logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa kinh tế
Saturday, 01 December 2007 15:52

Nguyễn Nghị-Nghề buôn, nhà buôn Việt Nam trong lịch sử

Người post bài:  TT VHH

 

NGHỀ BUÔN, NHÀ BUÔN VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ 

Nguyễn Nghị

Trong lịch Sử Việt Nam từ xa xưa cho tới gần đây, thương nghiệp, doanh nghiệp đã không phát triển theo đường thẳng, trong không ít thời kì đã là nạn nhân của những chính sách, đường lối của nhà cầm quyền trọng nông, ức thương, là đối tượng của những nghi kỵ. Doanh nhân hay nhà buôn không bằng nông dân. Thương gia thường dễ bị đánh đồng với gian thương, nếu không thì cũng là kẻ theo đuổi “mạt nghiệp” cần phải được ‘giúp đỡ” để trở về với lao động ruộng đồng, thứ lao động được đánh giá là duy nhất chân chính. Một số viên chức của triều đình nhà Nguyễn, chẳng hạn, được phái tới Gia Định năm 1832 đã nhận xét rằng ở Gia định có nhiều người dân đang đeo đuổi “mạt nghiệp”, nghĩa là buôn bán . Và vào năm 1835, Trương Phúc Cường, một phái viên khác của triều đình, sau khi kể lại những cảnh tượng ông thấy ở tại vùng phía Tây hạ lưu sông Cửu Long, đã đề nghị: “Nếu chúng ta đánh thuế thuyền buôn, người dân sẽ bỏ nghề hèn hạ để quay về với nghề nông” 1.Nhưng xem ra không phải vì thế mà hoạt động, trong thực chất cũng phải được coi là tự nhiên như việc xới đất, gieo trồng và thu hoạch, được các viên chức coi là “mạt nghiệp” này, bị loại hoàn toàn ra khỏi cuộc sống thường ngày của xã hội. Nó vẫn tồn tại, khitỏ, khi mờ và không chỉ tồn tại mà nó còn góp phần thay đổi bộ mặt của xã hội.

Thương mại và biến đổi xã hội

Khi nông nghiệp phát triển và phồn thịnh tạo ra sản phẩm dư dật thì cũng là lúc chợ búa mọc lên như nấm tại các bến sông, ngã ba đường để đáp ứng nhu cầu trao đổi, phân bổ hàng hoá, như đã thấy vào thế kỉ 15-16 trong lịch sử nước ta. Không ítnh chợ này sau đó đã phát triển thành những trung tâm thương mại lớn, nơi trao đổi hàng hoá, không chỉ giữa các nơi trong nước mà quan trọng hơn, với khu vực và quốc tế. Điển hình là Phố hiến ở Đàng Ngoài và Hội An ở Đàng Trong là hai trung tâm lớn thuộc loại này của thế kỉ 17-18.

Phố Hiến

Phố hiến vừa được nhắc đến như một giải pháp vừa đáp ứng đòi hỏi phải cảnh giác vừa thoả mãn nhu cầu giao lưu quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Nằm bên tả sông Hồng, Phố hiến cách kinh thành Thăng Long về phía Nam hơn 50 km, được chọn làm nơi lưu trú cho các thương gia nước ngoài muốn buôn bán với Thăng Long đã trở thành nơi đặt Hiến ty để canh phòng, kiểm soát và thu thuế, nơi tàu thuyền neo đậu và thương gia nước ngoài được phép đặt thương điếm. Nhờ đó, từ nửa thế kỉ 17, phố Hiến trở thành một trung tâm buôn bán, giao lưu quốc tế với người Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm, Mã Lai, Indonesia, kế đó là Hà Lan, An, Pháp , Bồ Đào Nha … Số phố phường của phố hiến đã tăng gấp mười lần chỉ trong vòng mấy thập niên với những tên gọi giống như tên gọi phố phường ở Hà nội ngày nay: Hàng nồi, Hàng Dự án, Hàng Sơn, Hàng Thịt … Do đó, đương thời có câu: “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”.

