Vào thời điểm người châu Âu đến định cư - năm 1788 có tất cả 700 bộ lạc thổ dân sinh sống với nhiều ngôn ngữ và tập tục riêng biệt nhưng vẫn mang những nét chung. [5, tr.1]
Lịch sử thổ dân là lịch sử nước Australia. Lịch sử không mất đi, nó vẫn được lưu giữ trong trí nhớ của các thế hệ thổ dân. Cách sống của họ, luật lệ của họ, các tổ chức xã hội cũng như những phong tục của họ đã được thể hiện trong văn hoá dân gian.
Nói đến Australia, không thể không nói đến thổ dân và lại càng không thể không nói đến văn hoá dân gian thổ dân. Đó là một thành tố quan trọng cấu tạo văn hoá, là một phức hợp giá trị văn học - lịch sử - ngôn ngữ - tôn giáo - đạo đức... của dân tộc Australia.

1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất của thổ dân có sự khác biệt theo vị trí địa lí: Thổ dân Kuku-Yalanji sống ở bờ biển Đông Nam bán đảo Cape York, bắc Queensland. Họ dùng những công cụ như que đào, những con thuyền, những đồ xách bằng gỗ hay bằng dây, những đồ để cắt, chặt đá... để sinh sống.
Thổ dân Barikindji và Wiradjuri sống trong lưu vực sông Murray - Darling. Họ sống phụ thuộc vào những con sông, phương thức sản xuất chủ yếu là đánh bắt cá, sò hến và các loài thuỷ sản. Họ đánh bắt bằng những cái giáo bốn lưỡi, bằng lưới và ở một vài nơi họ dùng bẫy bắt cá.
Còn người Warlpuri sống ở vùng khô cằn trung tâm Australia lại sinh sống dựa vào săn bắt và hái lượm. Nguồn lương thực chủ yếu của họ là các loài có vú nhỏ, thằn lằn, cá, các loại hạt và thảo mộc. Họ săn bắt thú vật bằng giáo, phóng lao, ném gậy, đặt bẫy và dùng lửa. Phụ nữ hái lượm một loại cây như khoai lang, cà chua dại, chuối sa mạc, đó là những thức ăn chủ yếu của thổ dân ở sa mạc.
Thổ dân biết cách dùng lửa để đốt sạch các loại cỏ, cây bụi và cây to đã quá già cỗi. Họ còn bóc vỏ cây để làm thuyền, làm nơi trú ẩn; họ dùng dùi gỗ, búa bằng đá để đào đá lửa, đất son... (như ở vùng Wilgie bang Western Australia) rồi chạm khắc, vẽ trên đá những truyền thuyết, tín ngưỡng, tôn giáo hay các sự việc diễn ra trong đời sống hàng ngày của họ; họ còn biết cách điều chỉnh dòng nước để bẫy cá.
Săn bắn dường như là trách nhiệm, là bổn phận của những người đàn ông. Đối với các loài thú lớn như đà điểu, kanguru, khi đi săn, họ phải dùng dây thòng lọng, giáo mác, boomerang hay chuỳ. Ngoài ra, họ còn bẫy vịt bằng cách lùa chúng vào những cái lưới giăng ngang dòng sông.
Ở nhiều bộ lạc thổ dân, kĩ năng đánh bắt cá hầu như đã đạt đến trình độ hoàn hảo. Cư dân miền Arnhem Land đi đâm cá bằng thuyền giống như cách đánh bắt của người Marcassan, sống trên những hòn đảo gần Indonesia.
Các bộ lạc miền Đông Nam Australia còn tạo ra một hệ thống đập, kênh, rạch chằng chịt, rất phức tạp để bẫy lươn. Người Gundijimara thì dựng lên những cái đập bằng gỗ ở hai con sông Hopkin và Moyne thuộc bang Victoria rồi sống luôn trong những ngôi nhà bằng đá hay có vách đất ở gần đó. Còn người Jaadwa cùng Toolondo (cũng ở bang Victoria) thì lại đào kênh để nối liền các con sông ở ven biển với các con sông nằm sâu trong đất liền rồi dồn lươn vào những con kênh đó.
Hái lượm: phụ nữ và trẻ em là những người có nhiệm vụ tìm kiếm và hái lượm thức ăn. Họ biết cách phân biệt các loại rễ cây và côn trùng có thể ăn được. Ngoài việc hái lượm, ở nhiều nơi, họ còn gieo trồng và thu hoạch các loại thân củ. Phụ nữ cũng thường chế bẫy để bẫy chuột, thằn lằn và những con thú nhỏ khác hoặc đi nhặt trứng của những loài chim sống ở dưới nước. Ngoài ra, họ còn có nhiệm vụ đi lấy nước, lấy củi, chuẩn bị các bữa ăn, may vá quần áo, chế tạo công cụ lao động, đồ dùng. Người Walbiri vùng hoang mạc phía tây - nơi nước và thực phẩm rất khó kiếm - đã biết tận dụng tối đa các loài động thực vật miền sa mạc. Họ dùng 103 loại thảo mộc; 138 loài chim, thú, côn trùng khác nhau để làm thực phẩm, làm thuốc, công cụ lao động.
Vũ khí và công cụ của thổ dân: thổ dân đã chế tạo ra nhiều loại đồ dùng, hàng hoá khác nhau từ vỏ cây, đá và da thú. Tuy nhiên, những sản phẩm do thổ dân miền hoang mạc tạo ra không giống với những sản phẩm của thổ dân miền biển (rìu, dao, búa, lưỡi câu, cái nạo, que đào, bình nước, thuyền, lưới đánh cá, túi da thú, quần áo, nơi trú ẩn...). Các loại vũ khí như giáo mác, boomerang và chuỳ đều được làm bằng gỗ. Họ còn dùng những mẩu xương được mài nhọn và những phiến đá được mài mỏng cột chặt vào đầu ngọn giáo để tấn công các loài thú lớn.

2. Xã hội thổ dân
Xã hội thổ dân được tổ chức theo cha truyền con nối, nam giới có quyền quyết định và kiểm soát. Có điều chắc chắn rằng, tại phần lớn Australia, các bộ lạc đều không có tù trưởng, nhưng những ông già là người lưu giữ những kiến thức thần bí và nghi lễ chính, họ cũng là người giải thích những điều “luật” mà các vị tổ tiên đã định ra.
