1. Đặc điểm chung của lễ hội dân gian truyền thống Ấn Độ
Cũng giống những quốc gia nông nghiệp khác, lễ hội dân gian Ấn Độ bắt đầu từ việc thờ cúng các thần linh xa xưa. Nội dung thần phả, giáo lý và nghi thức trong kinh Vêđa (khoảng 1500 năm trước CN) cho thấy rất rõ điều đó. Người Ấn tôn thờ các thần, cầu mong những vị thần này bảo trợ, phù hộ cuộc sống hiện tại và tương lai của họ. Những nghiên cứu văn hóa dân gian Ấn Độ cho biết, theo thời gian, nội dung tôn giáo của các lễ hội mờ nhạt dần và hầu như lễ hội chỉ còn tính chất thế tục, thể hiện những nhu cầu đời sống cộng đồng của các tầng lớp bình dân. Giải thích về điều này, C.Mác đã có ý kiến rất hay khi ông cho rằng, đó là kết quả của sự dung hợp giữa cái khổ hạnh với cái phóng túng, giữa đời sống tăng lữ với đời sống vũ nữ. Khi nghiên cứu về văn hóa dân gian Ấn Độ, nhiều nhà văn hóa học đã đồng quan điểm với Mác (1).
Người Ấn thờ cúng các thần là biểu tượng cụ thể của tự nhiên, như: thần sấm (Indra), thần gió (Vaiju), thần mặt trời (Surya), thần mưa (Pacgismy), thần lửa (Anhi), thần không trung (Varuna)… Các nhà văn hóa học cho rằng, xuất phát của vấn đề này là từ việc người Ấn tôn thờ những thần trong đạo Hinđu thời kỳ Vêđa. Bên cạnh đó là việc thờ cúng nhân thần, chủ yếu là các anh hùng trong thần thoại và sử thi của Ấn Độ (như anh hùng Rama trong bộ sử thi Ramayana…). Với quan điểm chung của cư dân Nam Á, họ cho rằng, vạn vật hữu linh. Vì vậy, người Ấn còn có tục thờ những con vật, như bò cái, rắn…
Nghi thức tôn thờ các vị thần của người Ấn là việc thờ cúng và hiến tặng. Không chỉ dừng lại ở những lễ hội long trọng, hàng năm mỗi người dân Ấn Độ phải hoàn thành các nghi lễ nhất định, được hiểu là những quy phạm cuộc sống và ứng xử. Trong lễ hội người Ấn thường tổ chức những đám rước tế các thần. Họ trang trí những chiếc xe hoa thật sặc sỡ, kết hoa lá, bày ảnh tượng, thắp trầm hương. Ngồi trên xe là những tăng lữ, còn các tín đồ thì chạy ríu rít theo sau mong được ban những điều tốt lành.
Dân gian có câu trước để thờ thần, sau để mà vui. Tế lễ xong, người dân tổ chức hội hè. Cả năm lao động vất vả, ngày lễ tạ ơn các vị thần, họ muốn vui chơi cho thỏa thích. Trong lễ hội, họ tổ chức các trò chơi, đám rước, những trò vui, trò diễn về các chuyện trong dân gian và trong thần thoại. Qua đó, người Ấn thấy các vị thần gần gũi với cuộc sống của họ hơn. Không khí hội hè vui vẻ khiến họ như thêm lạc quan, yêu đời.
2. Những lễ hội dân gian truyền thống Ấn Độ
Lễ hội Holi
Lễ Holi của người Ấn Độ thường được tổ chức vào tháng ba dương lịch (5-3), mùa xuân, khi cây cối bắt đầu đâm chồi, nảy lộc, muôn hoa tốt tươi. Đây cũng là mùa yêu đương của nam nữ sau những ngày gặt hái. Các lứa đôi tình tứ và dặt dìu bên nhau trong ngày hội đầu năm. Do đó, Holi không chỉ là lễ đón mùa xuân của thiên nhiên mà còn là lễ đón chào chúa yêu - Kama (hay còn gọi là thần ái tình) (2).