Hàng nhập tại phố Hiến gồm có len dạ, đồ thuỷ tinh, vũ khí của phương Tây; đồ sứ, gấm vóc, gương soi, thuốc bắc, kim chỉ, phấn sáp … của phương Đông. Cùng với hàng hoá là phong tục, tập quán là cả kiến trúc và đặc sản: ngôi nhà thờ của người Bồ Đào Nha mọc lên ở phía Tây phố Hiến, “Làng Hà, nơi chuyên trồng đậu Hà Lan, vẫn tồn tại trên bản đồ như một chứng tích của sự hiện diện của thương điếm phương Tây một thời” .. Hàng xuất khẩu gồm tơ tằm, đường, long nhãn, gạo, đồ gốm, các loại lâm thổ sản như quế chi, sa nhân, hổ cốt, gỗ quý 2. Và có lẽ do, như đã đề cập ở trên, chính vì không quan tâm lắm đến thương nghiệp, cho nên không có sách sử nào ghi lại tên những nhà buôn, những “doanh nghiệp” Việt Nam thời bấy giờ trong thư tịch cả. Theo thiển ý tác giả, chắc chắn phải có những nhà buôn Việt Nam tài giỏi lúc này mới khiến việc mua bán phát triển như vậy.

 

Hội An

Theo các bản đồ thế kỉ 17-18 thì Hội An, còn gọi là Faifo, nằm tr6n bờ Bắc sông Thu Bồn (nay là sông Hội An) thông với biển bằng cửa Đại Chiêm (lúc đó còn ở phía Bắc Cửa Đại ngày nay), và một dòng sông nối với cửa Hàn của Đà Nẵng – ra đời và phát triển như là kết quả của “sự phát triển kinh tế, trực tiếp là sự phát triển kinh tế hàng hoá cùng với chính sách mở cửa của chính quyền chúa Nguyễn” 3. Vào thế kỉ 17, Hội An, với những làng thủ công được coi là những bộ phận ngoại vi, nổi tiếng về nghề mộc như Kim Bồng, nghề gốm như Thanh Hà, nghề yến như Thanh Châu, đã được đánh giá là một cảng thị vào loại phát đạt nhất của cả vùng Đông Nam Á 4. Bên cạnh đó, Hội An còn là “vùng đất … mở rộng cửa đón nhận những thành tố văn hoá ngoại nhập từ Nhật, Hoa và một số nước Đông Nam Á, một số nước phương Tây (…) là một cửa ngõ du nhập đạoThiên Chúa và là nơi đã góp phần hình thành chữ Quốc ngữ vào nửa đầu thế kỉ 17”.

 

Thương mại và biến đổi trong sản xuất nông nghiệp

Buôn bán, xuất nhập khẩu là kết quả của sự phát triển nông nghiệp đồng thời cũng là động cơ của sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Cùng với đà phát triển của thương mại, trước sự phát triển của thị trường xuất khẩu và đòi hỏi của nền ngoại thương, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là Đàng Trong cũng mỗi ngày mỗi mang tnh1 cách hướng về thương mại hơn là để tiêu thụ tại chỗ, theo kiểu kinh tế tự túc như A. Woodside đã lưu ý. Chẳng hạn, người dân vùng Thuận Hoá đã trồng dâu nuôi tằm phục vụ cho thị trường tơ lụa dù phải nhập gạo từ Xiêm và cao mên trong suốt thế kỉ 17. Robert Innes đã cho thấy trong những năm 30 của thế kỉ 17, người Việt Nam tại Đàng Trong quá hăng say đối với việc sản xuất cho thị trường tơ lụa và đường cho Nhật đến độ đã dành nhiều diện tích trồng trọt cho cây dâu tằm và cây mía thay cho cây lúaà sau này, từ thế kỉ 18, khi người Việt tới định cư tại đồng bằng sông Cửu Long, nơi đất rộng người thưa, lúa gạo sản xuất ra không chỉ có tính cách lương thực mà còn mang tính cách hàng hoá, lưu thông không chỉ trong nước mà còn với cả một số nước châu Á, tạo nên một bối cảnh thuận lợi cho việc xuất hiện của các thương gia người Việt.