Khoảng 6 tuổi, các bé trai đã được cho đi săn cùng với người lớn. Đến tuổi trưởng thành, chúng phải trải qua một buổi lễ “kết nạp" trước khi bắt đầu một quá trình lâu dài được truyền thụ những kiến thức cần thiết, những bài học về lịch sử, về tôn giáo, về luật lệ cũng như cách thức săn bắn của bộ lạc. Nhiều nghi lễ truyền thống được tổ chức với các hoạt động nhảy múa, ca hát... nhằm mục đích cầu cho mưa thuận gió hoà, thực phẩm phong phú... Trung tâm của các buổi lễ là những thiếu niên đến tuổi trưởng thành. Phụ nữ ít khi được phép tham gia những lễ hội này.
Dòng dõi họ hàng, nguồn gốc tổ tiên và giới tính là những yếu tố chủ yếu của xã hội thổ dân, xã hội đó vừa hoà đồng vừa phân biệt những cá nhân con người trong xã hội.
Trong truyền thống của thổ dân, ngôn ngữ không chỉ được quan niệm như di sản của những nhóm người. Họ cho rằng ngôn ngữ của họ có ngay từ thuở khai thiên lập địa.
Những thần Tổ cung cấp những ngôn ngữ nhất định cho họ và họ có quyền chiếm dụng ngôn ngữ theo những nguyên tắc của luật thổ dân. Nói chung, họ thừa kế ngôn ngữ của ông cha như cách thừa kế những quyền về đất đai.
Đa số thổ dân ở tuổi thành niên nói hai hoặc nhiều ngôn ngữ, có khi bốn, năm, hoặc hơn nữa, vì có những quan hệ chồng chéo với những gia đình ở những vùng gần gũi. Những người thuộc những nhóm ngôn ngữ khác nhau, luôn luôn sống cùng nhau, có xu hướng nói những ngôn ngữ của nhau, chứ không phải tất cả mọi người đều nói cùng một ngôn ngữ.
Sự đa dạng về ngôn ngữ của thổ dân Australia là sản phẩm của những quan hệ giữa những con người, chứ không phải là của sự chia rẽ giữa những con người. Tất nhiên, đó là kết quả của việc thổ dân có mặt tại châu lục Australia đã hàng vạn năm và tính chất địa phương của văn hoá thổ dân.
Ngôn ngữ thổ dân rất đa dạng. Người ta biết tới hơn 200 ngôn ngữ Australia có thể xác định về văn phạm, từ vựng và 500 loại thổ ngữ khác thường được gọi bằng những tên khác nhau, được người thổ dân thừa nhận trong thời thuộc địa. Những phương ngữ (địa phương) có thể lên tới con số mấy ngàn vào giữa thế kỉ XIX. Trong văn hoá cổ truyền của thổ dân không có chữ viết. Việc sử dụng chữ Latinh để diễn tả những âm thổ dân được đưa vào những trường học của thổ dân một cách tuần tự và vá víu từ giữa thế kỉ XIX, mới đầu là với những người truyền giáo và từ những năm 1970, với sự ủng hộ của chính phủ qua một vài trường ở xa. Kết quả là có một số người viết được tiếng của mình, nhưng hiệu lực lớn hơn nữa bị hạn chế, vì ngôn ngữ thì nhiều nhưng số người nói mỗi ngôn ngữ thì lại ít, và vì đa số thổ dân lại không coi trọng việc giao lưu với nhau bằng chữ viết.
Những ngôn ngữ của thổ dân ngày càng bị mất mát. Trong 200 năm, con số 500 ngôn ngữ mà thổ dân công nhận đã tàn lụi, hiện nay chỉ còn một nhóm người nói thôi mà những người này cũng thiếu hiểu biết về tiếng họ nói. Khi người châu Âu bắt đầu cuộc chinh phạt, dân số thổ dân có khoảng mấy trăm ngàn, đến năm 1900 chỉ còn 80.000. Từ lâu việc sử dụng những ngôn ngữ thổ dân đã bị phế bỏ trong nhiều trường và thường bị những người da trắng coi khinh ở những nơi công cộng.
3. Tôn giáo, phong tục và tín ngưỡng
“Tôn giáo nghĩa là nối kết lại. Thuyết duy linh là trung tâm của tôn giáo thổ dân, mô tả sự liên kết giữa nhân loại, thiên nhiên và thánh thần” [7]. Huyền thoại về thời Mơ Mộng bao gồm ba điều kiện cơ bản của cuộc sống: trái đất, những hình thái của cuộc sống và mối quan hệ họ hàng. Mơ Mộng có thể được xem như là sự thể hiện siêu hình những sự thực nguyên thuỷ, vạch ra sự khai sinh của thế giới và vị trí của con người trong đó. Mơ Mộng không phải là một nơi xa lạ nào đó làm chỗ trú ngụ của các thần linh vô danh mà là nơi chốn của giấc ngủ siêu hình của thổ dân....
Thổ dân đã làm nên "bộ mặt của trái đất" Bhagavad gita của họ, Torah của họ, hay Thánh kinh và kinh Koran của họ. Thực ra, Mơ Mộng chính là chiếc thuyền Thoả ước của thổ dân mà họ đã được mang theo vào lục địa Australia ngay từ lúc khởi đầu... [2, tr.2]. Sự phản ánh những mơ mộng nguyên thuỷ và những câu chuyện về thời Mơ Mộng đã tạo niềm tin tôn giáo trường tồn xa xưa nhất.
