logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa giao tiếp
Saturday, 28 March 2009 13:03

Lê Viết Dũng. Giao thoa văn hóa trong dạy - học ngoại ngữ...

Người post bài:  TT VHH

Additional Info

  • Tiêu đề:

    GIAO THOA VĂN HÓA TRONG DẠY - HỌC NGOẠI NGỮ:VỀ MỘT VÀI THÓI QUEN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HỌC NGOẠI NGỮ

  • Tác giả:

    Lê Viết Dũng

Lê Viết Dũng. Giao thoa văn hóa trong dạy - học ngoại ngữ...
TÓM TẮT

Những khó khăn trong dạy-học ngoại ngữ không chỉ xuất phát từ những dị biệt trong ngôn ngữ trên các bình diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng. Những sự khác biệt trong thói quen giao tiếp ngôn ngữ tạo nên những giao thoa văn hoá có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến việc dạy-học. Người dạy ngoại ngữ cần có hiểu biết đầy đủ về những thói quen đặc trưng này để giúp người học vượt qua những rào cản tâm lý, mang dấu ấn văn hoá trong quá trình học ngoại ngữ.

ABSTRACT

It is assumed that the dissimilarities on the phonological, grammatical and lexical aspects are not the only cause of difficulties in foreign language teaching and learning. In fact, it is the differences in language communicative behaviours which cause cultural interferences that have negative influences on the teaching and learning task. Therefore, foreign language teachers should be aware of these distinctive features to help learners overcome the psychological and cultural barriers in the teaching and learning process.

1. Giao tiếp ngôn ngữ và giao thoa văn hóa trong giao tiếp ngôn ngữ

            Từ nhiều thập niên cuối thế kỷ 20, giao tiếp đã trở thành một nội dung nghiên cứu đặc biệt của ngành khoa học xã hội và nhân văn. Con người với tư cách là chủ thể giao tiếp cùng những đặc điểm văn hóa - xã hội lại trở thành đối tượng trung tâm của những nghiên cứu liên ngành nhằm tìm câu trả lời về một hiện tượng rất xưa cũ nhưng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong xã hội hiện đại: giao tiếp giữa người với người.

            Ngôn ngữ, “phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người” (Lênin), không còn được nghiên cứu thuần tuý như một hệ thống tín hiệu mà đã được xem xét dưới nhiều bình diện khác nhau của hoạt động giao tiếp. Theo cách tiếp cận này, các nhà nghiên cứu ngày càng nhận ra tầm quan trọng của văn hóa trong ngôn ngữ và giao tiếp ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa của một cộng đồng và yếu tố văn hóa hiện diện trong mọi bình diện của giao tiếp ngôn ngữ. Cũng như những khác biệt và tương đồng giữa các ngôn ngữ về ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng thường được gọi là giao thoa ngôn ngữ, các cộng đồng ngôn ngữ-văn hóa cũng có những phong cách giao tiếp ngôn ngữ không giống nhau. Sự khác biệt trong phong cách giao tiếp này thường không dễ được nhận diện ngay và trong giao tiếp thường gây ra những ngộ nhận đôi khi còn trầm trọng hơn những ngộ nhận do sự khác biệt ngôn ngữ gây ra. Do vậy những giao thoa văn hóa cũng cần được xem xét nghiên cứu đầy đủ như các giao thoa ngôn ngữ.

            Dựa vào phân tích của KERBRAT-ORECCHIONI (1996) chúng ta có thể xem xét các giao thoa văn hóa trong phong cách giao tiếp qua các nội dung sau:

1)       Ý nghĩa, tầm quan trọng của lời nói trong giao tiếp xã hội: những đánh giá của xã hội về sự im lặng, lời nói hay, lời nói thật, lời nói dối...

2)       Quan niệm về mối quan hệ liên cá nhân của các chủ thể tham gia giao tiếp: quan niệm về xa cách-gần gũi, trên-dưới, bình đẳng, sự đánh giá của xã hội về sự nhân nhượng, đồng thuận, xung đột trong giao tiếp.

3)       Quan niệm về lịch sự, về thể diện và gìn giữ thể hiện trong giao tiếp ngôn ngữ.

4)       Mức độ nghi thức hoá các hành động lời nói: cách xưng hô, cách sử dụng các nghi thức lời nói trong giao tiếp ngôn ngữ.

2. Một vài thói quen trong phong cách giao tiếp ngôn ngữ của người Việt

            Trong nhiều nghiên cứu trước đây (Lê Viết Dũng, 1999, 2000, 2002, 2003) chúng tôi đã có dịp trình bày một số đặc điểm trong phong cách giao tiếp của người Việt mà đặc điểm quan trọng nhất là sự phân biệt ứng xử với thành viên trong cùng nhóm và ứng xử với người ngoài nhóm.

