logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa Nam Bộ
Wednesday, 11 August 2010 05:32

Nguyễn Đức Hiệp. Saigon – hậu bán thế kỷ 19

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

 

 

SAIGON – HẬU BÁN THẾ KỶ 19

Nguyễn Đức Hiệp

 

Theo tài liệu chính thức (1) thì thành Saigon xây năm 1791 theo kiến trúc của Olliver de Puymaniel, dân số vào năm 1860 là khoảng 200000, Chợ Lớn từ 12 đến 15000 ngàn dân. Khi chiếm thành Saigon năm 1859, trước khi trở ra Đà Nẵng và để lại một số quân trấn giữ ở Saigon, đề đốc Rigault de Genouilly đã cho đặt chất nổ phá hủy thành Saigon (do Minh Mạng xây lại sau khi phá hủy thành Phiên An sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi). Cũng theo tài liệu chính thức thì tiếng nổ kinh hoàng, lòng đất rung rinh các tảng đá to lớn của thành văng trên không (1). Kho lúa lương thực cháy cả tuần và âm ỉ cháy sau đó. Sau khi chiếm được Saigon, thành phố chung quanh thành Saigon hầu như bị hoàn toàn cháy hủy một phần do chiến tranh và một phần do dân chúng bỏ đi đã tự tiêu thổ đốt cháy tất cả, chỉ có khu Chợ Lớn không bị thiệt hại gì (2). Vì thế Pháp đã hoàn toàn thiết kế lại thành phố theo kiểu Tây phương.

 

 

 

Dân số ngay tại Saigon lúc đó (1859) chỉ còn 5000 đến 6000 người, nhưng chỉ 15 năm sau (1874), dân số Saigon (không kể Chợ Lớn và vùng phụ cận) là 13448 người gồm 965 người Âu (trong đó Pháp là 913), 6246 người Hoa, 5595 người Việt, 205 người Ấn độ quốc tịch Pháp, 4 người Hoa quốc tịch Pháp, 1 người Phi châu quốc tịch Pháp, 161 Ấn độ, 135 Mã Lai, 17 Tagals (Phi) và chỉ 6 người Cao Miên, 2 Nhật (2) (11). Năm 1896, dân số là 44764, tăng lên hơn 3 lần (trong đó có 3258 người Âu, 13801 người Hoa, 26411 người Việt và số còn lại 1294 là người Cao Miên, Mã Lai, Ấn độ (Hindou) v.v…). Người mà Pháp gọi là Mã Lai chính là người Chăm vì về phương diện ngôn ngữ và chủng tộc thì người Chăm là thuộc hệ ngôn ngữ Malay và chủng Austronesian. Saigon trở thành thành phố đa chủng tộc, đa văn hóa.

Sau khi đã hoàn toàn chiếm Saigon-Gia Định, ở phía Đông Nam thành Saigon đã bị hủy, Pháp xây 1 nhà thương, 1 nhà thờ, nhà in và kế cạnh đó là dinh rất lớn mà đề đốc Bonard xây từ nhà gỗ đã được mua từ Singapore. Trong nhiều năm ngôi nhà này là nơi thống đốc ở. Ở khu giữa nơi này và sông, lần lượt các tòa nhà được xây lên, trường thông ngôn, bệnh viện mới, cô nhi viện Sainte-Enfance.

Như đã đề cập trên, thành Saigon và các nhà gần sông, rạch Thị Nghè, rạch Bến Nghé bị hủy trong chiến tranh và cũng do chính người dân thiêu hủy lúc bỏ đi khi quân Pháp đánh chiếm Saigon. Nơi này trước đây có khoảng 50000 dân. Sau 1859 chỉ còn khu vực Chợ Quán, giữa thành Saigon và Chợ Lớn, là vẫn còn hiện diện có cư dân tập trung, nơi đây là xóm của những người theo đạo trước đây, họ đã không bỏ đi tiêu thổ khi quân Pháp đến Saigon.

Không lâu những làng cũng được được tái lập từ những người di tản chiến tranh trở lại định cư ở giữa vùng Chợ quán và vùng cao về phía giữa Kì Hòa, cánh đồng mộ và thành Saigon củ (5 làng) và ở rạch Thị Nghè 4 làng. Năm 1862, có 11 khu dân cư trở lại với khoảng 8000 dân. Ngoài người Việt, năm 1864 có 6000 người Hoa, hầu hêt là nghề buôn bán sống trong khu vực từ gần bờ sông, kinh rạch đến khu Tong-Keou (Thuận Kiều) về hướng Củ Chi và khoảng 200 người Ấn sống nghề nuôi gia súc và lái xe ngựa. Pháp dùng tiền tệ mới franc, một franc tương đương với 1 quan (1 quan bằng 10 tiền và 1 tiền bằng 60 đồng) (3).