Tổ tiên thời Mơ Mộng đã sáng tạo ra thế giới, biểu tượng là con rắn Cầu Vồng, một nhân vật tiềm tàng nghị lực đại diện cho sự thiêng liêng của trái đất và có nhiệm vụ hướng dẫn thực hành các nghi lễ. Huyền thoại về con rắn Cầu Vồng là một phần của chủ đề tôn giáo cổ xưa nhất được tiếp tục dẫn chứng bằng tư liệu qua những hình ảnh được ghi chép lại trong những bức tranh hang động từ hơn 20.000 năm trước. Theo một huyền thoại cổ ở vùng Arnhemland, con rắn Cầu Vồng, tổ tiên vĩ đại Ngaljod, trước hết tạo ra chính mình như Ulbar, một khúc gỗ có lỗ hổng dài. Ulbar tạo ra âm thanh và chấn động, đã được dùng như một cái cồng trong các nghi lễ thần thánh, nó được xem như một vật hết sức thiêng liêng. Lỗ hổng của Ulbar hay con rắn Cầu Vồng, thỉnh thoảng được đề cập đến như là tử cung của người mẹ vĩ đại và hình dáng bên ngoài được xem như là cơ quan sinh dục nam hay hình thể giống đực của con rắn Cầu Vồng [2, P.119]. Trong thời Mơ Mộng, con rắn hình thành những hang động, thung lũng và sông ngòi. ở những nơi mà tổ tiên đã để lại quyền năng của họ, những hình thái và chủng loại của sự sống sẽ bắt đầu khi được con rắn chạm đến. Qua thời gian, con rắn Cầu Vồng thay phiên loại trừ và tái tạo sự sống trên toàn thế giới. Điều đáng lưu ý là cụm từ “Thời Mơ Mộng" đối với thổ dân là nền tảng của sự sáng tạo và hiện hữu của họ. Tinh thần tối thượng không phải là thiên đường của đạo Thiên Chúa hay những quy luật khoa học của các nhà kĩ thuật mà là sự tiếp giáp tự nhiên với trạng thái ngủ bình thường. Mơ là trạng thái siêu nghiệm tối thượng lí giải được những khía cạnh của thế giới vật chất, dường như giấc ngủ và giấc mơ là để đạt đến trạng thái thức tỉnh. “Trong ngữ nghĩa đối lập với thời Mơ Mộng hay tjukurrtjana, là từ yuti có nghĩa là đến với thế giới Thực Tại, có thể nhận thức được bằng giác quan. Toàn thể vũ trụ và kinh nghiệm của thổ dân được phân chia căn cứ vào đặc tính trái ngược này yuti/mulparrpa, sự thật có thể nhận thức được và tjukurrtjana - thời Mơ Mộng. Hai phương thức tư duy đó có giá trị ngang bằng tuy loại trừ lẫn nhau, đến mức độ mà, nếu một người đi săn trở về từ cánh đồng và tham gia vào cuộc nói chuyện với một nhóm người, anh ta lập tức hỏi rằng họ đang nói về “yuti/mulparrpa” hay “tjukarrtjana” [2, tr.226]. Những khía cạnh trái ngược đó không hề bị coi là tiêu cực mà trái lại được nhận thức trong ngôn ngữ là sự sáng tạo, giống như một chuyển động từ thời kì chủ quan nguyên thuỷ sang thế giới khách quan. Trong khi những tôn giáo khác ngày nay tự đặt mình ưu tiên vào trạng thái lí tưởng hay siêu nghiệm, thì thổ dân tin vào thế giới vật chất của chân, thiện, mĩ, sự hiện thực của những quyền năng sáng tạo siêu hình. "Sức mạnh và sự hiện hữu của tjukurrtjana luôn được bộc lộ ra trong mối quan hệ với yuti. Trái đất như một tấm gương hai mặt: bên trong năng lượng tinh tế và cấu trúc tượng trưng của nó, nó hấp thu và phản chiếu tính cách siêu hình của sáng tạo. Sự phản chiếu này, thông qua những hình thức bên ngoài của trái đất, dội lại trong ý thức của nhân loại, tự nhìn ngắm xem xét và khám phá ra ý nghĩa của chính nó, cùng với cội nguồn và ý nghĩa của thiên nhiên... Cảnh quan địa hình của trái đất là một tấm gương mầu nhiệm qua đó nhân loại, thiên nhiên và những tạo vật khác được phản chiếu qua lại trong một chu kì hỗ tương...” [2, tr.270].
Trong nhóm thổ dân Australia, những từ “tôn giáo” hay “thiêng liêng" có liên quan đến những nghi lễ như maraiin ở phía tây Arnhem Land hay duju ở phía đông bắc Arnhem Land, darugu hay djudju ở phía đông... Nói cách khác, cho dù là phép thuật hay tôn giáo, là một hành động có tính chất tượng trưng đều được lưu lại cho đời sau. Những nghi thức và niềm tin đó đã được chuyển giao hầu như hoàn toàn bằng khẩu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và mặc dù sự biến đổi chắc chắn là không tránh khỏi trong lúc chuyển giao đó, qua thời gian, niềm tin vẫn không hề hao hụt.
Tín ngưỡng của thổ dân Australia có thể được miêu tả như một hình thức phức tạp của vật linh giáo. Các bộ lạc thổ dân nhận những cái cây, con thú hay các vật thể xung quanh mình làm những vật tổ linh thiêng, mà quan trọng nhất trong số đó là Uluru - cái tên thổ dân đặt cho vách đá Ayers. Họ tin Uluru chính là trung tâm của thần linh trên toàn Australia, là nơi mà từ đó vô số các thần linh toả ra, tràn ngập khắp đất nước. Những địa điểm linh thiêng như Uluru thường được viện đến để gia tăng thêm sức mạnh của ma thuật Giấc mộng. Một trong những ma thuật linh nghiệm nhất là lời nguyền "chỉ xương". Với ma thuật này, một nạn nhân xấu số sẽ bị thầy mo nguyền đến chết trong một nghi lễ phức tạp. Nạn nhân chỉ có hi vọng thoát chết nếu nhờ được một thầy mo có pháp thuật mạnh hơn đảo ngược lại lời nguyền. Ngày nay, ma thuật “chỉ xương" vẫn còn tồn tại dưới hình thức một bài nguyền có ý nghĩa "kết tội".
Lãnh thổ là nơi tồn tại của một nhóm người. Trong những nhóm thổ dân, lãnh thổ là nơi mà những linh hồn tổ tiên hoạt động. Những lực lượng thần linh rất mạnh luôn luôn kiểm soát thế giới của những biến cố và đối tượng vật chất. Đối với thổ dân, đất đai rất thiêng liêng. Họ sống nhờ đất và đất đã hình thành nên ý thức, tôn giáo của họ. Họ dành trọn tình cảm của mình cho ao, hồ, sông, suối cũng như cây cỏ, đất đai. Họ không xem đất đai như một cái gì có thể sở hữu được, có thể khai thác để làm lợi cho riêng mình. Trong một bộ lạc, không ai giàu có hơn ai và điều này không được phép xảy ra. Của cải phải được chia đều cho mọi người. Thổ dân không bao giờ tích luỹ những sản phẩm dư thừa, họ chỉ làm đủ cho nhu cầu hiện tại:
“Họ hạnh phúc hơn người châu Âu chúng ta nhiều, hoàn toàn không quen với những tiện nghi dư thừa và cần thiết mà chúng ta cố công tìm kiếm ở châu Âu, họ hạnh phúc vì họ không biết sử dụng các vật dụng ấy. Họ sống trong sự bình yên và chẳng hề bị quấy rầy bởi sự bất bình đẳng trong cuộc sống. Đất liền và biển cả tự đem lại cho họ tất cả những gì mà họ cần cho cuộc sống... Họ cho rằng họ đã được cung cấp tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống và cũng cho rằng chẳng có gì là dư thừa cả. Họ di chuyển từ nơi này đến nơi khác như những con thú đang săn mồi và sống trong những căn nhà bé xíu tồi tàn”. Đó là những nhận xét về thổ dân của thuyền trưởng James Cook (người khám phá ra lục địa Australia) và Joseph Banks (nhà thực vật học- trợ lý của Cook).
