Ngày xưa, sản phụ tộc người Ngạc Luân Xuân không được sinh đẻ ở cột tiên nhân cũ, mà phải đến nơi cách đó rất xa, và dựng lên một Củ ha hán (“Củ ha hán” tức là “buồng sinh”) để sinh đẻ. Sản phụ tộc Tạng cũng không sinh con ở trong lều, nơi sinh đẻ nhất định phải cách xa nơi ở. Tộc người Độc Long cũng cấm kỵ không cho sản phụ sinh đẻ ở trong phòng, họ sợ khí “bất khiết” của sản phụ sẽ phạm đến những vật dụng săn bắn trong nhà như cung nỏ, khiến cho họ có đi săn mà không có thú. Khi sản phụ sinh đẻ thì nhất thiết là phải đi ra bên ngoài, sau khi sinh con xong mới có thể bế con trở vào nhà, và sản phụ phải vào sinh con trong chuồng trâu chuồng dê.
Các tộc người như tộc Hán, tộc Hani, tộc Chuang, tộc Miêu đều có tập tục cấm kỵ việc sản phụ trở về nhà mẹ để sinh con. Khuê nữ một khi đã xuất giá thì đã trở thành người bên nhà chồng, đến nhà mẹ ruột để sinh con là một điều không hợp lý lẽ. Nếu mẹ và con có gì bất trắc thì nhà mẹ ruột cũng không thể nào gánh vác nổi. Theo họ, còn một lý do nữa là những máu dơ, khí uế của việc sinh nở sẽ mang đến cho nhà mẹ ruột huyết quang chi tai (nạn đổ máu). Sau khi thai phụ tộc Miêu mang thai được tám tháng, sẽ bị cấm không cho trở về nhà mẹ ruột, sợ do sinh sớm mà sinh con tại nhà mẹ ruột, tục cho rằng con gái sinh con của họ khác tại nhà mẹ mình thì sẽ mang phúc khí của nhà ruột đi mất, và để lại chỉ là tai nạn. Thai phụ tộc người Miêu nếu như không kịp về đến nhà mẹ chồng để sinh con thì sẽ được người nhà bên mẹ ruột của mình (thông thường sẽ do em gái của cô ta) dựng một cái lều cỏ ở bên ngoài nhà và cô ta sẽ sinh con ở đấy, nếu như đến lều cỏ mà cũng không dựng kịp thì sẽ sinh con trong nhà mẹ ruột, và đợi đến một tháng sau khi sinh sẽ trở về nhà chồng, phải để cho chồng mời một thầy phù thuật đến nhà chồng để làm nghi thức tịnh ốc (làm sạch nhà cửa).
Tộc Hán có tập tục kỵ sinh con trong nhà mẹ ruột, tục này đã rất lâu. Trong “Phong tục thông nghĩa” có nói đến rằng: “Không nên về nhà cũ sinh con, tục cho rằng sẽ khiến cho người ta suy vi. Theo đó, người đàn bà sẽ dễ vào tay người đàn ông khác, vì thế mà không cho trở về là vậy”. Từ đó có thể thấy rằng, từ đời Đường thì tục này đã hiện diện, cũng có nghĩa là người nam đã làm chủ. Điều này là do, một là sợ thân thể thai phụ sẽ dễ bị tổn thương, suy nhược; hai là sợ sau khi trở về nhà mẹ ruột, người khác sẽ di hoa tiếp mộc, thay họ của anh ta. Ở một dãy đất Sơn Đông, Thái An, người ta cho rằng, hiện tượng sinh con tại nhà mẹ ruột sẽ khiến cho nhà người mẹ suốt đời bần cùng. Ở một dãy đất Lâm Thanh thì cho rằng, những đứa trẻ sinh ra ở nhà người mẹ ruột sẽ không thể thành người, nếu như quả thật đã sinh con ở nhà người mẹ ruột thì người chồng phải dùng trâu cày một bên nhà mình thì mới có thể hóa giải được.