Lúc này để thiết lập cơ sở thương mại và giao thông, các bờ sông được nâng cao; công binh đã san bằng các điểm cao (2 hay 3 mét) trên vùng cao giữa thành Saigon và cánh đồng mả. Các điểm cao này bị san bằng và đất được dùng để lấp các vùng thấp. Khi độ dốc trở nên đều hơn thì các đường bắt đầu được thiết kế, cắt thẳng góc nhau. Những con lộ lớn này được lát đá và trồng các cây lớn dọc hai bên, các nhà dọc đường rất ít và xây lên rất chậm; bởi vì người Pháp đến định cư còn rất ít và vật liệu rất thiếu nên chỉ xây các nhà cây, các công chức sống trong nhà giống người Việt và ngay cả thống đốc chỉ có dinh bằng gỗ, được mua từ Singapore, tháo gỡ ra trước khi chở đến Saigon để ráp lại. Dinh gỗ này ở vị trí góc đường rue Taberd (sau đổi là rue Lucien-Mossard tức Nguyễn Du ngày nay) và rue Imperiale (sau đổi là route nationale, rue Paul Blanchy tức Hai Bà Trưng ngày nay) trong khuôn viên của trường Frères des Écoles Chrétiennes (Taberd).

Năm 1873 dinh toàn quyền mới, to lớn khang trang hơn, được hoàn thành ở vị trí là dinh Thống Nhất ngày nay (dinh này, sau gọi là Palais Norodom. bị phá hủy sau cuộc đảo chánh 1961 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và được xây lại mới gọi là dinh Độc lập tức là dinh Thống Nhất ngày nay).

Cây cối được trồng hai bên đường mới xây, lúc đầu là các cây xoài vừa có bóng mát và trái cây (nhưng về sau các cây này bị chặt bỏ để trồng các loại cây khác như sao, cao su vì vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 xe đi lại dễ gây tai nạn cho các trẻ con thu lượm hái trái cây. Đường Jauréguiberry, nay là Ngô Thời Nhiệm, trong thập niên 1940-1950 vẫn còn các cây cao su (6))

Năm 1865, các tòa nhà dọc sông Saigon được xây dựng cho hảng tàu biển (Messageries maritimes) mà tòa nhà lớn trụ sở của công ty là nhà Rồng ngày nay.

Các kinh đầy bùn, các hố rãnh cây cối mọc hoang dại, các đổ nát sau cuộc chiến vẫn còn thấy, làm Saigon vào năm 1864 giống một nơi cắm trại hơn là một thành phố. Trong đêm 2, 3 tháng 9 cùng năm (1864) có con cọp vào vườn Esperance nơi pháo binh ở (1).  Năm 1864 cũng là năm thành lập nhà thương Chợ Quán gần rạch Bến Nghé, trước đó giám mục d’Isauropolis, ông Lefebre tự thành lập bệnh xá nhỏ năm 1861 tại nhà ông, ông tự săn sóc cho những người không phân biệt nghèo khó. Khi chuyển đến bệnh viện mới ở Chợ Quán tháng 9 1864, bệnh viện có thể điều trị 180 bệnh nhân, và có một bác sĩ và 3 soeurs chăm sóc bệnh nhân (3). Ông thống đốc de la Grandière cũng cho lập một vườn bách thảo, dưới sự quản lý của thú y sĩ, M. Germain trong đoàn quân viễn chinh. Ngày 28/3/1865 ông M. Pierre, nhà thực vật học được cử làm giám đốc với 12 mẫu tây vườn cạnh rạch Thị Nghè (5).

Thành phố Chợ Lớn phát triển nhanh nhất. Dọc rạch Bến Nghé, kinh Tàu Hủ và trong thành phố Chợ Lớn năm 1864 đã mọc lên nhanh chóng các nhà chính xây ngăn nắp thẳng hàng theo kế hoạch. Và một vài người Hoa với một tinh thần doanh nghiệp đắc lực gan dạ, một đặc tính dân tộc của họ, đã bắt đầu xây các nhà lầu. Đề đốc De La Grandière đã nhận thấy điều này, và ông đã mời một thương gia người Hoa giàu có, tên là Ban-hap, người đầu tiên xây ngôi nhà lầu đẹp, đến để thưởng một đồng hồ quả lắc. Ban-hap mặc dầu là triệu phú nhưng rất thích món quà này. Ông ta đã dành riêng trong nhà ông một phòng đẹp nhất để chứa đồng hồ quả lắc của đề đốc De La Grandière tặng. Và ông đã bỏ ra nguyên ngày trong bộ đồ lễ, đi sau 4 người thợ khiêng trên một kiệu vàng chiếc đồng hồ quả lắc, quà của thống đốc, cùng với bằng khen. Ông đã để cho các chức sắc chiêm ngưỡng trước khi đặt vào trong phòng danh dự mà ông đã sữa soạn sẵn (3). Ban-hap cũng là hội viên sáng lập Hội trung ương cứu trợ tàu bị đắm (Société centrale de sauvetage des naufragés) thành lập năm 1865 ở Pháp với hội viên trên khắp thế giới. Ông cũng là chủ một xưởng làm thuốc phiện ở Saigon.