Đất đai không chỉ đem lại sự sống cho thổ dân mà còn là lẽ sống của họ. Thổ dân tin rằng, tất cả cỏ cây, ao hồ, hang động... đều là của tổ tiên họ. Họ cho rằng vào buổi bình minh của nhân loại, tổ tiên của họ đã sáng tạo ra những kì tích, những tạo vật đó và linh hồn của họ sau khi chết vẫn tiếp tục tồn tại, ẩn náu đâu đó trong những tạo vật kia.
Thổ dân còn cho rằng, tổ tiên của họ hoá thân vào trong biển cả, vào chim muông, vào mỗi con người. Vì thế, thổ dân xem thế giới tự nhiên, gia đình họ, bộ lạc của họ và cả chính bản thân họ là một. Cuộc sống cứ thế tiếp diễn, dường như không bao giờ thay đổi. Tín ngưỡng thờ vật tổ đã củng cố thêm cho niềm tin này. Vật tổ có thể chỉ là một con chim, một con thú hay một cái cây nào đó. Mọi người đều tin rằng một cái cây hay môt con thú nào đó có thể cũng chính là họ, đại diện cho họ. Vì thế, họ không bao giờ làm một điều gì có hại cho chúng.
Người ta tin rằng, một số thần Tổ vẫn còn sống. Thần Tổ không chỉ là tổ tiên của những nhóm người hiện nay mà còn tạo ra những điều kiện để sinh sôi nảy nở về sau nữa, phải có thần mới làm cho có mang được. Bụng của người đàn bà phải được một vị thần lọt vào, vị thần đó phát sinh từ một nơi, nhiều khi là dưới nước. Mỗi con người có sự gắn bó đặc biệt với nơi mà mình có mang nhờ thần linh, nơi này cũng có thể là quê hương mình. Người ta có xu hướng tự xác định mình có quan hệ chặt chẽ với tổ tiên, đặc biệt khi về già. Trong một vài tôn giáo thổ dân, người ta cho rằng, khi một người chết đi thì thần của người đó trở lại trong nước, và trong một số tôn giáo, có hẳn một lí thuyết về sự đầu thai trở lại. Những tôn giáo thổ dân không nhìn về một tình trạng hoàn hảo trong tương lai, mà cũng không muốn quay lại một dĩ vãng hoàn hảo cho nhân loại. Hành động của con người cũng không do một vị thần coi là hoàn hảo phán xét, để trong một cuộc đời tương lai, cái tốt được thưởng, cái xấu bị phạt. Người ta quan niệm, những thần Tổ là những người làm ra luật pháp, định ra những quy luật cho xã hội và những thủ tục nghi lễ, chỉ trong một vài trường hợp mới huỷ chúng đi. Người ta chấp nhận rằng, mọi vị thần, thuộc tổ tiên hay là con người, đều có những khía cạnh nguy hiểm và lỗi thời, khía cạnh hiền lành và hợp trật tự. Những sự đam mê không bị tách biệt như những nguồn gốc của cái xấu mà được coi như một bộ phận đầy đủ của cuộc sống. Do đó, người ta không hình dung ra được một trận đấu quyết liệt giữa cái tốt và cái xấu. Phù hợp với thái độ chung này, thổ dân tin rằng, những lực lượng ma quái có thể khống chế được để phục vụ cho một tôn giáo và trật tự. Những tín đồ trẻ tuổi sẽ bị tội nếu tiết lộ những bí mật tôn giáo.
Nghi lễ
Nghi lễ nhằm nhiều mục đích như: bày tỏ sự thương tiếc người đã chết, làm cho những người chịu tang được trong sạch, tránh khỏi những hậu quả của cái chết hoặc khỏi một sự đổ máu, làm tiết lộ những bí mật tôn giáo cho những tín đồ để đạt được quyền lực của ông Tổ, trao đổi quà tặng, giải quyết những tranh chấp hay thay những chuyện đánh nhau bằng cái khác. Nhiều mục đích chồng chéo lên nhau trong cùng một nghi lễ.
Nhiều nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, trong đó người ta thực hiện hành động giao phối. Những điệu múa, hình vẽ, đồ thờ có hình dáng dương vật hay âm vật với mục đích cầu mong cho con người và vạn vật ngày càng phồn thịnh. Bên cạnh đó, người ta còn làm các nghi lễ tăng trưởng nhằm mục đích thúc đẩy sự sinh trưởng của con người và các loại cây lương thực. Thổ dân còn có các nghi lễ bí mật của phụ nữ và nam giới liên quan đến vấn đề tình dục. Nhìn chung, nghi lễ của họ mang tính ma thuật.
Các bài hát cũng được những thần Tổ hát trước, rồi truyền từ đời này sang đời khác và có thể được các thần Tổ tiết lộ trong một giấc mơ. Các điệu múa hoà đồng với những ông Tổ và làm lại những hành động của ông Tổ. Hát những bài hát, múa những điệu múa, những người tham gia hành động như những vị thần và hoà đồng với các vị đó.
Những nguyên tắc này không những đặt cho các lễ tiết mà cả cho những tín điều về âm thuật và về chữa bệnh. Người ta tin rằng có quan hệ nhân quả giữa một người với bộ phận của người đó. Quan hệ nhân quả đó không phải chỉ là quan hệ quy ước được đặt ra bởi sự nhận thức hoặc bởi một quy luật mà nó cũng xảy ra giữa hình ảnh trông thấy và nghe thấy của con người kia, theo tín ngưỡng thổ dân. Do đó, việc tác động tới một bộ phận hay tới một hình ảnh của con người thì làm hại tới chính người đó. Trái lại, quyền lực của thần Tổ là ở dấu vết mà thần để lại hay trong sự thể hiện vị thần.