Mặc dù là sinh con trong nhà của mình, nhưng cũng sẽ có những cấm kỵ đối với những điều bất cát. Do vậy, buồng sinh được bố trí tại vị trí nào đó cũng là một sự việc cần phải cân nhắc, đắn đo. Buồng sinh của tộc Mãn không nên bố trí ở phía tây nhà (cũng kiêng kỵ không bố trí tại giữa nhà). Trên phương diện phòng ốc, tộc Mãn có tập tục “Sùng tây”: Bức tường phía tây là nơi thần thánh, chỉ dành để thờ phụng tổ tiên, không cho phép treo bất kỳ một đồ vật nào khác; giường lò phía tây tục gọi là “giường vạn tự” (cũng chính là ý nghĩa “giường của họ tộc”), là vị trí của thần thánh, không được tùy tiện ngồi hay nằm lên. Buồng sinh của thai phụ tộc người Hani tỉnh Vân Nam thường được bố trí ở trong phòng nhỏ của chồng, không được bố trí trong phòng lớn nơi ở của cha mẹ chồng. Trước đây, đại gia đình của tộc người Cơ Nặc ở Tây Song Bản Nạp được cư trú trong một tòa nhà sàn bằng tre, trong đó có nhiều gia đình nhỏ, khi sản phụ sinh con thì không được sinh ở trong nhà sàn lớn, mà phải sinh trong một gian phòng nhỏ bằng cách sao lá trà làm nệm trải dưới nhà sàn, sau khi cắt đứt dây rốn xong thì mới được lên lầu.
Người Đông Bắc ngủ trên giường lò (phía Đông Bắc rất lạnh, khi ngủ phải đốt than nóng dưới gầm giường – TDK chú), trong xã hội cũ, khi sinh con thì không được dây chạm đến giường lò, đầu tiên cần phải cuốn dựng chiếu lên, rồi lấy cỏ trải lên giường rồi sinh con trên cỏ, tục gọi là xuống cỏ rồi. Nếu không, sinh con lên chiếu trên giường lò sẽ làm dơ mặt của những người trong nhà, mai sau sẽ sống những ngày không tốt đẹp gì.
Ở một dãy đất phía Đông Bắc, khi thai phụ sinh con thì giường sinh kỵ không được nằm đối diện tường có ống khói, người ta bảo là sợ xung phạm đến “thái tuế”. Nếu đã xung phạm đến “thái tuế”, thì trong vòng 12 năm sẽ không thể nào sinh đẻ được nữa. Trong thời đại mà người dân còn tín ngưỡng “đa tử đa phúc” (nhiều con nhiều phúc), thì đây là một điều bị uy hiếp rất lớn. Ở Đài Loan, cho đến nay vẫn còn tin theo phong tục sản đồ, sản đồ tức là hình vẽ hạn định phương vị của buồng sinh, người ta cho rằng, “không theo sản đồ, sẽ khiến cho mẹ con gặp nhiều bất trắc”, hoặc là sinh con khó khăn. Ở Đài Loan vẫn còn có tập tục sản phụ sinh con trên đống rơm rạ, nhưng có điều không giống với phía Đông Bắc là, người bình dân của Đài Loan sinh con trên đống rơm rạ lót dưới đất ở phía trước của giường nằm, mà không phải là trên giường. Theo họ, đó là do họ sợ máu dơ sẽ xung phạm đến (thần) mẹ giường (sàng mẫu). Thai phụ tộc người Hani ở một dãy Nguyên Giang, Hắc Long Giang thì sinh con ở trước đống lửa trong phòng lớn, tục này quy định hướng người của sản phụ là phải thẳng với sống nhà, không được nằm lệch, nếu không sẽ gặp điều không lành.
Buồng sinh là nơi cấm địa, rất nhiều người không được bước vào buồng sinh. Rất nhiều tộc người như tộc Hán, tộc Miêu, tộc Ngạc Luân Xuân, tộc Đạt Oát Nhĩ, tộc Mãn, tộc A Xương, đều có tập tục cấm nam nhân vào trong buồng sinh.