Theo các câu chuyện dân gian Ấn Độ (3), Kama có kiếm bằng ngọc xanh, mũi tên bằng ong bướm hay hoa xoài (Kalidax cũng gọi hoa xoài là biểu hiện của tuổi trẻ, tình yêu, là linh hồn của mùa xuân). Một đàn ong bay cong cong, làm thành dây cung của chúa yêu. Còn cái cung của chúa là hoa gạo (ở đây gọi là hoa lửa rừng), viền cong cong, màu xanh đậm. Rồi một mùa xuân nọ, chúa yêu hiện ra, bắn một mũi tên vào thần phá hoại Shiva (một trong ba ông thần của đạo Hindu). Vị thần này nổi giận, lấy lửa ở con mắt thứ ba của mình, đốt chúa yêu thành tro. Vợ của chúa yêu là Ratơ vô cùng đau khổ. Nước mắt của Ratơ khiến Shiva động lòng, bèn làm phép hồi sinh cho chồng bà ta. Nhưng, đấy chỉ là sự hồi sinh với phần hồn, người ta gọi đó là Anangra (người không xác). Tuy nhiên sau đó, chúa Yêu lại nhập vào Krishna. Đây là vị thần được người dân Ấn mến phục nhất và được văn hóa nghệ thuật Ấn Độ cổ kim đề cập đến. Krishna là một thần nhi vô cùng đạo đức, tài giỏi, đẹp và khỏe. Màu yêu, theo thần thoại và quan niệm Ấn Độ, là màu đỏ đậm hay màu xanh - đỏ thì phải đỏ bầm, xanh thì phải xanh đen. Những màu ấy trở thành biểu tượng của chúa yêu. Do đó, Krishna có màu xanh đen.
Vào lễ Holi, trai gái các làng kéo nhau đi chơi, nhảy múa, ca hát. Trong ngày hội, người ta dùng một thứ bột, thứ nước đỏ bầm hay xanh đen (màu của chúa yêu) ném, đổ lên nhau, rất vui. Dần dần, nó trở thành một tục phổ biến: ngày lễ Holi, mọi người rắc màu của chúa yêu lên nhau và chúc nhau hạnh phúc.
Ngày hội rắn (nôgapanchami)
Lễ hội Ấn Độ thường lấy biểu tượng là các thần linh rất gần gũi với cuộc sống người dân. Người Ấn cho rằng, những vị thần linh đó dễ thỏa mãn những lời cầu nguyện của họ. Một số con vật xung quanh cuộc sống hằng ngày, cũng được thần thánh hóa, là biểu tượng thần linh. Theo truyền thuyết Ấn, con rắn được coi là biểu tượng cho sự sinh tồn của cuộc sống (4). Và thế là hội rắn đã ra đời. Theo các nghiên cứu (5), Nôgapanchami là ngày hội linh thiêng, tôn vinh rắn, đặc biệt là loại rắn chúa, rắn mang bành, được tổ chức vào tháng 5 Hinđu, tức là vào khoảng giữa tháng 7 và tháng 8. Sau những ngày hè khô nóng, đây là thời kỳ gió mùa và những trận mưa rào đầu tiên, nước ở các con sông đầy ắp và loài rắn xuất hiện lại. Chính vì thế, rắn được coi là biểu tượng của cuộc sống, sự phì nhiêu và sự sinh sản.