Trong những nghi lễ về người chết, có thể chọn lựa những bài hát, điệu múa có quan hệ tới nhóm và quê của người chết hoặc nhóm và quê của họ hàng gần nhất. Những bài hát và điệu múa đó bao gồm những thứ mô phỏng quy trình chết và thối rữa, như bài hát về con sâu nhai thân cây dại và những tượng trưng của cuộc hành trình của linh hồn lên trời hay về đất tổ.
Nghi lễ nhập môn
Chim biển Bridle là một thần Tổ quan trọng của bộ tộc Djambarr - Puyngu thuộc Vịnh Buckingham, Arnhem Land. Một bài hát kể lại con chim thần lao xuống biển bắt con cá và bay trở lại như thế nào. Bài hát với một điệu múa kèm theo, có cả một sợi dây dài có lông chim tượng trưng cho đường bay của con chim biển, được biểu diễn trong buổi nghi lễ tước quy đầu.
Những người đàn ông múa bọc lấy cậu con trai được tước quy đầu, giam cậu lại trong vòng sợi dây. Nghi lễ này rõ ràng là tượng trưng cho việc đưa cậu bé hội nhập với xã hội đàn ông và đời sống tôn giáo của họ, vì với việc tước quy đầu, cậu bé đã từ một đứa trẻ trở thành một cậu thiếu niên.
Trong những nghi lễ “Bước vào đời”, những vật, những bài hát, điệu múa thần thánh được tiết lộ cho những người mới nhập cuộc. Trong một vài vùng Australia, chỉ đàn ông mới có những nghi lễ đặc biệt như thế, đàn bà và con trẻ thì không được biết đến những khía cạnh bí mật. Tại những vùng khác của Australia, đàn ông và đàn bà đều có những nghi lễ đặc biệt, đàn ông phải bị loại ra khỏi những nghi lễ bí mật của đàn bà. Kiến thức tôn giáo và việc tham gia tôn giáo được đánh giá rất cao vì những nghi lễ đó liên quan tới thần linh và những quyền lực mạnh nhất trong vũ trụ. Việc tổ chức những nghi lễ đó đòi hỏi sự hợp tác của mọi người trong một vùng rộng lớn.
4. Nghệ thuật hội hoạ
Thổ dân Australia đã tạo ra những bức vẽ độc đáo biểu lộ năng khiếu thẩm mĩ cao, với óc tưởng tượng đặc biệt phong phú. “Hội hoạ thổ dân” khởi phát từ niềm tin cha truyền con nối vào những huyền thoại bí ẩn về cuộc sáng thế, về tổ tiên xa xưa, những sinh vật khổng lồ nửa người nửa thú đã tạo ra núi, đồi, sông, suối với cỏ cây, cầm thú muôn loài.
Hầu hết “hoạ sĩ” của bộ lạc là đàn ông. Hình thái nghệ thuật của họ gồm có vẽ, chạm khắc trên đá hay vỏ cây với những công cụ, vật liệu thường được sử dụng là đá, rìu, đất son... Qua các tác phẩm nghệ thuật, họ ghi lại hình ảnh của những buổi lễ tôn giáo, những cảnh quan tự nhiên hay những biến cố xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Chính những “hoạ sĩ thời đồ đá” ấy đã và đang sáng tạo ra những tác phẩm khác thường để lưu truyền trong bộ tộc những huyền thoại ngàn đời. Ngoại trừ ít nhiều ảnh hưởng không đáng kể từ Indonesia hay Malaysia tới vùng ven biển phía bắc, nhìn chung, có thể nói rằng nghệ thuật của thổ dân Australia hình thành và phát triển hoàn toàn tách biệt với mọi nền văn hoá khác.
Thổ dân đã cư ngụ ở Australia khoảng 50.000 năm. Nền văn hóa của họ không xây dựng nên các công trình kiến trúc lớn nhưng lại thể hiện tính đặc trưng của mình thông qua các loại hình nghệ thuật phù du tại các nghi thức long trọng như: vẽ hình lên người và các kiểu óc, vẽ hình lên đất, cát và nghệ thuật khắc trên gỗ. Do vậy, phần lớn lịch sử của quá khứ không thể tìm lại được. Tuy nhiên, nơi mà dấu vết của quá khứ tồn tại ở dạng vật chất lại được tìm thấy ở các bức chạm khắc bằng đá mà người ta vẫn gọi là nghệ thuật bằng đá.
Việc quy giá trị huyền thoại cho những quan hệ xã hội là một chiến lược của những xã hội thổ dân. Nghệ thuật là một phương tiện nền móng để biểu đạt và củng cố hệ thống tín ngưỡng, nó được thực hành rộng rãi trong xã hội thổ dân. Chỉ có những hình vẽ hay chạm khắc trên những núi đá bền chắc là còn sống sót như những bằng chứng của các hoạt động nghệ thuật trong quá khứ. Những bằng chứng này có mặt trên khắp Australia.
Nghệ thuật điêu khắc trên đá của thổ dân mỗi vùng có một phong cách riêng song vẫn có một số nét chung cho các vùng. Nhiều hình thù trình bày những sự kiện huyền thoại và được coi như có quyền lực ma quái của những thần Tổ, đó là kết quả của sự sáng tạo. ở Arnhem Land, một số tranh nghệ thuật vẽ người và súc vật phản ánh những hoạt động của những người săn bắt tại vùng đất bên trong, có thể coi như có niên đại vào thời kì trước lúc nước biển lên cao, có thể là 10.000 năm hoặc xa hơn nữa.
Ở tại Sturts Meadow, miền Tây South Wales, những hình vẽ chắc chắn có niên đại trên 10.000 năm trước đây. Những hình vẽ ở núi đá tại Nam Australia có niên đại tới 30.000 năm. Nguồn gốc của nghệ thuật được sinh ra trong “thời Mơ Mộng” phản ánh sự liên tục của truyền thống và lịch sử thổ dân.
Cộng đồng xã hội thổ dân Australia không có tầng lớp nghệ sĩ tách riêng. Khi có dịp, hầu như thành viên nào trong bộ tộc cũng có thể đảm nhiệm chức năng nghệ thuật để vẽ, nặn hay chạm khắc ra những tác phẩm cần thiết. Tài năng tuy khác nhau, song các hình vẽ bao giờ cũng được thể hiện mạnh bạo, dứt khoát và chắc tay, không hề tẩy xoá hay dạm lại, luôn luôn phù hợp với cảm nhận chung và được cộng đồng chấp nhận, đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ bẩm sinh của bộ tộc. Theo tín ngưỡng chung mà người đại diện là thầy mo, bức vẽ trên vỏ cây, hình khắc trên vách đá hay chiếc cột gỗ chạm trồng cạnh một ngôi mộ mới, đều là phương tiện tôn thờ hay khôi phục uy lực của mọi sức mạnh thiên nhiên, làm tăng nguồn thức ăn, trừng phạt kẻ phạm tội, hay đẩy lùi quân thù.
