Gạch, ngói, đất, đá ở trên tường vách trong phòng thai phụ cấm không được di dời, hủy bỏ. Trên tường vách, trên dụng cụ gia đình, trên cửa sổ đều cấm không được đóng đinh. Ở suốt một dãy Hồ Bắc, trong phòng ở của thai phụ đều cấm không cho treo tranh nhân vật. Theo lời truyền lại, nếu xem nhân vật trong tranh nhiều quá thì sẽ khiến cho thai nhi trong bụng của thai phụ khi lớn lên sẽ giống nhân vật trong tranh, tục gọi là hoán thai. Thai phụ cũng không được động đến dao kéo, kim chỉ. Nghe bảo rằng, nếu trong phòng có vật bị trói buộc thì sẽ sinh ra trẻ dị dạng, mười ngón tay không thể duỗi thẳng hoặc tay chân co quắp, có người lại cho rằng, nếu như thế sẽ khiến cho cuốn rốn của thai nhi quấn vào cổ khi trẻ được vừa sinh ra, vì thế mà trong phòng ở của thai phụ cấm không được trói buộc vật gì. Thai phụ cũng kỵ với hiện tượng tắc miệng bình, vì rằng thai phụ mà gặp miệng bình bị tắc nghẽn thì sẽ khiến cho mồm, mũi, tai và hậu môn của thai nhi cũng bị đóng kín. Cấm kỵ việc tự ý di dời rương hòm, chạn tủ, giường ghế trong phòng, nhằm tránh động chạm đến Thai thần, dẫn đến trụy thai, đẻ non, hoặc trẻ sinh ra không đủ ngũ quan. Cấm kỵ việc thiêu đốt trong phòng, vì sợ rằng sẽ sinh ra những trẻ có mụt ruồi, dấu thai (ban đỏ) hoặc bị bỏng. Thai phụ tộc người Ngạc Luân Xuân kỵ ngồi hoặc ngủ trên da gấu, trên da con hoẵng. Cũng không được chạm đến da gấu, da hoẵng, nếu không sẽ dẫn đến hiện tượng đẻ non.
Đối với thai phụ mà nói, việc đi ra ngoài phòng là một chuyện càng nguy hiểm hơn, những cấm kỵ đối với thai phụ khi ở ngoài phòng có mấy loại như sau:
Thai phụ không được cầm muối ăn bước qua ngạch cửa. Vì khi sinh nở, nó sẽ khiến cho thai phụ khó sinh con. Theo niềm tin nhân gian, phụ nữ cầm muối ăn bước qua ngạch cửa sẽ đắc tội với thần Ngạch cửa, khi thai phụ sinh con, tay của thai nhi sẽ ra trước.
Thai phụ không được đứng ở cửa nhìn người ta. Vì như vậy sẽ khiến cho Thai thần chốc chốc thò đầu ra ngoài cửa, chốc chốc lại rụt đầu vào trong cửa, sẽ khiến cho thai nhi khi sinh ra sẽ không được thuận lợi. Vào ban đêm, thai phụ cũng không được đi ra mà không trở lại, vì khi đêm xuống, quỷ ma ở ngoài phòng rất nhiều, e sẽ khiến cho thai nhi bị tà khí của Quỷ Sát làm hại.
Khi phụ nữ tộc người Mãn mang thai được năm tháng trở lên thì không được đi vào chuồng ngựa, cũng không không được dắt ngựa. Phụ nữ tộc Ngạc Luân Khắc khi mang thai thì không được ngồi trên xe do con lừa có lông kéo, vì e rằng sẽ bị loài súc sinh đá, cắn, đụng chạm làm hư thai. Các tộc người Hán, người Dư đều có tục cấm kỵ thai phụ bước qua dây dắt trâu. Theo họ, thai phụ khi bước qua dây đắt trâu sẽ khiến cho việc sinh nở gặp phải khó khăn. Bởi vì, thời gian mang thai của trâu là mười hai tháng, nếu thai phụ bước qua dây dẫn trâu thì thời gian mang thai cũng dài như thời gian mang thai của trâu, thì tự nhiên đó cũng là một điềm tượng trưng cho việc sinh sản khó khăn. Thai phụ cũng không được bước qua chiếc cân. Trước đây, trọng lượng cân là mười sáu lạng một cân, theo họ thì khi thai phụ bước qua bên trên cân thì sẽ khiến cho thời gian mang thai sẽ kéo dài đến mười sáu tháng.