Tác phẩm Đời sống hàng ngày ở Ấn Độ cổ đại của Ôbôye, cho biết: vô số đám rước diễn ra trên đất nước Ấn Độ vào ngày hội linh thiêng này. Những người chuyên luyện rắn đến từng nhà cho mọi người chiêm ngưỡng rắn, bởi vì theo niềm tin bắt rễ từ lâu đời, nếu thấy được rắn mang bành thì nhất định sẽ gặp nhiều may mắn. Không khí hội hè tưng bừng ở các bang Rajosthan, Kerola và nhất là Mahây - Rashtra. Dân làng Shirala có tục lệ tôn sùng rắn mang bành. Vào ngày hội, ngay từ sáng sớm, dân làng đã kéo nhau ra sông, cử hành nghi thức tắm. Sau đó đám rước diễu hành qua các đường làng. Các cô gái trẻ cúi sát xuống mặt lũ rắn, rắc hoa lên đầu rắn. Vì rắn mang bành tượng trưng cho sự sinh sản, nên người Ấn tin rằng chúng sẽ phù hộ cho phụ nữ sinh con đẻ cái. Người Ấn Độ cho rằng, mơ thấy rắn là báo trước điều may mắn, vì họ sắp có con (6).
Sau ngày hội, người dân mang những bình, vò đựng rắn đến thả ở đền thờ nữ thần may mắn Amba, hoặc mang ra ngoài cánh đồng, trao lại cho thiên nhiên. Ngày hội rắn mang lại cho người dân niềm hy vọng về cuộc sống no đủ và may mắn trong năm mới.
Lễ hội các dòng sông
Theo nghiên cứu của học giả người Anh Ôbôye: mỗi năm đều có nhiều lễ hội tắm trên các dòng sông và mà điển hình nhất là những cuộc hành hương đến bờ sông Hằng (Gange) lấy nước thiêng. Theo thần thoại Ấn Độ, sông Hằng là dòng nước linh thiêng nhất, đã chảy từ trên trời xuống để rửa sạch mọi tội lỗi ở thế gian. Dòng sông này cũng chính là hình ảnh của nữ thần Ganga, là biểu tượng cho người mẹ Ấn Độ vĩ đại (7). Chính vì vậy mà người Ấn tin rằng, được tắm nước ở dòng sông Hằng thì tâm hồn trở nên trong sạch và bình yên, và nếu được chết bên bờ sông linh thiêng này, thì đó là một ân huệ cuối cùng, linh hồn sẽ được lên thượng giới. Hàng năm, nhiều người đã trèo đèo lội suối để đến bờ phía nam rặng Hymalaya - nơi sông Hằng xuất phát những dòng chảy đầu tiên ở một làng nhỏ thuộc huyện Gácrơvan. Họ mang theo những bình đồng để múc nước thiêng về thờ cúng, hoặc đua nhau ngâm mình và rắc hoa tươi xuống dòng sông, cầu mong những điều may mắn. Ở Ấn Độ có hình ảnh một cô gái với một bình nước trên vai lấy từ sông Hằng, được khắc họa rất đẹp. Bên bờ sông, các bậc lên xuống (ghát) được xây dựng vào TK XVIII, vươn sâu 74 bậc xuống tận lòng sông dọc theo chiều dài hàng km.
Hội lễ kumbơmala là lễ tắm lúc nửa đêm trên các dòng sông được coi là linh thiêng. Trong ngày lễ, nửa đêm chính là phút linh thiêng nhất để hàng ngàn người chen nhau nhảy ùa xuống một đoạn sông lấy nước. Hội lễ gắn liền với truyền thuyết về phe thần và phe quỷ tranh giành một bình nước (thần) trường sinh và đánh rơi 12 giọt xuống trần thế, trong đó có 4 giọt rơi vào các vùng đất của Ấn Độ là Hác dos, útjain, Alahabat và Nasích. Ở Ấn Độ, cứ hai năm một lần, các địa phương trên lại thay nhau tổ chức lễ hội (8).