Nghệ thuật của thổ dân khá đa dạng. Mỗi vùng lãnh thổ đều có những nét đặc thù riêng. Tuy vậy, phong phú và đặc sắc hơn cả vẫn là nghệ thuật ở miền duyên hải phía bắc, tập trung tại vùng Arnhem Land, với loại hình tranh vẽ trên vỏ cây mang tính minh hoạ hay trang trí kì thú. Hòn đảo Groote Eylandt trong vịnh Carpentarie phía đông Arnhem, là xứ sở của những hình vẽ tả người, tả vật trên nền trơn. Trái lại, những hình khắc trên vách đá ở tây Arnhem gây ấn tượng mạnh nhờ tính hiện thực sống động, không gặp ở đâu khác trên toàn châu lục.
Đối diện bờ biển phía tây Arnhem là hòn đảo Melville, nơi mà các hoạ tiết được cách điệu đầy bí ẩn trong tranh vỏ cây. Đảo này còn có loại hình điêu khắc độc đáo, là những cột mồ (pukumani) bằng gỗ nguyên cây, đẽo gọt hay phủ đầy họa tiết trang trí có ý nghĩa thần bí. Mỗi cột là một hình người cách điệu hoá rất cao. Khối gỗ chia từng đoạn, được khắc vát khá sâu, thậm chí khoét thủng, thường tô màu hay vẽ hình trang trí biểu tượng.
Nghệ thuật của thổ dân Australia thể hiện ở ba loại hình: chạm trổ, điêu khắc và hội hoạ (vẽ tranh hay trang trí).
Tài năng chạm trổ của nghệ sĩ thổ dân thể hiện qua cách trang trí những khiên mộc, những chiếc boomerang (boomerang: vũ khí quăng ném thông dụng của thổ dân Australia, làm bằng thanh gỗ cứng, dẹt, hình chữ V doãng, nếu không trúng con mồi lại tự bay về điểm xuất phát), những thanh lao nhọn, cũng như trên các đồ thờ bằng gỗ, bằng đá, hoặc hình trang trí thân cây, vách đá, mặt đất nơi bãi tế lễ. Tại vùng bờ biển phía đông và đông nam, ta gặp những hình phức tạp cực đẹp khắc lên khiên mộc gỗ. Vùng tây bắc có những trang trí tinh xảo trên các tấm gỗ thờ và những họa tiết khắc trên vỏ trai, với nhiều hình triện hồi văn gấp khúc, giống như trên bình gốm Hi Lạp thời cổ. Tại vùng hoang mạc ở trung tâm lục địa, hình khắc trên các đồ vật tế lễ có phần đơn giản hơn. Đó là những mô típ giản dị nhưng đầy tính trực cảm hồn nhiên, không chút gò bó.

Nghệ thuật gọt đẽo tượng nhỏ và nặn hình người, hình muông thú, dàn rộng trên khắp châu lục nhưng phân bố không đều và phát triển hơn cả là dọc theo bờ biển phía bắc. ở Cap York cũng như Arnhem Land, người ta tạc bằng gỗ những pho tượng đầu người hay cả người, biểu tượng nhân vật huyền thoại thuở sáng thế, hoặc nhân vật đời thường. Vùng tây Arnhem có những tượng đầu người nặn khéo léo bằng đất son hay đất sét. Tượng đầu người tại vùng tây bắc châu lục thường đục chạm bằng gỗ hay đá, khá nhiều về số lượng, với vẻ đẹp không thua kém các tác phẩm vùng Arnhem Land. Điêu khắc miền Nam có lẽ chỉ còn lại hai tiêu bản lưu trong bảo tàng: một hình đầu người gọt trên đầu mái chèo ngắn và một mặt người khắc trên chiếc chậu gỗ [4].
Tuy nhiên, loại hình nghệ thuật đặc sắc nhất của thổ dân Australia vẫn là nghệ thuật vẽ màu, đậm tính đồ hoạ, biểu hiện đời sống tinh thần và mĩ cảm phong phú nhất. Từ cách trang trí đồ thờ, hoạ tiết kỷ hà trên các loại vũ khí hay công cụ lao động, tới những bức vẽ lớn trên mặt đất vào mùa tế lễ vật tổ, các ghi chép bí ẩn trên các cột mồ, hay cả những hình vẽ sặc sỡ trên mình các vũ công trong tang lễ nhảy múa ngoạn mục trên đảo Melville... tất cả đều tôn vinh vai trò của nhà hoạ sĩ bản địa.
Các bức tranh đá thường được thể hiện trên vách núi lộ thiên hay vách hang không sâu, hoặc các điểm trú ngụ dưới vòm mái đá. Điều đáng ngạc nhiên là, thể loại tranh này không thấy xuất hiện tại vùng Đông Nam châu lục và trên đảo lớn Tasmania, nơi mà vách đá rất thích hợp cho mục đích trên.
Về phong cách tạo hình của từng địa phương, tranh vách đá biểu lộ những khác biệt nổi bật.
Tại vùng núi Kimberley ở tây bắc, ta gặp hai phong cách đối lập nhau, cả hai đều khác thường: đó là những bức hoạ đồ sộ của bộ tộc Wanjina, có khi dài tới 6m với những mặt người hay thần linh trắng xoá, không có miệng. Những bức vẽ này được tu sửa hàng năm để khỏi phai mờ và “ảnh hưởng xấu tới mùa thu hoạch hái lượm”. Thứ hai là, những bức vẽ hình người nhỏ xíu của bộ tộc Giro-Giro, chỉ cao dăm ba cm, vẽ thuần một màu đỏ, song các nhân vật nam cũng như nữ ở đây đều được miêu tả trong những thế dáng năng động, khác hẳn các tư thế ngưng tĩnh trong tranh lớn Wanjina.