 

Một “sản phẩm” của thị trường

Nền thương mại bằng đường thuỷ này đã làm nảy sinh một lớp người mới trong xã hội được gọi là các “lái”, những người “lái” tàu, lái ghe của họ để buôn bán và nhờ đó trở nên giàu có. Theo Thành Thế Vỹ, chuyên gia về lịch sử nền thương mại Việt Nam, “lái” chỉ được sử dụng với những người buôn bán giàu có với số lượng hàng hoá lớn. Nhóm người này, tách ra khỉ nông nghiệp để chuyên kinh doanh thóc gạo bằng đường thuỷ, đã mỗi ngày mỗi đông một cách trông thấy và họ đã có được một tên gọi. Đây là một sản phẩm trực tiếp của việc thị trường lúa gạo của câu thổ sông Cửu Long thâm nhập thị trường lúa gạo vùng Đông Nam Á 5 và cũng là của phương tiện chuyên chở của thị trường này. Dù rằng, vào thời điểm này, người Đàng Trong chưa có tàu bè để vượt đại dương và cũng có lẽ chưa có khuynh hướng đi xa tới các nước khác để buôn bán, “cùng lăm 1họ chỉ đi gần để trông thấy bờ biển và ven lãnh thổ yêu quí của mình”, như Borri, một thừa sai tới Đàng Trong vào đầu thế kỉ 17, nhận xét.

Nhưng cũng không ít tư liệu cho thấy rằng thương gia người Việt mỗi ngày mỗi có thêm kinh nghiệm đi biển. John White kết luận, từ các quan sát của ông xung quanh Sài Gòn, kỹ thuật hàng hải của người Việt Nam đã đạt tới những tiêu chuẩn cao. Có thể, trong số những cường quốc châu Á, họ là những người thích hợp nhất với biển cả (…), ngang hàng với người Hoa trong lĩnh vực này 6. Kinh nghiệm này khiến người Việt Nam ở Gia Định khác chuyển như một thói quen thông thường giữa miến Nam Việt Nam và các vùng khác trong khu vực Đông Nam Á như eo biển Malacca, Batavia, Singapore và Philipines (hỏi thêm Thầy Đắc). Người ta cũng thường xuyên bắt gặp người Việt trong các vùng này. Trong các thập niên 1820-1830, tư liệu trong các vùng này có tường thuật về ghe thuyền đến từ Nam Việt Nam 7. Khi Minh Mạng muốn đặt nền thương mại dưới sự điều khiển của nhà nước, ông đã giật mình khi nghe người của ông nhấn mạnh đến việc sử dụng tàu Gia Định cho một chuyến đi an toàn tới eo biển Malacca 8.