-          Người cùng nhóm là những người thân thiết có cùng một hệ thống các giá trị, những chuẩn mực văn hóa, những biểu tượng và những niềm tin. Người cùng nhóm là “ta”, là “chúng ta”. Cách giao tiếp, ứng xử nói năng là “trong nhà với nhau”.

-          Người ngoài nhóm là người lạ, là người chưa hẳn “có cùng tiếng nói”, ở “cùng một tần sóng”. Cách giao tiếp để đạt an toàn, hiệu quả là “xem như thượng khách”.

            Trong giao tiếp giữa những thành viên trong cùng nhóm, điều quan trọng nhất là sự đồng thuận, sự nhân nhượng trong trật tự đã được xác lập. “Chủ nghĩa phải đạo” (Le conformisme) được mọi người tình nguyện thực hiện. Ứng xử nói năng theo “lễ”, theo những nghi thức đã được quy định từ trước đã được xem như những chuẩn giao tiếp. Vượt trội, độc đáo, khác lạ không được khuyến khích (thậm chí còn bị chê trách) bởi vì ảnh hưởng đến tính cộng đồng. Các thành viên tham gia giao tiếp sẽ không có cơ hội (và cũng không dám tạo cơ hội) để thay đổi vị thế, vai giao tiếp. Việc thương thảo để thay đổi vai giao tiếp hiếm khi xảy ra và mọi người tự nguyện tránh những phát ngôn gây xung đột, những chỉ trích xúc phạm thể diện người cùng nhóm. Trong khuôn khổ và nội dung đã được quy định và được nhận thức rõ, giao tiếp trong cùng nhóm thường dễ mang màu sắc tình cảm, có biểu hiện hoà thuận và cởi mở. Đây cũng là một nguyên tắc lịch sự trong ứng xử của người Việt.

            Đối với người lạ ngoài nhóm, người Việt thường có những thói quen giao tiếp mang tính đặc trưng như sau:

-          Giữ gìn thể diện tập thể: khi chủ thể giao tiếp là nhóm, thể diện tập thể được xem trọng hàng đầu. Bằng các “phát ngôn đại diện”, “phát ngôn thay lời” (Lê Viết Dũng, 2000: 253), các thành viên muốn được xem như là một khối thống nhất, đồng thanh nhất trí trong hành động và lời nói.

-          Khi giao tiếp với tư cách cá nhân, người Việt một mặt biết “giữ mồm giữ miệng”, thậm chí kín đáo, dè dặt không lộ rõ cảm nghĩ, mặt khác lại “xưng khiêm hô tốn” tìm cách đề cao người đối thoại đồng thời tự hạ mình. Chiến lược nước đôi này thường được sử dụng khi chưa rõ đối tượng giao tiếp nhằm bảo đảm thể diện và an toàn cá nhân trong giao tiếp.

 

 3. Thói quen giao tiếp ảnh hưởng đến việc dạy - học ngoại ngữ

            3.1. Những hiện tượng đáng lưu ý

            3.1.1. Sự im lặng và dè dặt trong phát ngôn

             Theo quan sát của chúng tôi, người học ngoại ngữ càng lớn tuổi càng ngại nói năng trong lớp học. Trẻ em càng hồn nhiên bao nhiêu trong việc trả lời, đặt câu hỏi thì người lớn càng ngại ngùng, dè dặt bấy nhiêu. Khá nhiều giáo viên các lớp tại chức đã tỏ vẻ không hài lòng về hoạt động của người học trong giờ dạy nói. Có thể có nhiều lý do thuộc về chủ đề bài học, cách sắp xếp chỗ ngồi, sĩ số lớp... nhưng lý do quan trọng nhất là sự thụ động của đa số người học.

            3.1.2. Những câu hỏi một chiều

            Một hiện tượng dễ nhận thấy là câu hỏi trong lớp ngoại ngữ thường xuất phát từ phía giáo viên. Người học chỉ chờ câu hỏi và trả lời. Khi được yêu cầu đặt câu hỏi thì những câu hỏi của người học vẫn chỉ là những câu mang tính luyện tập.

            3.1.3. Những phát ngôn “phải đạo”

            Khi tham gia thảo luận, tranh luận, người học không thể không phát ngôn nên không khí lớp học có vẻ sinh động hơn. Tuy vậy nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ nhận ra rằng những phát ngôn của người học thường được chuẩn bị trước và ít mang tính tương tác, xung đột. Cho dù người dạy muốn khuyến khích mọi người học tham gia, cuộc tranh luận thường ít tiến triển hoặc chỉ tiến triển một cách hình thức vì ít có xung đột, mâu thuẩn.