Về nét vẽ và màu sắc, tranh vách đá dọc triền núi phía tây cao nguyên Arnhem ngoạn mục và phong phú hơn cả. Ngoài ra, vùng này cũng có hai dạng tranh vẽ khác lạ nữa. ở đây có những bức vẽ sinh vật rất độc đáo, được giới nghiên cứu gọi là “tranh X-quang” (hoặc tia Rơn gen), bởi hoạ sĩ không chỉ mô tả bề ngoài nhìn thấy của con cá, con rùa, con kanguru, mà vẽ cả phủ tạng, ruột gan bên trong. Kanguru là loài chuột túi, giống thú chỉ sống tự nhiên tại Australia, chân sau rất dài, nhảy xa. Con cái có túi trước bụng để nuôi con những tháng đầu tiên sau khi sinh. Ta có thể gặp những hình vẽ cá dài tới 2,5m, chi chít hàng trăm nét đỏ, vàng, trắng. Cũng đáng lưu ý là, tuy “nhìn thấu” như vậy, song các phủ tạng đều được cách điệu khá cao. Loại hình này được xếp vào số những tiêu bản giá trị nhất của hội hoạ vách đá. Dạng thứ hai là, những hình đơn tuyến, chỉ gồm một nét vẽ trơn, liền mạch, của tộc người Mimi, nổi bật về cảm thức bố cục và động thái khẩn trương, mà “hội hoạ X-quang” không có. Chủ đề duy nhất của loại tranh Mimi này là những hình người thanh mảnh, lều ngều, rất sinh động: múa, chạy, chiến đấu, ném lao... Tranh vách đá ở đây mang đậm ý nghĩa tín ngưỡng, phân biệt thần tộc Mamandi ác độc, nguy hiểm, với thần tộc Mimi hiền lành vô hại.
5. Nghệ thuật trình diễn
Trong thời Mơ Mộng của thổ dân, những sinh hoạt văn nghệ dân gian, hội hè, lễ lạt mang tính chất chung của bộ lạc bắt đầu xuất hiện. Hầu như bộ lạc thổ dân nào cũng có lễ hội. Lễ hội của thổ dân và dân đảo Torres Strait thể hiện sự phong phú và đa dạng của văn hoá bản địa vẫn còn tồn tại trên đất nước Australia ngày nay: lễ hội Garma (vùng lãnh thổ phía bắc); lễ hội văn hoá Torres Strait (bang Queensland); lễ hội Ground Stompem (vùng phía tây Australia); lễ hội Larapuna (bang Tasmania)...
Lễ hội Garma được diễn ra ở Gulkula, vùng đất Nanydjaka (hay còn gọi là Cape Arnhem) là một khu bảo vệ bản địa ở bờ biển Arafura (thuộc vùng lãnh thổ phía bắc Australia). Người Yolngu (yol-ngoo) ở vùng đông bắc Arnhem có một trong những văn hoá cổ xưa nhất trên trái đất. Lễ hội Garma là một lễ hội tôn vinh những di sản được củng cố bằng triết lí chia sẻ kiến thức và văn hoá, lễ hội của sự gắn với thông điệp của đất. Bunggul (boong-gool) nghĩa là trình diễn, là phần nổi bật nhất của lễ hội, là một bức tranh liên hoàn về một nền văn hoá gắn chặt với vùng đất này. Từ những nốt nhạc trầm lắng đầu tiên của tiếng yidaki (nhạc cụ didgeridoo) báo hiệu lễ hội bắt đầu, người xem được nhắc nhở rằng họ là một phần của lễ hội Garma. Người hát dẫn của bộ tộc Rirratjingu cất tiếng hát làm nền cho các nghệ sĩ bắt đầu trình diễn. Mỗi một tiết mục đều chậm rãi chuyển động từ khu rừng bạch đàn về đến sân khấu, trên nền âm nhạc của tiếng bộ gõ Bilma, điệu hát Manikay và tiếng nhạc cụ Yidaki.
![]() |
![]() |
Ánh bình minh chiếu rọi khoe ra những giọt sương đọng trên đám mạng nhện ở lớp vỏ bạch đàn trong những cánh rừng vùng đông bắc Arnhem; người Yolngu sử dụng hình ảnh những chiếc mạng nhện buổi sáng này trong các tiết mục trình diễn lâu đời.
Lễ hội văn hoá Torres Strai được tổ chức hàng năm tại đảo Thứ Năm. Dân quần đảo Torres Strait tôn vinh di sản văn hoá độc nhất vô nhị của họ bằng một lễ hội thể hiện tình yêu với biển và với những hòn đảo nơi đây. Kể từ khi tới những hòn đảo này vài vạn năm về trước, dân đảo Torres Strait đã phát triển và gìn giữ những phong cách âm nhạc và vũ điệu thể hiện rõ sự gắn bó sâu sắc với nơi họ đang sống. Nhảy múa vẫn là hình thức phổ biến nhất để thể hiện văn hoá với cuộc ganh đua vui vẻ giữa các nhóm dân đảo và các nhóm totem. Tiếng trống, nhịp chân từ các vũ điệu, tiếng lách cách của bộ lắc, tất cả hoà quyện vào nhau, nhắc nhở các nghệ sĩ và khán giả về sự đa dạng và sức mạnh của di sản độc đáo từ các địa phương. Một số trang phục và khăn đội đầu của các nghệ sĩ múa rất độc đáo, được coi là vật dụng linh thiêng. Chỉ khi được phép của những “chủ nhân” truyền thống thì các trang phục này mới được sử dụng. Điều này được truyền lại từ các ông tổ linh thiêng theo luật riêng của đảo.

Thổ dân sống trên khắp vùng lục địa và quần đảo Torres Strait ở phía bắc Australia rất đa dạng, họ có hơn 200 nhóm ngôn ngữ khác nhau. 17 trong số 34 hòn đảo của vùng Torres Strait có người sinh sống. Mỗi nơi đều có những nét văn hoá độc đáo và mỗi bộ tộc lại có một cách riêng để tôn vinh văn hoá của mình.
Các truyền thống cổ xưa và cuộc sống giàu nghi lễ vẫn được các dân tộc thổ dân và dân đảo Torres Strait trên khắp Australia gìn giữ.
Sức sống của văn hoá thổ dân thể hiện rất rõ nét qua nghệ thuật hội hoạ, âm nhạc và trình diễn, thể hiện trong các điệu múa corobooree cổ xưa.
Các điệu nhảy nghi lễ là những sự kiện trang nghiêm, chỉ diễn cho những người đã hiểu lễ giáo xem. Các điệu hát tái hiện lại những làn điệu và những động tác của tổ tiên. Các phương thức cầu khấn truyền thống, cầu mong các biểu tượng của bộ tộc mang lại mùa màng và của cải, được truyền lại cho các thế hệ.