Theo thống kê năm 1869 (3) của 6 tỉnh Nam kỳ (Saigon, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên) cho thấy toàn Saigon có dân số là 104522, Chợ Lớn 35900.

Ở hậu bán thế kỷ 19, chung quanh Saigon vẫn là các cánh đồng vô tân, gần Thủ Đức và trên đường đi Biên Hòa là các rừng trong đó có heo rừng, nai, chim công và cả cọp nữa. Theo bác sĩ Albert Morice (1848-1877) (9), người sống ở Nam kỳ và viết về vùng đất này vào các năm 1872-1874, thì vùng phụ cận chung quanh trung tâm thành phố Saigon và Chợ Lớn và giữa đường Saigon-Chợ Lớn là các cánh đồng rộng lớn đến tận chân trời, trong đó có những suối, đầm lầy, ruộng lúa, ruộng trồng đậu phọng.

“.. Trong rạch, suối có nhiều cá mà dân bản sứ bắt ăn. Trong các đầm lầy có nhiều loài ếc, mà trong đó có một loại gọi là ếch bò (grenouille boeuf, Callula pulchra mà ta gọi là ễnh ương) kêu những tiếng lạ và cháy tai làm những người Âu lúc đầu ngạc nhiên nhưng sau đó nhàm lổ tai họ.

Ở phía đông Saigon, trên đường đi Biên Hòa, có vài đồi nhỏ trên đồng bằng và nhiều mảnh rừng xuất hiện. Thay vì đất bùn đỏ ở thủ dô Saigon và đất đen xanh vùng quê Saigon, ở đây người ta đi trên các lộ mòn trãi cát trắng trong các rừng ở Pointat (?) và TuDuc (Thủ Đức). Những rùng này là nơi các đến của nhiều chuyến đi săn; vào ngày chủ nhật, một số dân đến giữa các khu rừng này để bắn chim sẻ và chim cu gáy (tourterelle). Đôi khi người ta cũng bắn được các con công. Heo rừng và nai thì rất thường gặp và đôi khi gặp cả "Ông Cọp" đến từ Bà Rịa và Biên Hòa để đi kiếm ăn.

May thay cho chúng ta ngày nay (tức thời 1872-1874) là thời gặp “ông cọp” đã vừa qua khi mà đôi khi chúng bắt ăn một vài người canh đơn độc. Tiếng nổ từ súng của chúng ta đã từ từ làm chúng tránh xa; khu rừng nhiệt đới thiên nhiên gần đó có nai, bò rừng và công đủ để thỏa mãn dạ dày và cung cấp cho chúng các món ăn ngon.

Để có thể quản lý  vùng đất vừa chiếm ở Saigon, trong giai đoạn đầu họ đã lập trường thông ngôn, Collège Indigène de Saigon, xây nơi mà xưa kia là rạp hát bội của Lê Văn Duyệt. Khi khánh thành năm 1877 sau 3 năm xây thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat, và từ 1928 trở thành Lycée học hết bậc trung học (tú tài) (6).

