riêng trong ca ngâm. Bản hay bài vọng cổ (bản là bản nhạc, bài là lời ca) không chỉ thuần túy là một thể loại ca ngâm, bất cứ ai cũng nghe được và có thể ca được, mà nó còn là một giai điệu đặc biệt về tính năng và tác dụng rộng lớn. Đó cũng là nét khác biệt của vọng cổ, so với hàng trăm thể điệu khác trong hệ thống âm nhạc tài tử - cải lương. Nghìn xưa cũng đã xây thành một hệ thống riêng cho bản vọng cổ, theo hệ thống mở từ nhạc sĩ Cao Văn Lầu khai sinh ra nó (1919) nhịp đôi – 20 câu, sau đó nhiều tác giả mở rộng tiết tấu nhịp 4,8,16,32. Dù trải qua quá trình dài trong lịch sử cải lương, vọng cổ vẫn là một giai điệu chủ lực nhất, phong phú nhất và là biểu trưng cao nhất.
Mỗi diệu thức có nhiều thể điệu (bài bản), một giai điệu có nhiều âm sắc nên có nét hay riêng, chức năng thẩm mỹ đều có tính chất riêng. Bắc thì xôm tụ, hùng hồn. Bắc lễ (hạ) hùng mạnh trang nghiêm. Nam thì vừa tự sự, buồn man mác. Oán thì bi ai. Quảng thì trình. Các bản ngắn thì sôi dộng... Riêng vọng cổ thì đa tính cách : bi, hùng, lạc quan, tự sự, trữ tình, ... Rộng về đề tài, phong phú về nội dung tư tưởng : ca ngợi, phê phán, triết lý, bình phẩm,... Trong vở diễn, bất cứ nhân vật nào cũng có thể qua vai diễn ca được vọng cổ, từ kép phụ đến đào kép chánh, từ độc đến lẳng, hài, thậm chí quân sĩ vẫn ca được. Còn những thể điệu khác muốn diễn đạt phải tùy thuộc vào tính cách nhân vật và cảnh huống kịch tính. Ví dụ, đào kép mùi mới ca điệu ''Tứ đại oán'' hay "Phụng hoàng'' thích hợp, còn đào kép độc lẳng thì không thể ca phù hợp tính cách được. Ở bài ca lẻ, nội dung ca từ sẽ quy ước cho tính cách thể tài của bài vọng cổ. Còn trong vở diễn cải lương, nội dung ca từ quy chiếu theo tính cách nhân vật và hoàn cảnh kịch đặt ra. Vì thế, mà người bình thường có thể lúc nào cũng ca vọng cổ một cách thích nghi tâm trạng. Có tâm sự buồn chi đó, ca vọng cổ để giải sầu (đỡ buồn), lúc vui thì ca theo ngẫu húng, lúc lạc quan thì ca theo hứng chí... Như vậy có thể hiểu một cách thuần túy nhất, ''biểu trưng" là tính tiêu biểu và hàm ẩn những đặc trưng, thành một tín hiệu tồn tại với vị trí định hình trong một lĩnh vực và với tư cách lại đại diện cho một thực thể trên một bình diện phổ biến mà bất kỳ ai cũng nhận ra nó. Vọng cổ là một biểu trưng như thế.
Nguồn: CailuongVietnam.com