Lễ hội Dussehra
Dussehra là lễ hội lớn nhất Ấn Độ, được tổ chức rầm rộ trong 10 ngày liền. Trong ngày lễ, người ta tổ chức lễ rước tế và dâng lễ cho nữ thần Đuyếcga (tức là Pácvati, là vợ thần Shiva). Nghiên cứu của Đặng Đức An cho biết thêm, tên Đuyếc ga có thể hiểu là nữ thần dữ dằn, Pácvati là nữ thần hiền dịu. Ngoài ra Đuyếcga còn có tên gọi khác là Uma - nữ thần duyên dáng (9). Người phụ nữ nói chung và phụ nữ Ấn Độ nói riêng, trong các hoàn cảnh riêng biệt đã thể hiện các tính cách khác nhau, khi thì hiền dịu, duyên dáng, lúc thì dữ dằn để có thể chở che những đứa con yêu. Vì thế chăng mà nữ thần Đuyếcga cũng có những tính cách và tên gọi khác nhau như vậy. Theo thần thoại của người Ấn, Đuyếcga chính là nữ thần giúp cho phụ nữ sinh sản (10).
Lễ hội diễn ra là để tưởng nhớ sự tích Đuyếcga đã phù hộ cho hoàng tử Rama đánh tan lũ quỷ 10 đầu Ravana. Trong ngày hội, tượng nữ thần được đặt trên một cỗ xe lớn, đi theo sau là đàn bà, con gái. Họ có nhiệm vụ ném hoa và thóc, vảy nước lên tượng Đuyếcga. Sau đó bức tượng này sẽ được thả xuống một khúc sông linh thiêng. Trong dịp này, người ta còn rước cả một đàn voi đầu được trang trí lộng lẫy bằng giấy nhiều màu. Nghiên cứu của Majumda cho biết: ngày lễ hội, người dân Ấn còn cho rước ba hình nhân bằng giấy bồi, biểu tượng cho các quỷ: Ravana, Mêghanada và Kimhakácna. Sau đó, người ta đốt pháo thăng thiêng và bắn những tên lửa vào những hình nộm đó để diễn tả mô phỏng lại sự tích (11).
Theo các nhà lịch sử văn hóa, hội lễ dussehra được người dân Ấn Độ rất coi trọng (12). Vì đây là đại diện cái thiện thắng cái ác. Ấn Độ có câu tục ngữ: Nếu không có tiền thì bán con gái đi còn hơn là bỏ qua lễ hội dussehra.
Tết thập thắng
Đây là lễ hội kỷ niệm chiến thắng của người anh hùng trong thần thoại Ấn Độ, có nguồn gốc từ sử thi Ramayana và cùng truyền thống tết đèn. Các nghiên cứu cho biết: Tên gọi thập thắng là chỉ mười ngày chiến đấu ác liệt giữa Rama với quỷ. Vào ngày thứ mười của cuộc chiến đấu, hoàng tử Rama đã chiến thắng.
Văn hóa Ấn Độ của Cao Huy Đỉnh (13), cho biết: trong 10 ngày tết, những chiếc cổng màu rực rỡ trên có treo cờ, kết hoa trang hoàng lộng lẫy được dựng ở đầu các đường đi, lối lại. Ngang các đường phố là những dải xanh đỏ, tầng tầng lớp lớp, chỗ nào cũng nhộn nhàng, huyên náo. Vào buổi chiều ngày thứ 9, người ta tổ chức biểu diễn Ramalila diễn lại cảnh sinh ra, lớn lên, chiến đấu và chiến thắng của người anh hùng Rama. Những chiếc xe voi chở các diễn viên, vừa đi vừa biểu diễn lưu động khắp nơi. Ở phần nghi lễ cuối cùng của Ramalila, người ta reo hò khi đốt hình nộm quỷ, tượng trưng cho sự chiến thắng của Rama. Việc đốt hình nộm quỷ còn cả ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần ác giả ác báo.