Người nam tộc người Ngạc Luân Xuân không được đi vào buồng sinh, bao gồm cả phòng của người chồng. Khi sản phụ sinh con, nếu như trong nhà không có đàn bà con gái lo liệu thì người nam phải lo việc cơm nước, dùng một cái cán gỗ để đẩy thố cơm vào buồng sinh cho vợ ăn. Khi sản phụ của tộc người Di sinh con, người chồng cũng không được phép ở lại trong buồng sinh để phục vụ vợ, mà cũng phải đi ra khỏi nhà giống như những người đàn ông khác trong gia đình. Nếu như sản phụ muốn ra cửa, thì cần phải chọn ngày lành, đồng thời phải rửa mặt, quét nhà, nếu không sẽ bị cho là mang những đồ bẩn ra ngoài nhà. Tộc người Đạt Oát Nhĩ cũng cấm kỵ không cho người nam vào buồng sinh, theo họ thì người nam sẽ dễ đạp phải trẻ. Nếu có người nam nào vô tình bước vào trong buồng sinh, thì sau khi anh ta đi ra, mà đứa trẻ có mắc phải bệnh gì, thì đó chính là do người anh ta dẫm phải đứa bé, cần phải đi tìm và cắt vài miếng móng chân của anh ta, đem về cùng đốt chung với cây ngải hao, đợi đến khi bốc khói thì ôm đứa bé đến hơ vài lần trên khói, nhổ miếng nước bọt vào và nói rằng: “Xuỵt xuỵt, tà khí, mày chạy đi này”. Làm như thế mới có thể giải trừ được tai ách. Trong vòng bảy ngày khi sản phụ tộc người A Xương sinh con, những người đàn ông của những gia đình khác bị cấm kỵ không được phép vào sân nhà của nhà có người sinh con.
Không những chỉ cấm người nam không được vào buồng sinh, mà người nữ cũng không được tự tiện bước vào nếu không có việc gì. Số người trong buồng sinh không được quá nhiều. Ở một dãy vùng đất Hắc Long Giang vẫn có niềm tin là nếu người trong buồng sinh quá nhiều thì sẽ khiến cho sản phụ khó sinh. Theo họ, nếu trong buồng sinh có thêm một người thì thời gian sinh sẽ kéo dài thêm hai tiếng đồng hồ, thai nhi cũng sẽ ra muộn hơn hai tiếng đồng hồ. Vì vậy, trong buồng sinh thường là chỉ có người nữ, mà càng ít càng tốt. Sau khi sản phụ của tộc người Tạng sinh con xong, kiêng kỵ không cho người nữ vào trong nhà, theo niềm tin của dân tộc này thì họ sẽ dẫm phải sữa của sản phụ. Điều này chính là do họ sợ người đàn bà khác đến hút lấy năng lực mớm bú của sản phụ mà chuyển sang bản thân mình. Tương tự như điểm này, trong nhà của người tộc Bạch nếu có trâu hoặc ngựa đẻ con thì cũng cấm không cho phụ nữ bước vào nhà, vì sợ người phụ nữ ấy đạp hết sữa của trâu, ngựa.
Nhằm tránh hiện tượng người ngoài vào buồng sinh và làm sản phụ mất sữa, thì ở các tộc ở các nơi cũng có rất nhiều quy củ, cấm kỵ; sản phụ tộc người Tạng ở Thanh Hải sau khi sinh con xong cũng bị cấm không được tiếp đãi tất cả khách khứa. Sau khi sản phụ tộc người Hán sinh con xong, trong vòng một tháng đó không được để người lạ bước vào buồng sinh, đặc biệt là thai phụ, quả phụ, những người tuổi Dần, cô dâu mới, những người tin theo thần linh Phật giáo, những người đang chịu tang… thì lại càng bị cấm kỵ, có nghĩa là, thông thường thì người ta cho rằng, người chăm sóc sản phụ khi sinh nở thích hợp nhất là người trong nhà, nếu như thuộc vào những trường hợp trên thì sẽ bị chặn lại bên ngoài cửa, không được đi vào bên trong. Những người đang bị đau mắt thì cũng không được vào buồng sinh, nếu không thì bệnh đau mắt ấy sẽ ngày càng nghiêm trọng.