            3.1.4. Tính sắp sẵn và chuẩn bị sẵn của mọi phát ngôn

            Người học (và cả người dạy) thường thấy thoải mái hơn khi theo sát sách giáo khoa (với người dạy là giáo án). Mọi sự ứng biến (improvisation) và biến tấu (variation) ngoài sự chuẩn bị thường không được đánh giá cao và ít được khuyến khích từ cả hai phía người học và người dạy.

            3.2. Phân tích và kiến nghị

            3.2.1. Nếu hiểu rõ những thói quen giao tiếp của người Việt, giáo viên ngoại ngữ sẽ bình tĩnh và có cách giải thích những hiện tượng có vẻ đáng ngại vừa nêu trên.

-          Sự im lặng, thụ động của số đông người học có thể không phải là sự lười biếng, từ chối tham gia mà là biểu hiện của một loại tình cảm bất an vì người học buộc phải tham gia giao tiếp (thực thụ hay mang tính sư phạm) trong khi theo họ nghĩ, họ chưa được chuẩn bị. Đó cũng có thể là biểu hiện của tư tưởng cầu toàn (perfectionnisme) mang dấu ấn văn hoá dẫn đến việc ngại mất thể diện, sợ người khác chê cười vì phát ngôn không đạt chuẩn mong muốn. Tư tưởng cầu toàn này dễ dẫn đến sự thiếu tự tin buộc người học phải chuẩn bị chu đáo lời nói của mình cả về phần nội dung lẫn hình thức phát ngôn. Do thói quen, sự chuẩn bị này thường diễn ra một cách căng thẳng không cần thiết, ảnh hưởng tiêu cực đến việc hình thành năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ.

-          Vị thế của người dạy có thể là một trở ngại lớn trong thực hành giao tiếp của người học. Xét về thể chế, người dạy ở vị thế cao hơn người học. Thêm vào đó năng lực ngôn ngữ của người dạy, nếu không biết sử dụng và thể hiện, sẽ là một “mối đe doạ” bởi vì theo thói quen, người Việt thường nhường lời cho người nói hay, nói giỏi và như vậy, người học chỉ biết chăm chú lắng nghe thầy giáo mình. Đây là lý do giải thích vì sao người học ít hỏi, ít tranh luận (ngay cả trong giờ học sử dụng tiếng mẹ đẻ). Hiện tượng này rất phổ biến ở các bậc học và đang trở thành một nguy cơ tiềm ẩn của giáo dục Việt Nam.

            3.2.2. Học ngoại ngữ là một loại hình lao động mang một hàm lượng quan trọng các yếu tố văn hoá-xã hội. Khi học, thực hành giao tiếp bằng một ngôn ngữ mới, những thói quen mang dấu ấn văn hoá đã trở thành một bản tính thứ hai của người học có thể tạo thuận lợi hoặc gây trở ngại cho quá trình học tập và thực hành giao tiếp. Đối với người Á Đông nói chung và người Việt nói riêng, việc học một ngoại ngữ phương Tây, những khó khăn không những chỉ nảy sinh từ những khác biệt về các yếu tố ngôn ngữ, phi ngôn ngữ mà còn từ những phong cách sử dụng ngôn ngữ, chiến lược tiếp cận và cung cấp thông tin, phương pháp lập luận...

            Do vậy, ngoài năng lực ngôn ngữ, kiến thức văn hóa đất nước học được xem như là phẩm chất cần có, người dạy ngoại ngữ cần có hiểu biết tối thiểu về nền văn hóa của người học, đặc biệt những hiểu biết liên quan đến phong cách giao tiếp của người học. Sự hiểu biết này giúp người dạy:

-          Nhận ra những trở ngại của người học, biết chấp nhận những e ngại, những lúng túng của người học, biết tôn trọng nhịp độ, thói quen học tập của người học để điều chỉnh dần và làm cho người học nhận thức một cách sâu sắc rằng cùng lúc với việc học hệ thống tín hiệu ngôn ngữ mới cần học cả phong cách giao tiếp mới, do vậy cần có một chiến lược học tập phù hợp. Học ngoại ngữ là một quá trình tiếp biến văn hoá và hoàn toàn không phải là một sự thay đổi đột biến đơn giản như việc thay đổi một công cụ giản đơn trong đời sống hàng ngày.