Sau tết thập thắng, người ta tiếp tục vui Tết đèn chào đón Rama trở về. Tết đèn còn gọi là lễ divali (theo chữ Phạn, divali là chùm lửa). Cũng như lễ hội holi, lễ hội divali được toàn thể dân Ấn Độ không phân biệt tín ngưỡng, kỷ niệm. Có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của lễ hội. Những cách giải thích này không rõ ràng, kể cả trong truyền thuyết của người Ấn Độ. Có tác phẩm cho rằng, lễ divali khởi nguồn từ việc một bộ phận người Ấn Độ giáo coi là phần đầu của lễ có liên quan đến lễ đăng quang của vị vua vĩ đại nhất trong truyện cổ Ấn là Rama, trong đêm ngài đăng quang, cả nước chăng hoa kết đèn hội. Còn một số học giả khác lại có ý kiến: sự cầm quyền của Rama đã đánh dấu bởi việc cứu thế giới ra khỏi tối tăm về tinh thần và việc chăng hoa kết đèn tượng trưng cho sự kiện Rama đã đưa nhân loại từ tối tăm đến ánh sáng. Đứng ở góc độ huyền thoại mà nói, cách giải thích nào cũng thuyết phục cả.
Lễ hội lao động
Nghe tên đã thấy là lễ hội này xuất phát từ nhu cầu của tầng lớp lao động bình dân. Lễ hội lao động được tổ chức vào tháng 9 hàng năm. Ngày hội, người ta cúng, rước nữ thần Gandi (một hóa thân của nữ thần Pavati - thần giống cái). Người Ấn Độ tin rằng Gandi sẽ phù hộ cho họ trong công việc làm ăn.
Trong ngày lễ, tượng nữ thần Gandi nặn bằng bột mịn được rước đi qua các đường phố. Có nhiều cách giải thích về chất liệu tạo nên tượng. Nhưng quan điểm chung, thống nhất của các nhà nghiên cứu văn hóa Ấn Độ cho rằng: tượng bằng bột là vì xuất phát từ nền kinh tế cơ bản của dân Ấn Độ xa xưa là nông nghiệp lúa nước nên họ nặn tượng bằng bột để cầu mong được mùa, sự no đủ (14). Ngày cuối cùng của lễ hội là lễ ban phước cho các công cụ lao động. Người Ấn trát phân bò lên các công cụ lao động và đặt ở một nơi được coi là linh thiêng. Những người đi lễ đã khấn vái các công cụ lao động thuộc nghề nghiệp của mình. Tăng lữ thì vái sách vở, nông dân vái cày bừa, liềm hái… Người ta tin rằng làm như vậy thì mùa màng sẽ tươi tốt, công việc làm ăn sẽ phát đạt hơn.
Lễ hội Pongal
Theo các nghiên cứu (15), Pongal diễn ra ở vùng Nam ấn trong các cư dân nói ngữ hệ Dravida, Tamin, Telugu, Malaialy và Karataka. Lễ này kéo dài trong ba ngày, trùng hợp với ngày mở đầu kỳ thu hoạch vụ mùa trong tháng giêng và hết mùa gió mùa đông bắc ở Nam Ấn.
Trong ngày Pongal, quan trọng nhất là lễ cơm mới. Đây là một phong tục khá phổ biến trong cư dân nông nghiệp Nam Á - Đông Nam Á. Ngày đầu tiên của Pongal là lễ bhoga pongal, giới hạn trong bếp lửa gia đình. Suria pongal là ngày lễ thứ hai, để tế thần mặt trời (Surya). Thần Surya cai quản cả thế giới và có nghĩa là sáng chói. Thần thoại Ấn cho rằng, Surya là nguồn gốc của thời gian, là con mắt của vũ trụ, là nguyên nhân của ban ngày và vị thần này tồn tại mãi mãi. Trong ngày Suria pongal, sản vật lúa được dâng cúng cho thần mặt trời. Đến ngày thứ ba - Mattu pogal hoặc pogal súc vật, gia súc được tắm rửa và những chiếc sừng của chúng được đánh bóng, thậm chí được trang trí. Trong ngày lễ pongal, người Ấn Độ còn mang đồ uống ngọt từ gạo pongal cho súc vật. Vào buổi chiều của ba ngày lễ, người ta đem những con vật nuôi trang trí thật đẹp cho gia nhập đoàn rước có nhạc và trống hòa theo. Không khí lễ hội thật náo nhiệt.