Vì tiếng hát không thể tách khỏi nhảy múa, nên nhạc, múa, lời ca đã tạo thành một tổng thể của hoạt động nghệ thuật gắn liền với sinh hoạt hằng ngày như lao động, vui chơi, nghi lễ, phong tục của thổ dân.
6. Văn học dân gian
Truyện cổ của thổ dân Australia là một trong những kho tàng văn học dân gian cực kì lí thú của nhân loại.
Vị trí trung tâm trong sáng tác văn học dân gian của thổ dân Australia là những truyện thần thoại mà ở đó, cốt truyện là những hoạt động của con người thời tiền sử hay “thời Mơ Mộng" (Dream Time) như cách gọi của họ. Thời Mơ Mộng này không được các thổ dân Australia lí tưởng hoá mà lại được mô tả như thời kì tạo lập ra vũ trụ, ra muôn loài và vạn vật (như truyện Tạo ra con ngời; Tạo ra lửa; Tạo ra mặt trời; Sao mai Mulliam-ga; Sự tích cá sấu; Thần chớp Namaruđu; Những cuộc chu du kì diệu của Varrunna; Thiên nga đen; Tình yêu của bảy chàng Berei- Berei...) [3]. Những anh hùng thần thoại của thổ dân Australia không phải là các vị thần cao siêu mà chủ yếu là các vị tổ mang tính vật tổ (tô tem), như truyện Vị thần tổ tiên Ngurunderi; hay nguồn gốc các bộ lạc, như truyện Vi - Umbin và Piggi - Billa... mà các vị tổ này lại thường mang hai mặt: vừa là người vừa là vật và dễ dàng chuyển đổi hình thức tồn tại của mình từ dạng này sang dạng khác (truyện Lễ Bora vĩ đại của pháp sư Baiame; Pháp sư Kangooru - Bora đuổi bóng tối; Pháp sư gọi ma;...).
Trong thần thoại của thổ dân Australia, ta thường gặp công thức mở đầu: “Câu chuyện xảy ra vào thuở khi mà các loài chim thú còn là người” và công thức kết thúc: “Các vị tổ đó biến từ người thành vật".
Một trong những mảng khá quan trọng trong văn học dân gian thổ dân Australia là truyện cổ tích. Thổ dân Australia cho rằng “cổ tích” không mang trong mình ý nghĩa “thiêng” như thần thoại và được kể để mua vui cho những người bình thường nghe, qua đó giữ họ vào khuôn phép của luật tục (Chàng nhện bị bắt cóc; Điginboia - con chim chiến binh; Con cú xám tí hon Irin; Địa ngục của những linh hồn ác; Những cuộc phiêu lưu của Balalngu;...). Vì thế mà “cổ tích” chừng nào đó cũng là “thần thoại” nhưng là “thần thoại” cho người bình thường. Đây là nét đặc trưng rất “Australia”. Ngay cả những câu chuyện kể về những con vật khác nhau (như truyện Những con chim ngực đỏ; Những con chim bồ câu có mào; ảo ảnh của thằn lằn; Cái chết của con chim ác là ngực đen; Vũ điệu Brolga; Rắn khổng lồ Babbur; Thú mỏ vịt Gaia- Đari; Rùa Vaiamba; Kì đà và rắn đen; Pháp sư quạ; Bồ nông Gulai-Ali; ếch sứ giả; Bầy chó của Balu; Vẹt Gala và thằn lằn Ula; Nhím và rùa; Diều hâu tí hon lấy trộm được lửa;... thì những hình tượng và tình tiết cũng có những mối quan hệ rất chặt với những khái niệm thần thoại tô tem. Có thể nói, các mô típ thần thoại và những khái niệm tô tem (vật tổ) đóng một vai trò rất lớn trong văn học dân gian của thổ dân Australia, như truyện Con ếch đá. Thế nhưng, bên cạnh đó, trong thần thoại và cổ tích của thổ dân Australia, không thiếu những tưởng tượng hấp dẫn về mặt tình tiết cũng như những bức tranh sinh động về những nhân vật hay hình tượng phi huyền thoại.
Lịch sử thổ dân là lịch sử truyền miệng. Những câu chuyện được ghi nhớ lâu đời, được kể lại quanh các lửa trại và các điệu múa. Chúng kể về việc hình thành sự sống, về Chúa trời, về cách mà các đất nước được tạo thành. Chúng ta phải mở to tai để nghe các câu chuyện của họ (đó là yêu cầu của thổ dân), để nghe lịch sử của vùng đất này vì họ là những người ở đây đầu tiên.
"Văn hoá thổ dân Australia là nền văn hoá lâu đời nhất còn sống sót trên trái đất này. Nền văn hóa thổ dân ấy vẫn đang tiếp diễn.
Chúng tôi cũng cần một sự chấp nhận rằng nền văn hoá của chúng tôi là một nền văn hoá đang tồn tại và đang phát triển, điều này nảy sinh từ sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa quá khứ và hiện tại.
Nhận thức được nỗi chia sẻ này, chúng tôi có thể mang lại một sự hiểu biết sâu sắc mới đối với rất nhiều thách thức mà thế giới hôm nay đang phải đương đầu..." [8].
Nền văn hoá thổ dân Australia đáng được chúng ta nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Tài liệu tham khảo
1. Berndt, R.M.& Berndt, C.H. (1992), The World of the first Australians, Aboriginal Studies Press, Canberra, Australia.
2. Cowan, J. (1992), “Mysteries of the Dreaming”, The Spiritual Life of Australian Aborigines, Unity Press, Lindfield Australia.
3. Ngô Văn Doanh tuyển dịch (1993), “Tên bịp và cô gái”, trong Truyện dân gian thổ dân úc, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
4. Hoạ sĩ Lê Thanh Đức chủ biên (2001), Nghệ thuật thổ dân Australia, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội.
5. Garry Disher (1999), Australia xưa và nay, (Lê Thu Hường dịch), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Janis Wilton and Richard Bonworth (1984), Old Worlds and Now Australia, Penguin, Ringwood.
7. Lawlor, R. (1991), Voices of the awakening in the Aboriginal Dreamtime Inner Traditions, International Ltd Vermon USA.
8. Lôit Ôđônoghuêcbê - Chủ tịch Atsic “Sự sống đang tiếp diễn”, Diễn văn đọc trước Liên Hiệp Quốc tháng 10/1992.
9. Vũ Tuyết Loan (1998), Australia ngày nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Văn hoá Dân gian