Nền thương mại nhà nước thời Nguyễn dẫu sao cũng đã để lại một diện mạo khá tiêu biểu. Nếu đọc kĩ biên niên của triều đình từ thời Minh Mạng đến Tự Đức, sẽ thấy có một cái tên thường xuyên được nhắc đến có liên quan đến việc buôn bán với phương Tây,. Nhân vật này có tên là Đào Trí Kinh, nhưng đã được đổi thành Đào Trí phú, có lẽ là để nhấn mạnh tới chí làm giàu của mình. Người này thuộc hàng khoa bảng ở Gia Định, đậu cử nhân 1825. Oâng xuất thân từ huyện Long Thành, thuộc Biên Hoà. Oâng bị án tử hình 1854 vì tham gia vụ Hồng Bảo. Do đó, cái nhìn của chính sử tỏ ra không mấy thiện cảm với nhân vật này. Tuy nhiên người ta cũng không thể phủ nhận sự đóng góp của ông trong nền thương mại nhà nước. Oâng là một viên chức nhà nước có nhiệm vụ tìm kiếm các mặt hàng ở khu vực Đông Nam Á và miền Đông Ấn Độ. Oâng được tả là một nhà kinh doanh của nhà nước biết tiếng nước ngoài và chính sử còn cho biết ông giàu có nhờ các chuyến đi thường xuyên ra nước ngoài 9. Oâng chủ yếu làm việc trong bộ tài chính của chính quyền trung ương. Oâng còn được mô tả là một người cẩn thận và chính xác đến độ có thể hoàn thành một bản tường trình trong một đêm mà không có một lỗi nào ngay cả khi ông say thuốc phiện, mỗi khi đi công cán. Đào Trí Phú có thể được coi là một nhà kinh doanh tiêu biểu của Gia Định.

Cuối thế kỉ19, đầu thế kỉ 20, mặc dù bị người pháp kiềm chế, doanh nghiệp của người Việt cũng đã để lại một số tên tuổi. Trần Chánh chiếu, còn gọi là Gilbert Chiếu  (1867-1919) chủ trương lấy hoạt động kinh tế, cũng có nghĩa là doanh nghiệp, như là một cánh cửa không thể thiếu cho sự phục hưng của quốc gia dân tộc và sự phát triển của đất nước.Nếu có thể tạm gác sang một bên khuynh hướng chính trị để chỉ tạm chú trọng vào hoạt động doanh nghiệp thì có thể kể tới Lê Phát Vinh, người đã mở xưởng dệt, Lê Phát An, Lê Tùng Long thành lập công ty buôn bán vải, Trương Văn Bền mở nhà máy làm xà bông tồn tại mãi cho tới sau này, Lê văn Tiết mở nhà máy gạo với công suất 16 tấn một ngày, công ty Liên Thành, thnhà lập tại Phan Thiết năm 1906, với các chi nhánh đặt tại Sài Gòn và Nam Vang để sản xuất và phân phối nước mắm, Nguyễn Văn Kiên hoạt động trong ngành chuyên chở bằng đường bộ, vào năm 1923 đã làm chủ 14 xe hơi và 12 xe tải. Nguyễn Văn Của thành lập nhà in và nhà xuất bản sách báo năm 1922 …

 

Tài liệu tham khảo

1 Đại Nam Thực lục 2, 159:13

2 Hội thảo Khoa học về phố Hiến, thị xã Hưng Yên, XII-1992

3 Xem Phan Huy Lê, Hội An: Lịch sử và hiện trạng, trong Đô thị cổ Hội An , Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội, Hà Nội 1991, tr. 18.

4 Phan Huy Lê, sđd, tr. 24

5 Li Tana, the 18th and early 19th century Mekong Delta in the regional System, tham luận cho Hội nghị Khoa học Đông Nam Á, sắp xuất bản.

6 Xem John White, A Voyage to Cochina China, OUP, 1972. tr. 265.

7 Wong, 1955; Crawfurd, 226, do Chl Byung Wook trích dẫn trong bài tham luận có tựa đề Nguyen dynasty’s policy toward Chinese settlers during the first half of the 19th century, sắp xuất bản.

8 Đại Nam Thực lục 2, 16:18b-19a

9 Đại Nam Thực lục 2, 41: 8a

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Thị Miền. Phát triển bền vững kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp

  • Nguyễn Văn Sơn. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước

  • Bùi Bảo Trung. Một số biện pháp phòng, chống rửa tiền trên quy mô quốc tế

  • Nguyễn Thị Thơm. Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo: Lý luận và thực tiễn tại Việt Nam

  • Đỗ Thị Kim Tiên. Phát triển bền vững về kinh tế ở Việt Nam – vấn đề và giải pháp

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 108
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 8 8 4
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa kinh tế