Ở Đài Loan, tháng bảy là thời gian phổ độ cô hồn, ma đói; theo họ thì trong thời gian lễ Vu Lan (ngày 15 tháng 7 âm lịch còn được gọi là “Tết Trung Nguyên”, “Tết Quỷ”), cấm kỵ việc mang nước tắm rửa của nữ thai phụ ra ngoài sân trước phòng, vì e rằng đến đêm sẽ quên mang vào, mà chọc giận Phổ Độ công, thần Hắc Hổ và cô hồn quỷ đói, sẽ gây điều bất lợi cho thai nhi.
Theo truyền thuyết, dưới giàn nho là nơi thường có tiên gia, quỷ sùng, e rằng khi thai phụ hóng mát dười giàn nho sẽ khiến cho thai phụ sẽ trúng tà khí, lại sợ sau này sẽ sinh ra quái thai của cây nho. Vì thế, thai phụ không được hóng mát dưới giàn nho. Hồ Nam có tập tục cấm thai phụ dẫm đạp lên đậu phộng (đạp lạc hoa), vì nếu không, khi phụ nữ sinh nở sẽ phải “đạp đậu phộng”, nghĩa là khi trẻ sinh ra thì hai chân sẽ xuống trước (đạp hoa sinh). Phụ nữ khi mang thai thì không được tiểu tiện trên đất lạ, hay tiểu tiện trên những nơi mà ngày thường ít khi đi qua, sẽ gây ra hiện tượng dị thường, sẽ dẫn đến việc sinh nở khó khăn, khiến cả mẹ lẫn con bị thương vong.
Mặt trăng thuộc về âm, tục gọi là “Nguyệt nương”, “Thái Âm nương nương”, tượng trưng cho nữ tính. Vì thế, nhân gian cấm kỵ không để thai phụ nhìn thấy những hiện tượng bất thường của mặt trăng, như nguyệt thực, quầng trăng (vầng sáng xung quanh mặt trăng, tục gọi là “cầu vồng trắng” hay “vòng gió”) v.v, vì cho rằng sẽ bị những hiện tượng này cảm ứng đến khiến cho thai phụ bị thiếu máu, đẻ non, hoặc sinh ra trẻ bị khiếm khuyết tứ chi.
Và có một vài khoản cấm kỵ khác về thai phụ được xuất hiện từ quan niệm rửa rội. Do có quan niệm là thai phụ thì không được sạch sẽ và hỷ xung hỷ, nên thai phụ bị cấm kỵ không được đụng chạm đến những vật liên quan đến chuyện cưới xin. Thai phụ không được tham gia hôn lễ của người khác, cũng không được phép nhìn đám cưới, không được đi bên cạnh cô dâu, cấm không được sờ mó kiệu hoa và của hồi môn của cô dâu, cấm không được đi vào tân phòng, không được ngồi lên giường hoa của tân nhân, không được đi ăn cỗ cưới. Theo tập tục của dân gian, thai phụ không được đụng chạm thai phụ, sản phụ; cấm không được ngồi chung với thai phụ và sản phụ trên cùng một chiếc tràng kỷ hoặc nằm ngủ trên cùng một chiếc giường lớn; trong đó, ngoài việc sợ phạm phải những cấm kỵ thường gặp ra, người ta còn sợ hoán thai cho đối phương.
Thai phụ của tộc người Cao Sơn thuộc Đài Loan lại cấm kỵ việc dùng vật dụng, vay mượn tiền lẫn nhau giữa thai phụ với những phụ nữ đã từng sinh nở, vì sợ nhiễm phải mà khiến việc sinh nở gặp khó khăn. Còn đối với những đồ đạc trong những nhà mà có phụ nữ lắm con, sinh đẻ thuận lợi thì có thể mượn dùng, vì như thế sẽ giúp cho mình sinh nở cũng được thuận lợi, lắm con như thế.
