Cái không may mắn ở ta là do đặc điểm lịch sử, trong xã hội truyền thống của chúng ta kinh tế thị trường phát triển chậm và muộn. Ngoài sản xuất nông nghiệp, lưu thông hàng hóa trên thị trường phổ biến qua các chợ làng, buôn bán lớn hơn giao thương qua các vùng miền (tức là qua khỏi lũy tre làng) không nhiều và không lớn. Dần dà trên nhiều lĩnh vực đều lọt qua bàn tay Hoa thương, Ba Tàu. Người Hoa lại là một chủng tộc khôn ngoan và sẵn có "nghề" (truyền thống) trên doanh trường. Do vậy khi kinh tế tư bản chủ nghĩa vào ta cùng với chế độ thuộc địa, các nhà cấp tiến vừa thấy được thương trường là một lợi khí làm giầu cho mình và cho nước. Nước thì đang mất vào tay ngoại bang, doanh trường thì đang trong tay kẻ khác. "Đạo làm giầu" nảy sinh từ đấy, vừa có cái triết lý cổ điển của nhà nho (tu nhân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) lại vừa có cái hận nghèo hèn của kẻ "vong nô". do vậy mà cái "Đạo làm giầu" ở lớp người gắn với việc công thương với tinh thần Duy tân ở đầu thế kỷ trước đã sớm hình thành như một trào lưu của tinh thần dân tộc. Người sớm dùng khái niệm "Đạo làm giàu" là cụ Lương Văn Can, người đã sớm truyền bá tư tưởng này khi lập Đông Kinh nghĩa thục rồi cùng gia đình thực hành khi bị thực dân đày ải ở Nam Vang (Phnom Penh - Campuchia) - Cụ từng viết sách dạy đồng bào đi buôn cũng là truyền bá cái đạo làm giàu của mình. Cụ từng viết rằng "Cổ nhân thường khinh sự buôn là mạt nghệ, bởi vì người đời xưa trọng đạo đức mà khinh công lợi, thấy người buôn tham lợi mà ít nói thực, sợ mất cái lòng đạo đức đi..." Từ cái gốc ấy của, cụ Cử luận về cách làm giàu thế nào mà làm giàu nhưng không để đánh mất cái đạo đức của đời thường, gắn cái thực dụng của đạo làm giầu không chỉ để "vinh thân phì gia" mà còn biết làm việc nghĩa với đồng bào và kín (vì khi đó đã mất nước) hô hào giúp nước" Đó là cái gốc của văn hóa là phương thức ứng xử xã hội để hướng tới mục tiêu xã hội.
Chính trên cái nhìn văn hóa ấy, mà cụ Cử đã nhìn ra cái hạn chế của người Việt Nam ta thuở đó trên doanh trường: "Người mình không có thương phẩm - Không có kiên tâm - Không có nghị lực - Không biết trọng nghề - Không có thương học - Kém đường giao tiếp - Không biết tiết kiệm - Khinh nội hóa.."
Chính cái "Đạo làm giàu" này đã tạo nên một thế hệ những doanh nhân thời Duy Tân cố gắng mục tiêu làm giàu với công cuộc cứu nước Nhưng công cuộc Duy tân ấy mở ra rồi không có ngọn cờ. Những tấm gương mà ngày nay ta nhắc tới như Bạch Thái Bưởi cho đến Nguyễn Sơn Hà chỉ đếm trên đầu ngón tay, số đông những doanh nhân dù có muốn cũng không ai tập hợp lại thêm sức cạnh tranh và mưu toan của thực dân làm một bộ phận tha hóa thành lớp doanh nhân mại bản xa rời cái đạo làm giầu một thời đã được khởi xướng cùng phong trào Duy tân...
Lần thứ hai, cái đạo làm giầu có cơ lấy lại sức sống của mình khi nó gắn với một cao trào cách mạng giải phóng dân tộc theo cái nguyên lý của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lấy "chủ nghĩa dân tộc là một động lực", lấy phương châm "có giải phóng dân tộc mới giải phóng giai cấp được". Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, một lần nữa ta lại thấy tầng lớp doanh nhân tìm được đến "Đạo làm giầu".