Tộc người Hán cũng cấm kỵ không cho mang đồ kim loại như đồng, sắt v.v. vào buồng sinh, đặc biệt là cấm kỵ không cho người mang chìa khóa vào buồng sinh. Càng kiêng kỵ việc lấy đồ vật trong buồng sinh ra bên ngoài, và cũng kỵ húy việc mượn đồ vật từ bên ngoài vào. Những cấm kỵ này đều có lý do là sợ đem sữa của sản phụ đi mất. Nhằm tránh chuyện rủi ro, một dãy vùng Đông Bắc còn phải dùng chìa khóa để khóa chiếc chiếu trên giường lò lại, ngụ ý là khóa sữa lại, tức là nếu có người mang chìa khóa vào buồng sinh thì cũng không còn sợ gì nữa. Tộc người Ngạc Ôn Khắc ngoài kỵ húy việc mang chìa khóa vào buồng sinh, họ còn kỵ húy việc mang súng hoặc roi ngựa vào buồng sinh.
Những tập tục cấm kỵ ở cửa buồng sinh đều tồn tại ở rất nhiều tộc người khác nhau với hình thức tương tự nhau. Thời xưa, nếu trong nhà sinh con trai, thì người ta sẽ treo vòng cung ở bên trái cửa, “vòng cung” là cung bằng gỗ, tượng trưng cho nam tính rắn rỏi; nếu trong nhà sinh con gái thì người ta sẽ treo khăn mùi xoa ở bên phải cửa, “khăn mùi xoa” là cái khăn móc, tượng trưng cho nữ tính dịu dạng. Ngày nay, tộc người Hán thường dùng một mảnh vải đỏ để treo thế khăn mùi xoa, để làm ký hiệu cảnh giới. Ở một vùng huyện Định Nhương Sơn Tây, thì hiện tượng cấm kỵ ở cửa buồng sinh ở đây là dùng lúa mạch còn gốc và mảnh vải đỏ kết lại thành một vòng và treo trước cửa. Tục gọi là “treo chữ đỏ”, lại còn gọi là “xem hồ lô”. Nếu như trẻ được sinh ra là con trai, thì trên “chữ đỏ” sẽ treo thêm cung tên và củ tỏi; nếu trẻ được sinh ra là bé gái thì chỉ treo thêm củ tỏi. Tục cho rằng, làm như thế thì có thể ngăn chặn không cho người khác đi vào cấm địa nơi buồng sinh, và lại có thể tránh bệnh tật, chết yểu cho bé gái.
Buồng sinh cần phải yên tĩnh, đặc biệt là sau khi sản phụ sinh con xong, cấm kỵ việc cạo nồi, bửa củi bên cạnh nơi sinh đẻ. Đây chính là do sợ tiếng chói tai từ việc cạo nồi và tiếng ầm ầm từ việc bửa củi sẽ khiến cho bé gái bị kinh sợ.
Những cấm kỵ trong việc ăn uống của sản phụ là những hiện tượng rất phổ biến tồn tại trong các tộc người ở các nơi khác nhau. Trên phương diện sắp xếp kết cấu bữa ăn uống cho sản phụ thì cần cố gắng tránh ăn những thức ăn chứa sữa. Vào những ngày đầu sau khi sinh đẻ xong, thì đại bộ phận khu vực của tộc người Hán và người Dư trên một dãy đất Trung Nguyên đều cấm kỵ không để cho sản phụ ăn thức ăn sống lạnh, kiêng ăn phải những thức ăn cứng và thức ăn khó tiêu hóa, như các loại thịt, dầu mỡ, mà nên cho sản phụ ăn nhiều (hoặc chỉ ăn) trứng gà, đường đỏ, canh gà, miến, cháo gạo v.v. Trong thời gian sinh con, sản phụ người tộc Tạng bị kiêng ăn thịt ở đầu và bộ đồ lòng của chó, hươu, chó núi. Trong buồng sinh thì cấm không được chiên ăn thịt tươi của các loài dã thú. Họ cho rằng, nếu ăn những loại thức ăn này, thì khi săn bắn thú, họ sẽ không bắn trúng những con dã thú này. Sản phụ ở Đài Loan còn kỵ ăn thịt vịt và thực vật sống lạnh (như cải trắng, củ cải) và muối…, vì sợ mắc phải gió trong mặt trăng.
Nguồn: 鴻宇2004:禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社
(Hồng Vũ 2004: Cấm kỵ - Văn hóa dân tục Trung Quốc. NXB Xã hội Trung Quốc)