Bản đồ Saigon cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 – Phía trái là đường xe lửa đi Chợ Lớn và Mỹ Tho. Đường xe lửa đến tận bến sông Saigon, ở góc đường Charner (Nguyễn Huệ). Tân Định lúc này vẫn là làng và cạnh vườn Tao Đàn là làng Xuân Hòa. Kế Tân Định là làng Phú Hòa và làng Nam Chơn (hiện nay còn dấu tích làng Nam Chơn là đình Nam Chơn ở đường Trần Quang Khải). Đường Trần Hưng Đạo đi Chợ Lớn chưa có, vùng này là làng Tân Hòa. Đi Chợ Lớn cũng có đường (route basse) dọc rạch Bến Nghé-kênh Tàu Hủ (arroyo chinois), xe lửa (tram) cũng chạy trên con đường này từ trạm ở quảng trường Mê Linh dọc Quai de Commerce và Quai de Primauguet (Bến Bạch Đằng) đến Chợ Lớn. Quai de Primauguet sau đổi thành Quai de Francis Garnier. Tòa thị sảnh chưa xây, thành Saigon không còn, đường dọc theo thành (Boulevard de la citadelle) nay là đường Tôn Đức Thắng (phía dưới) và đường Đinh Tiên Hoàng (phía trên). Giữa hai đường Boulevard de la Citadelle là trại lính bộ binh (caserne d’ infanterie, nay là sân Hoa Lư), trước đó không lâu nơi trại lính này là trung tâm thành Saigon (thành Phụng). Thành Saigon không còn. Trên bản đồ có ghi đường Thuận Kiều chạy ngang Jardin de Ville tức vườn Tao Đàn (trước 1975 là đường Lê Văn Duyệt, nay là đường Cách Mạng tháng Tám) và đường Mọi (rue des Moïs, sau đổi là rue Richaud và nay là đường Nguyễn Đình Chiểu)

Chức thống đốc Nam kỳ (gouverneur de Cochinchine) bắt đầu từ năm 1878 được trao cho dân sự, không còn là thuộc quân sự bổ nhiệm nữa (lieutenant-gouverneur) dưới sự lớn mạnh dần của nhóm công hòa theo Leon Gambetta. Ông thống đốc dân sự đầu tiên là Charles Le Myre de Vilers. Nhiệm kỳ ông từ 1879 đến 1883, ngắn nhưng ông đã thiết lập kế hoạch đô thị và để lại nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ở Saigon. Dưới thời ông de Vilers, ông Blancsubé, thị trưởng Saigon là người đầu tiên được bầu là đại biểu Nam kỳ (5).

Ông có ảnh hưởng lớn về sự phát triển đô thị Saigon. Khi Vilers đến năm 1879, với chỉ thị rất rõ: gia tăng xây các tòa nhà công cộng, mang lại không gian sức sống, phát triển hoạt động kinh tế. Trong vòng 4 năm nhận trách nhiệm, nhịp độ xây cất mới gia tăng nhanh chóng. Sự đầu cợ địa ốc và các thương lượng thương mại của các thương gia đã làm giá đất bán đấu giá tăng cao độ. Kế hoạch đô thị trung tâm thành phố hình thành. Ông lập ra một ủy ban nghiên cứu về giao thông đường biển, bộ đặt dưới sự hướng dẫn của bác sĩ quân y hải quân Lapeyrère trong đó có đề án và kế hoạch làm đường xe lửa Saigon-Pnom Penh.

Nhưng nhiều chương trình kế hoạch duy ý chí của ông gặp phải sự chống đối. Hội đồng quản hạt (Conseil Colonial) chống lại phương pháp không thương lượng hỏi ý kiến của ông. Ông trở về Pháp năm 1883 mang theo nhiều hình ảnh quí giá về những công trình của ông (13). Các hình ảnh này nằm trong kho lưu trữ Quai d’Orsay hơn 120 năm cho đến khi tổng lãnh sự Pháp ở Saigon công bố năm 2002.

 

Kênh chợ Vải, nhà chợ bán hàng ở tầng dưới, tầng trên để ở.

 

Các dãy nhà bán hàng ở chợ Saigon (dọc kênh chợ Vải)

 

Ông Petiton mô tả một phần chợ Vải như sau (4): “Chợ Saigon gồm hai dãy nhà lợp bằng ngói hay tranh. Không có gì sáng sủa cho lắm, bên trong mổi gian ở chính giữa là đường đi, mổi bên là các cửa tiệm nhỏ, các hàng bán lộ thiên; bên ngoài là các hàng bán cá, các nhà buôn bán trái cây, rau. Chợ có đầy các đứa trẻ mang giỏ, luôn luôn theo sát bạn để đựng cho bạn các hàng bạn đã mua. Đôi khi bạn thấy có một bàn trên đó có một người Ấn (Malabar) hay một người Hoa ngồi co, đó là những người đổi tiền. Đi quanh chợ bên trái và bên phải là các người Ấn được chủ chợ thuê đến mổi gian hàng người bán nhận tiền một hào (dime) và đưa lại họ tờ biên nhận trả tiền.

Những quân nhân cũng đến đây để mua thực phẩm bổ sung cho phần ăn thường tình của họ; bạn sẽ thấy họ đi ra khỏi chợ cặp đôi với một giỏ treo trên cây tre trên vai họ; nếu bước đi của người Việt và người Hoa sống động và nhanh chóng, thì bước đi của lính chúng ta khi họ khiêng đồ thật là nặng nhọc chậm rãi, trên miệng họ là một điếu thuốc xì gà tồi tệ hiệu Vevey (Thụy sĩ), dài cũng như rất tệ và không hút được. Đoàn lính mua đồ đi ra, theo sau là một trung sĩ hay thượng sĩ, không hơn không kém thanh lịch.