Thai phụ tộc Ngạc Luân Xuân phía Đông Bắc lại kỵ việc vào buồng sinh. Nghe bảo rằng đã từng có một thai phụ mói với một thai phụ khác rằng: “Cô đợi chút, chúng ta cùng cho ra một lượt nhé”. Kết quả là thai phụ đó không sinh ra được, vì vậy mà không cho phép thai phụ vào buồng sinh. Thai phụ của một dãy huyện Lâm thuộc tỉnh Hà Nam cấm kỵ vào buồng sinh, vì nghe bảo rằng như thế sẽ khiến cho thai phụ khó mà sinh nở. Một dãy Đông Bắc cũng có những tập tục giống như thế, ở địa phương này, người ta cấm không để thai phụ nhìn thấy sản phụ sinh con, cũng chính là sợ sau này sẽ khiến cho thai phụ khó sinh con. Tộc Bạch cũng kiêng kỵ không cho thai phụ bước vào cửa nhà của sản phụ, sau khi sản phụ sinh con xong luôn treo lồng hấp trước cửa, khi nhìn thấy dấu hiệu này thì thai phụ sẽ không thể vào. Nếu không, thai phụ sẽ đạp cạn sữa của sản phụ, khiến cho trẻ mới lọt lòng sẽ không có sữa bú, người ta bảo rằng, thai nhi trong bụng của thai phụ đã bú hết sữa của sản phụ đi. Nếu như thai phụ vô tình bước vào nhà của sản phụ, thì theo quy củ của tộc Bạch, thai phụ ấy phải vào nhà đó tạt nước để tỏ ý chịu tội và cứu vãn tình thế. Một dãy Đông Bắc cũng có tập tục này, nếu như thai phụ bước vào cửa nhà của sản phụ, và “mang” sữa của sản phụ đi, thì gia đình của sản phụ tất sẽ buộc thai phụ mang sữa “trả lại”. Cách “trả sữa” cụ thể như sau: Thai phụ người đã “mang” sữa đi sẽ làm một bát nước miến đến cho sản phụ uống, khi bước vào sân nhà thì cần kêu tên sản phụ mà rằng: “Nè, chị ấy, đã đến trả sữa đây”. Khi ấy, sản phụ ở trong nhà sẽ lên tiếng rằng “À, sữa đã trở về rồi!”. Sau khi nhận bát nước miến, sản phụ cần phải quay lưng lại, mặt hướng vào tường mà uống hết bát miến ấy.
Rất nhiều các tộc người Hán, người Dư, người Ngạc Luân Xuân đều có tập tục cấm kỵ không cho thai phụ đụng chạm đến những đồ liên quan đến tang ma. Tục cho rằng hung xung hỷ, sẽ không có lợi cho thai nhi. Thai phụ không được xem việc làm công đức, cúng vái, tế tổ khi chôn cất, nếu không sẽ gặp nhiều điều bất tường. Do tranh ảnh của tổ tông người tộc Dư là rất lòe loẹt, nên người ta bảo rằng, nếu thai phụ nhìn thấy thì con trẻ sau khi được sinh ra sẽ bị chạm thần kinh. Thai phụ cũng không được đụng vào áo quan, không được nhìn thấy việc nhập liệm, chuyển cữu, không được ăn thức ăn của lễ táng, không được nhận quà tặng của tang gia, không được đụng chạm vào vật dụng của tang gia. Thai phụ không được đi vào phần mộ địa, không được đi trên con đường khiêng người chết đi qua.
Những điều không tốt của phụ nữ sẽ khinh mạn đến thần minh. Do phụ nữ có những điều không tốt lành ấy nên cần phải tránh tiếp xúc với những chuyện liên quan đến thần. Thông thường, thai phụ tộc người Hán kiêng không tham gia vào việc tế tự. Người ta bảo rằng, thai phụ ở gần kham thần, vu chúc đều sẽ làm ô nhiễm thần địa, mạo phạm đến thần. Thai phụ tộc Mãn không được hầu hạ cúng dường thần tổ tiên. Ở Đài Loan, thai phụ không được tự ý vào miếu thờ. Ở Hồ Bắc, thai phụ không được nhìn tượng Phật Di Lặc.
Việc đào giếng, xây cầu, bắc bếp đều cấm không cho thai phụ đứng gần phía trước mà nhìn. Người ta bảo rằng, khi đào giếng mà thai phụ sắp đến gần rồi thì việc đào cái giếng ấy chắc chắn chỉ mất công toi, không phải là đào không ra nước, mà nước đào ra được sẽ đắng nghét, mặn chát, không thể dùng được. Trước đây, việc bắc bếp, xây cầu đều là những chuyện cần phải rất thận trọng, bếp thì có thần bếp, cầu thì có thần cầu, nếu như bị uế khí của thai phụ xông phạm vào thì các thần sẽ không chịu để yên. Trong một nhà, ở ba chỗ thành bếp, bệ cửa sổ và bàn mài là những nơi quan trọng nhất, cấm không để thai phụ ngồi vào, thai phụ cũng có thể được làm việc bên cạnh những nơi này, nhưng nếu mệt, muốn ngồi xuống một chốc cũng đều không được. Uế khí của thai phụ sẽ làm ô nhiễm đến ba nơi quan trọng này, khiến cho cả nhà sẽ bị độc khí dơ. Tộc Hán Tây Bắc còn cấm kỵ không để thai phụ đến trước hũ tương.