Lễ Janmastami
Đây là một trong những ngày lễ quan trọng nhất, kỷ niệm ngày sinh của Krishna. Truyền thuyết kể lại rằng: vị thần này có màu xanh đen, có chiếc sáo cầm ở tay (hình tượng thường gặp ở Ấn Độ) xuất hiện trên đời vào ngày thứ 8 của tháng Sravan theo lịch Ấn Độ giáo, tức là vào lúc nửa đêm giữa tháng 7 và tháng 8.
Janmastami được kỷ niệm ở các nơi thờ Krishna, đặc biệt là ở Mathura và những nơi tương truyền ông đã sống thuở nhỏ. Yếu tố cơ bản của ngày lễ là điệu nhảy Rassalila. Các tác phẩm cho biết nguồn gốc của điệu nhảy Rassalila là do Krishna là thần ca hát và nhảy múa, nên trong ngày lễ Janmastami, các điệu nhảy Rassalila rất sôi động và vui vẻ. Điệu Rassalila mô tả Krishna thời trẻ vui chơi với những mục đồng dưới ánh trăng trên cánh đồng Vrindahas
Lễ Onam
Vào tháng 8 và tháng 9 giữa hai mùa mưa gây ra bởi đợt gió mùa tây nam và tây bắc, là lễ Onam. Đây là lễ hội mùa truyền thống, phổ biến nhất của cư dân Kerala (16). Trong ngày Onam, Ấn Độ tổ chức các cuộc đua thuyền. Ở thành phố Alleppi, cuộc đua thuyền tranh cúp Nehru (bắt đầu từ năm 1950), được tổ chức hàng năm vào chủ nhật, thứ hai trong tháng 8. Tại Aranmula, trong ngày hội, đoàn diễu hành truyền thống được tổ chức trên sông Pamba. Các nghiên cứu cho biết, lễ hội ở đây có lịch sử gần 400 năm. Sang ngày thứ 4 của lễ Onam, hai bên bờ Pamba xinh đẹp được trang hoàng thật rực rỡ. Các chàng trai lực lưỡng mặc quần áo truyền thống khua mái chèo dọc theo dòng sông. Những nghệ sĩ múa và nhạc công biểu diễn trên các chiếc bè lớn. Trên bờ Pampa có bầy voi phủ vải vóc diễu hành theo theo tiết tấu của điệu Parchavadian - điệu nhạc truyền thống ở Kerala (gồm 5 nhạc cụ). Khung cảnh được miêu tả thật nhộn nhịp và hữu tình.
Ấn Độ là một trong những cái nôi của văn minh thế giới. Trong quá trình phát triển lịch sử, quốc gia này đã có nhiều biến động bởi sự xâm nhập và thống trị của các lực lượng phong kiến ngoại tộc và thời kỳ sau này là đế quốc phương Tây. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa dân tộc Ấn Độ vẫn được giữ vững qua việc duy trì các phong tục và lễ hội dân gian. Có lẽ thế, đến với Ấn Độ hiện đại, người ta vẫn thấy ở đây đậm chất lung linh, huyền ảo của màn sương huyền thoại.
_______________
1, 3, 4, 11. Nguyễn Thừa Hỷ, Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1986.
2, 7, 9, 10. Đặng Đức An, Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, Nxb Giáo dục, 2005, tr.50.
5, 12, 13. Cao Huy Đỉnh, Văn hóa Ấn Độ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993.
6, 8. Ôbôye J., Đời sống hàng ngày ở Ấn Độ cổ đại, London, 1965, tr.63-67.
9, 14. Majumda R.C, Lịch sử và văn hóa dân tộc Ấn Độ, Bombay, 1952-1965.
15. Đinh Trung Kiên, Ấn Độ hôm qua và hôm nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 336, tháng 6-2012