Các con chó, giống như các chó Việt Nam, được thả rông tự do kiếm ăn ở chợ, đa số chúng tụ tập ở các hang thịt người Hoa, với dao cầm trong tay, thái những miếng thịt heo nhỏ, ít khi làm cho người Âu muốn ăn.

Lúc 9 giờ tối, những khách hàng rất ít còn lại, cũng vội vã ra về, trời đã trở nên nóng thêm”

Ông Petiton nói đến ở dọc bến Saigon là nơi duy nhất có một vài quán café. Các quán café này của thời đó ta có thể thấy như sau trong một hình ảnh của bộ sưu tập của ông thống đốc le Myre de Vilers năm 1882.

 

 

Ông Marcel Monnier (1853-1918) trong quyển “Le tour d’Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin” viết là lúc ông từ bến tàu về khách sạn, ban đêm hai bên đường Catinat (Đồng Khởi) có các cột đèn đốt sang bằng dầu hỏa gây cho ông có cảm tưởng là đèn Saigon đã thay đổi từ gas sang điện (8).

Ta có thể thấy phong cảnh sinh hoạt của Saigon ở vùng ngoài, theo như ông Petiton kể. Nhà ông Petiton ở lúc ông thăm Saigon nằm ở kế trung tâm thành phố thời bấy giờ, từ đường nơi có nhà giam đi về hướng Chợ Lớn nằm cách rạch Bến nghé thông với kênh Tàu Hủ khoảng 4 hay 500 m (đường Lý Tự Trọng hay đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay). Theo ông tả thì nhà (le cai-nha) gần đường lô, chung quanh là vài cây dừa và các cây cau. Đối diện nhà về phía trái là một công sở

Khoảng 6 giờ sáng là Saigon bắt đầu cuộc sống thành thị. Ra khỏi nhà, ông thấy hai người Hoa gánh nước trong đó có một người ở trần và một người Việt gánh nước sau hai người này. Sau đó ông thấy trên đường có rất nhiều đàn ông, đàn bà, phụ nữ, trẻ con, các người đi bán mang giỏ chứa hang, các người Hoa có đuôi tóc sam, người Tagal (lai Tây Ban Nha và Phi Luật Tân). Có một người mà người ta gọi là Bồ Đào Nha Singapore hay Quảng Đông (lai Bồ và Hoa): ông này là người phiên dịch của sở giám sát (inspection de Saigon) cho bang Quảng Đông. Người Hoa có 5 bang ở Saigon-Chợ Lớn. Một xe bò do các con trâu kéo đi chậm rã, nhịp nhàng. Quay về phía nhà ông ở, ông thấy vài con trâu ngay trong vườn !.

Qua diễn tả của ông Petiton, ta thấy Saigon ngay vùng mà ngày nay được coi như thuộc trung tâm Saigon, lúc bấy giờ còn rất quê với vườn dừa, cau và có cả các con trâu chung quanh.   

Đời sống Saigon như thế nào?. Ta hãy đọc những gì ông Petiton viết như sau:

“Đúng 10 giờ sáng là lúc nhân viên từ công sở đi ăn trưa và sau đó về nhà nghĩ trưa cho đến 2 giờ chiều. Một số đọc báo, sách còn lại đa số là ngủ trưa. Thành phố từ 12 giờ trưa đến 2 giờ, rất vắng người vì mặt trời nắng. Lúc 2 giờ mọi người trở lại làm việc. Vào lúc 5 giờ chiều khi tiếng trống kẻng nổi lên, mọi người đủ loại giới, trí thức, thông ngôn Việt, hay Hoa vui vẽ hối hả ra khỏi nơi làm. Những người thông ngôn hay các trò học thông ngôn rất hảnh diện với vẽ quan trọng. Họ lãnh 100 franc mỗi tháng, đó là một số tiền lớn cho những người công chức Việt Nam. Lúc 5 giờ rưỡi là lúc các người cảnh sát (matas) ra về. Lúc này cũng là lúc có nhiều xe ngựa riêng của các chủ xe đi dạo đến vùng Chợ Lớn và Cầu Ông lãnh. Khoảng 5 giờ rưỡi hay 6 giờ chiều là lúc giải trí đi dạo bằng ngựa hay xe ngựa. Đường đi dạo bằng xe ngựa thông thường nhất là đường đi Chợ Lớn cách Saigon 5km. Ở giữa đường Saigon-Chơ Lớn là khu đầm ao hồ (Mares) nơi đó có trại lính kỵ binh đóng ở Saigon.