-          Tự mình điều chỉnh phương pháp, kỹ thuật dạy để tạo nên sự liên thông hoà hợp giữa hoạt động học và hoạt động dạy. Nếu người dạy không thể nhận dạng và giải thích các hành vi học tập, hành vi ngôn ngữ của người học một cách chính xác theo tình huống và theo ý nghĩa văn hoá của chúng, người dạy sẽ vô tình tạo nên những trở ngại tâm lý cho người học. Xây dựng được một không khí thân thiện, tin cậy là điều kiện thuận lợi để người dạy được tập thể người học “xem như người nhà”, bởi người Việt vốn rất cởi mở khi “đồng thanh, đồng điệu”. Sự dè dặt, xa cách do quan hệ thầy-trò, do năng lực nói giỏi-nói kém sẽ dần dần biến mất nhường chỗ cho sự thoải mái, sự tin cậy vốn là những yếu tố tâm lý, văn hoá không thể thiếu được cho hoạt động luyện tập và thực hành giao tiếp.

            Trên đây chỉ là phác thảo ban đầu những ảnh hưởng tiêu cực của thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ trong việc học ngoại ngữ.

            Việc nghiên cứu các giao thoa văn hóa trong dạy-học ngoại ngữ sẽ là một nội dung quan trọng của các công trình mang tính liên ngành: xã hội học văn hóa, dân tộc học giao tiếp, ngôn ngữ-xã hội học... và như vậy những nghiên cứu về văn hóa của người học sẽ có đóng góp quan trọng vào lý luận dạy học ngoại ngữ, giúp các nhà sư phạm bổ sung cải tiến chương trình đào tạo bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

 

 

 

[1]               Kerbrat-Orecchioni C., Les Interactions verbales, t3, Armand Colin, Paris, 1994.

[2]               Kerbrat-Orecchioni C., La conversation Seuil, Paris, 1996.

[3]               Le Viet Dung, Prise de parole et identité un questionnement socio-linguistique sur la pratique langagière quotidienne des Vietnamiens, Thesè de doctorat Université de Rouen, 2000.

[4]               Le Viet Dung, Du comportement dans la communication en langue maternelle au comportement dans l’apprentissage d’une langue étrangère: Le cas Vietnamien, Actes du séminaire région aux Vientianne-Pnom Pehn-AUF-AIF, pp 94-97, 2002.

[5]               Rivers W., “Les dix principes de l’apprentissage/enseignement interatif des languages” in Études de Linguistiques Appliqu é es №77, Didier, Paris, pp 47-64, 1990.

[6]               L’Appenant asiatique face aux langues étrangères, LIDIL, №5, Université Stendhal de Grenoble, 1992.

[7]               Đào Duy Anh, Việt Nam Văn hoá sử cương, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn, (1938, 1981).

[8]               Đoàn Văn Chức, Xã hội học văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1997.

[9]               Lado R., Ngôn ngữ học qua các nền văn hoá (Linguistic across cultures), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (1957, 2002).

[10]           Lê Văn Chương, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Trẻ, 1999.

[11]           Lê Viết Dũng, “Vấn đề giữ gìn thể diện tập thể của người Việt trong giao tiếp bằng lời nói”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 9, 4/2002, tr. 197-201, 2002.

[12]           Lê Viết Dũng, Tìm hiểu phong cách giao tiếp của người Việt Nam qua tục ngữ, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ học trẻ 2003, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr. 387-391, 2003.

[13]           Nguyễn Quang, Một số vấn đề giao tiếp và giao tiếp văn hoá, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

[14]           Nguyễn Bích Hợp, Tâm lý dân tộc, tính cách và bản sắc, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1993.

[15]           Phạm Minh Thảo, Nghệ thuật ứng xử của người Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.

[16]           Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Tp Hồ Chí minh, 1997.

[17]           Phạm Thái Việt, Đại cương về văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, 2004.

[18]           Hội Ngữ học Việt Nam, Việt Nam - Những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hà Nội, 1993.

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Nguồn : http://www.kh-sdh.udn.vn

 

 

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Robot có thể tác động vào các tương tác giữa người với người

  • WEF: Vấn đề tâm lý mới là cái giá lớn nhất của giãn cách xã hội

  • Lotman. Thế giới tên riêng

  • Lotman. Ký hiệu học văn hóa và khái niệm văn bản

  • Nguyễn Văn Cương. Di sản văn hóa Hán Nôm tại phủ Tuy Lý Vương (phường Vỹ Dạ, thành phố Huế)

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 75
  • Tổng :
  • 3 8 1 8 3 1 3 6
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa giao tiếp