Ứng xử của người đứng đầu nhà nước Cách mạng đối với công cuộc vận động tầng lớp doanh nhân mà khi đó gọi chung là các nhà công thương Cứu quốc, những thời khích lệ và được đáp lại bằng Tuần Lễ Vàng cùng sự cống hiến của tầng lớp doanh nhân trong sự nghiệp kiến quốc và phục vụ kháng chiến cũng như đường lối phát triển kinh tế được thể hiện trong các sắc lệnh đầu tiên của nhà nước cách mạng mà tập trung tiêu biểu trong Bản Hiến pháp đầu tiên đặt trên nền tảng quyền sở hữu tư nhân và khuyến khích kinh doanh, kể cả chính sách mở của thu hút đầu tư của nước ngoài "Có thể nói Cách mạng tháng Tám đã rộng mở cho "Đạo làm giầu" gắn với sự hưng thịnh của đất nước và sự thành đạt của tầng lớp doanh nhân Việt Nam.
Nhưng chiến tranh với sự tàn phá và quy luật khắc nghiệt của nó không chỉ tàn hại của cải vật chất mà còn hủy hoại nhiều giá trị tinh thần. Tất cả để chiến thắng trong một cuộc chiến tranh khốc liệt để tạo du nhập những lối nghĩ ngoại lai, kích thích những tham vọng nhỏ hẹp và bị quán tính thời chiến tiêm nhiễm" Đã dẫn đến một bước lùi trong nhận thức về đạo làm giàu. Nước mạnh để dân nghèo đã từng ngự trị trong tư duy lãnh đạo một thời. Nó đã làm thui chột không chỉ những mầm mống từng nẩy nở cùng với phát triển mà cải tạo là tiêu diệt một khi nhìn nhận sự làm giàu của người dân bằng cặp kính của "chủ nghĩa giai cấp".
" Chính công cuộc Đổi Mới mà hạt nhân là đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa, đã đảo ngược mối tương quan giữa hai nhân tố Dân mạnh - Nước giầu thay vì một thời chỉ coi nước mạnh là làm nên quyền lực mạnh. Nói cách khác trong sự nghiệp kiến quốc, Dân giàu Nước mạnh chính là sự trở về với nguyên lý muôn thuở của dân tộc "Lấy dân làm gốc".
Công cuộc Đổi mới mới chỉ bắt đầu, xây dựng văn hóa trong đời sống các doanh nghiệp mà lấy doanh nhân làm trung tâm cũng mới chỉ bắt đầu. Nó chỉ mạnh khi gắn với quá trình dân chỉ hóa. Nói cách khác xây dựng văn hóa doanh nhân chính là đẩy mạnh dân chủ trong đời sống của hoạt động doanh nhân. Nó không chỉ là việc riêng của doanh nhân mà của toàn xã hội khi mà ý chí làm giầu trở thành ý chí chung của toàn dân và là cơ hội cho mọi người "Hướng tới một văn hóa doanh nhân hiểu như một đạo làm giầu phải là một cuộc đấu tranh thực sự không chỉ là một thiện chí phấn đấu của những người dấn thân vào thương trường, lại ở vào thời điểm đầy thử thách và cũng nhiều cơ hội này".
Nhắc lại cái thuở ban đầu và những bài học tưởng như mới là vỡ lòng ấy và vẫn cảm thấy sự sâu sắc của nó, ấy chính là văn hóa vậy. Bởi nếu thử lấy đó là tấm gương soi thì ta thấy diện mạo doanh nhân và doanh nhân của ta vẫn chưa khác bao nhiêu. bởi lẽ văn hóa là cái gì nó lâu bền. Nhìn rõ cái phản diện thì sẽ nhận ra cái chính diện của mình và phấn đấu, gìn giữ nó như giá trị của một cái đạo. Tạm đưa ra một cách nhận thức mang tính lịch sử như vậy về cái mà chúng ta gọi là"Văn hóa doanh nhân" hay "Văn hóa doanh nghiệp" tại diễn đàn do một "Câu lạc bộ Văn hóa Doanh nhân" khởi xướng...
IX.2005
Dương Trung Quốc
Nguồn: Báo Khoa học & Tổ quốc