Sáu giờ chiều, những công nhân người Việt và Hoa chấm dứt giờ làm việc trong ngày, và từng nhóm lớn đi về những ngoại ô đông dân và trãi dài ở Cầu Ông Lãnh và Gò Vấp. Tôi thấy lúc này cần phải hoạt động và đi bộ một chút; trên tất những đường tỏa ra từ thành phố, tôi gặp một hàng người Việt đi bộ, người này đi sau người kia; trời tối sụp xuống nhanh chóng. Tôi nghe vài tiếng súng bắn báo hiệu cho tôi biết là các tàu chiến trong vũng tàu bắt đầu kéo cờ xuống.

Ban đêm đã đến, 7 giờ; cần ngồi xuống trước bửa ăn tối mà bất kỳ ai làm cho anh cũng giống như bửa ăn tối trên tàu mà anh đang say sóng. Bảy giờ rưỡi, kèn hiệu đi nghĩ được gióng lên: tất cả những người lính tốt đều đi ngủ.

Lúc 8 giờ, tiếng súng đại bác nói lên điều gì tôi cũng không biết; có thể là giờ cảng sông Saigon đóng cửa. Sau tiếng cà nông, nếu anh ra đường lúc này, thì là bắt đầu một cuộc đi chơi lý thú.

Ban đêm ở Saigon, không giống chút nào với Saigon lúc ban ngày. Người Hoa với các loại lồng đèn đủ màu, các tiệm may, tiệm sửa giày v.v... các nhà chơi bài, các người bán hàng ăn rong lưu động làm cho thành phố có một dấu ấn đặc biệt đập vào mắt người ngoài.“

Ở thời điểm chưa có máy bay là phương tiện chính liên lạc như sau này, thì Saigon liên hệ với thế giới bên ngoài là qua tàu thủy chạy bằng hơi nước. Ở Saigon cuộc sống một ngày hôm nay giống như ngày hôm trước và ngày mai, trừ lúc tàu thủy sắp cặp bến.

Những ngày chờ tàu từ Pháp đến khi tàu bắt đầu vào cảng Saigon từ Vũng Tàu là những ngày lý thú nhất cho tất cả mọi người. Tàu vào Saigon từ Vũng Tàu lâu, vì con sông mà tàu đi vào rất uốn lượn nhiều ngã nên vì thế phải cần một tàu nhỏ chạy bằng hơi nước được gởi ra Vũng Tàu để hướng dẫn tàu vào. Khi tàu đến, trên đỉnh cờ một viên đạn tròn đen được kéo lên, và được hậu thuẩn bởi một phát súng cà nông từ tàu Duperré. Lúc tàu thả neo trong cảng thương mại đối diện với nhà rồng (messageries), cũng là lúc mà một phát đạn cà nông nữa báo hiệu.

Tàu nghỉ ở Saigon 24 tiếng trước khi đi Hong Kong. Một vài tiếng sau khi đậu bến, người ta tìm những lá thơ mình muốn trong hộp thơ mình, đây là lúc mọi người đều nôn nức.

Vài giờ hay vài ngày sau khi tàu từ Pháp đến, tùy theo thời điểm trong năm, một tàu từ Nhật và từ Trung quốc cũng đến Saigon, và nghĩ tại đây 24 tiếng trước khi đi Âu châu mang theo các lá thư qua đó. Những thương gia lúc này rất bận, họ chỉ có 24 tiếng để viết thư, để quyết định và giải quyết các vấn đề quan trọng. Khi các tàu đã đi thì Saigon trở lại yên tỉnh như mọi ngày (4).

 

 

Thống kê (7) của bác sỉ Honoré Aurillac, năm 1870 dân số Saigon như sau

Viet Nam+Khmer+Mọi (indigenes)

220000

Hoa                                                   

18000

Ấn                                                        

700

Âu                                                        

600

 

Sau khi mô tả phong cảnh thơ mộng yên lặng thanh bình trong bệnh viện Saigon giữa vườn cây, ông Monnier đã tả cảnh buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam kỳ (conseil colonial) như sau lúc ông đến tham quan và chứng kiến một buổi họp (8). Hội đồng quản hạt được thành lập năm 1880, gồm 6 người Pháp bầu bởi những người có quốc tịch Pháp sống ở Saigon, 6 người Việt được bầu trong mỗi khu bầu cử bởi một hội đồng các đại biểu chọn từ mỗi làng bởi các chức sắc trong làng, 2 người từ phòng thương mại được các hội viên phòng thương mại đề ra và 2 người được thống đốc đề cử (5) (11). Nhiệm kỳ là 4 năm, cứ 2 năm bầu lại phân nữa. Quyền hạn của hội đồng quản hạt tương đương như của các hội đồng dân cử ở các thuộc địa Anh (như Australia, Singapore…).cùng thời. Ngân sách toàn Nam kỳ là do hội đồng quản hạt quyết định, hội đồng liên hệ trực tiếp với bộ trưởng thuộc địa ở Pháp và có quyền lập ra các ủy ban điều tra.

“.. Tôi dành ở phần cuối nói về một nét địa phương không kém lớn lao, nơi không có thơ mộng văn chương, nhưng là nơi hội họp và bàn luận của một quốc hội “chân nhỏ”, không kém hùng biện, hào hứng trôi trãi. Cơ quan dân cử đầu tiên trong xứ này, đó là Hội đồng quản hạt.

Không phải chỉ là phong cách và trang trí không có gì là đặc biệt. Ngoài những quạt treo trên trần (pankas) (chú thích của người dịch: chữ panka có nguồn gốc từ chữ Ấn độ “punkha” chỉ các quạt treo trên tường được các người hầu kéo qua các dây thừng trong phòng khách ở các nhà người Ấn, “punkha” được người Anh phổ biến đến các xứ khác trong vùng) và cân bằng nhẹ nhàng như có một bàn tay vô hình. Các bàn ghế, đồ đạt hầu như cũng giống như đa số các nơi khác danh cho các đại biểu. Phòng hình bầu dục, tất cả đều trắng, không có nét trang trí và nếp đường chỉ nào, hai bên mở ra hai ban công hành lang để công chúng quan sát. Chắc chắn là có những quốc hội khác không có chổ bằng như ở đây. Tôi đã dự một buổi họp và đã không tiếc thời gian mất cho buổi chiều như vậy. Cuộc thảo luận hôm đó, nói thật ra thì chỉ gây một chú ý bình thường không có gì đặc sắc hào hứng. Hôm đó chỉ bàn những chuyện nhỏ mọn: các kiến nghị, đòi hỏi các trợ cấp, nâng đỡ - rất nhiều đòi hỏi -  lúc có câu hỏi không rõ về các thuế mới, về sự tăng thuế xuất khẩu lúa gạo thì cuộc thảo luận trở thành sống động. Nhưng cũng không lâu thì người ta trở lại các bản kiến nghị.

Chung quanh bàn có hình móng ngựa, các đại biểu (conseiller) Pháp y phục trắng xen giữa các đồng nghiệp người Việt đội khăn đen, tất cả tách biệt trên thảm xanh lá cây như các mảnh quân trong trò chơi domino; những đại biểu bản sứ, rất nghiêm trang, đứng đắn, lắng nghe nhưng không hiểu, tuy vậy quyết không để nghe mất một câu nào. Duy nhất là lúc bỏ phiếu, thì người thông ngôn nói cho họ biết về tình hình diễn biến hiện tại và dịch những kết luận của báo cáo viên. Với vấn đề cá biệt, đã quá đi vào chuyên sâu, để có thể đi đến nói lại kết luận, người thông ngôn luôn tìm được phương cách để truyền đạt giống như người phát ngôn trong vở kịch “Bourgeois gentilhome” (“Trưởng giả học làm sang” của Molière), chỉ trong ba hoặc bốn chữ tượng thanh, gần giống như các từ như Belmen và Marababa Selhem (chú thích của dịch giã: những từ này dùng trong vở kịch trong đó Covielle giả nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với ông Jourdain dùng một chữ cô đọng nhưng có nghĩa rất nhiều, dài tương đương với vài câu trong tiếng Pháp. Covielle dùng những từ như trên hoàn toàn bịa đặt để gạt ông Jourdain gã con gái cho Cléonte). Điều này làm tôi nghiêng về ý kiến là tiếng Việt Nam có những đặc tính giống như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mà ta không thể bỏ qua được, nói lên rất nhiều chỉ dùng một vài chữ thôi. Dưới đó, các ông đại biểu người địa phương (indigenes, tức Việt Nam) đội khăn nghe xong thì bàn luận rất nghiêm trọng, và sau đó đi qua vấn đề khác kế tiếp.

Nhưng cá tính của hộ đồng này, một lý do cốt yếu làm cho chúng ta có cảm tình, rất đơn giản, là không có sự hổ thẹn giả giối, không quá thận trọng nể vì, nó thể hiện sự yếu đuối của con người và sự nghiêm khắc chặc chẻ trong tranh luận. Nó ngược lại với những gì xảy ra ở các quốc hội hay hội đồng (parlement) khác, mà trong đó không khí tranh nhau rất khó thở ngột ngạt căng thẳng rất thông thường át đi tiếng nói của những nhà đại biểu hùng biện. Ở đây tất cả mọi người đều nói được… và rất nhiều giải khát. Không phải chỉ là ly nước đường truyền thống, dành riêng và được uống ừng ực kiêu ngạo của ông chủ tọa, mà nhiều ly nước cho tất cả mọi người. Những đại biểu của hội đồng quản hạt, chính họ cũng có quyền bất diệt là không bị chết khát. Trước mỗi đại biểu là một ly nước sinh lực (tonique) lựa chọn theo ý mình, được pha với nước soda và nước đá. Thỉnh thoảng một chú bé làm dich vụ, đi vòng quanh, chêm vào các ly đã cạn và trình ra trước các người đại biểu muốn hút thuốc đủ loại các thuốc lá, xì gà. Nếu những người kiểm duyệt tính tình nghiêm trang chán ngắt ủ rê muốn phản đối về những canh tân như vậy, tôi sẽ mời họ trước khi ra luật đến dưới bầu trời nắng da diết của xứ này trong vòng vài tiếng; sự đắn đo hão huyền của họ sẽ tan biến như tuyết dưới ánh nắng mặt trời. Đối với tôi, tôi cho rằng điều này không có vần đề với tôi. Hơn nữa, tôi có một ước nguyện, là đòi hỏi hội đồng nên nới rộng biện pháp hay như vậy cho cả những khán giả bình thường đến xem hơn là họ chỉ được thấy những ly nước uống giải khát, và hít mùi thuốc lá thơm mà thôi.

“Sau Le Myre de Vilers, thời thống đốc Paul Blanchy, cơ sở hạ tầng được tiếp tục xây dựng, đường xe lửa Saigon-Mỹ Tho được hoàn tất và khánh thành năm 1885 do kỷ sư Thévenet thực hiện. Và năm 1891 bưu điện thành phố được hoàn thành.

Saigon, tháng 9 năm 1885, cũng tiếp nhận hàng ngàn người dân tị nạn. Họ là những người theo đạo Thiên chúa chạy từ Qui Nhơn vào trên một tàu Đức chở đến sau khi thoát khỏi những chiến dịch cấm đạo diễn ra ở miền Trung do triều đình nhà Nguyễn khởi động, “Trước khi đánh Pháp từ ngoài, trước hết phải diệt các người Pháp bên trong”, như những viên quan đã nói (10). Họ được các xứ đạo ở Saigon tiếp nhận bảo trợ định cư lại ở vùng đất mới.

Đến cuối thế kỷ 19, Saigon đã là một thành phố đủ mọi sắc tộc Âu, Á sống không khác các thành phố cùng thời lúc đó là Singapore và Hong Kong (5).

 

Tham khảo

 (1) P. Cultru, Histoire de la Cochinchine française, des origines à 1883. A. Challamel (Paris), 1910. (2) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Editeur Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.

(2) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900.

(3) Paulin Francosi Alexandre Vial, Les premieres années de la Cochinchine, colonie francaise, BiblioBazaar, LLC, 2009.

(4) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille), 1883.

(5) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique,Quantin (Paris), 1889-1890.

(6) Trần Ngọc Quang, Saigon và những tên đường xưa, http://namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-saigontenduongxua.pdf.

(7) Honoré Aurillac, Cochinchine. Annamites, Moïs, Cambodgiens, Challamel aîné (Paris), 1870

(8) Marcel Monnier, Le Tour d'Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899.

(9) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.

(10) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887.

(11) Paul Bonnetain, Le Monde pittoresque et monumental. L'Extrême-Orient, Quantin (Paris), 1887 (trang 130).

 

Nguồn : Tác giả

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyen-Marshall. Hoạt động chính trị của Công Giáo miền Nam giai đoạn 1954-1975

  • Nguyễn Hoàng Tuấn. Di sản văn hóa ở Trà Vinh - thực trạng và giải pháp

  • Huỳnh Văn Sinh. Giá trị di sản văn hóa tinh thần tại các xã nông thôn mới TP. Hồ Chí Minh

  • Trần Thị Lan. phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa những lợi thế cho phát triển du lịch của thành phố Hồ Chí Minh

  • Nguyễn Thị Đăng Kha, Mai Thúy Hằng. Thực trạng và các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị loại hình di tích khảo cổ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 117
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 4 4 8 6
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa Nam Bộ