Theo niềm tin của dân gian, tất cả những sự trưởng thành, hình dáng và cả tính tình sau này của thai nhi đều có liên hệ với việc ăn uống của thai phụ. Vì vậy, việc ăn uống của thai phụ phải hết sức chú ý, không được ăn những thức ăn mà gây ảnh hưởng đến sự phát triển kiện toàn cho thai nhi hay gây ra khiếm khuyết nào đó đến thai nhi sau này. Cấm kỵ ở phương diện này cũng có rất nhiều.
Thai phụ không được ăn thịt thỏ, cấm kỵ này được phổ biến nhất và lâu dài nhất ở Trung Quốc. Người ta cấm không cho thai phụ ăn thịt thỏ là do họ sợ rằng thai nhi cũng sẽ bị hở môi như thỏ vậy. Thai phụ cũng không được ăn thịt lừa, thịt ngựa, vì người ta cho rằng, nếu thai phụ ăn thịt lừa, thịt ngựa thì thời gian mang thai sẽ bị kéo dài ra, giống như thời gian mang thai của lừa, ngựa là 12 tháng vậy. Niềm tin “ăn thịt lừa ngựa, khiến thai thêm tháng” này đã từng được Tôn Tư Mạo nhắc đến trong tác phẩm của mình. Từ đó có thể thấy rằng, tập tục cấm kỵ này sớm đã được lưu truyền trong dân gian, ngay từ thời nhà Đường. Thai phụ ở một vài khu vực thuộc tỉnh Hắc Long Giang lại kiêng ăn thịt chó, vì nếu không, sau này đứa trẻ được sinh ra sẽ rất hay cắn người, khi bú sữa sẽ hay cắn đầu vú. Ở một dãy huyện Ngu Thành, Dự Đông lại kiêng không cho thai phụ ăn thịt chó đen, theo họ thì nếu thai phụ ăn thịt chó đen sẽ bị hư thai, đẻ non. Thời xưa, các phụ nữ của tộc người Hán mà chưa đến tuổi phát dục thì cũng không được ăn thịt chó, vì cho rằng thịt chó là thứ không tốt, ăn rồi khi sau này có mang sẽ gây ra hiện tượng khó sinh. Thai phụ tộc người Ngạc Luân Xuân cũng kỵ ăn thịt gấu, thịt hoẵng, nếu không sẽ bị đẻ non. Thai phụ người Thái Nhã Đài Loan thì kỵ ăn huyết và nội tạng của động vật, nếu không sẽ dẫn đến hiện tượng đẻ non.
Ở một dãy Hà Nam đến Trịnh Châu, thai phụ không ăn những quả trứng gà dị dạng, như những trứng non do gà bị thiếu chất canxi; hay những quả trứng nhỏ chưa cứng vỏ được lấy ra từ trong bụng gà khi giết nó đi v.v. Tục cho rằng, thai phụ khi ăn những thứ trứng như vậy sẽ dễ đẻ non. Lại có tập tục thai phụ không được ăn ớt, vì sợ rằng đứa trẻ sau này được sinh ra sẽ bị bầm tím vành mắt, mắt đỏ, mắt lát; lại có người lại sợ rằng tính khí của trẻ sẽ thô bạo, cay độc như ớt vậy.
Gừng cũng là một thứ mà thai phụ bị nghiêm cấm không cho dùng. Tập tục này cũng rất phổ biến, vì ngoại hình của gừng tươi là nhiều ngón, e rằng tai phụ sau khi ăn xong sẽ sinh ra trẻ có ngón tay thừa. Trương Trọng Cảnh thời Đông Hán cũng có ghi chép về quan niệm “nhâm phụ thực khương, lệnh tử dư chỉ” (tức: đàn bà có mang ăn phải gừng thì sẽ khiến cho con bị thừa ngón). Và vì gừng cũng có đặc tính là cay, vì vậy mà người ta cho rằng, thai phụ sau khi ăn gừng thì sẽ bị bệnh mắt. Và cũng bời vì gừng có thể tán khí, nên cho rằng, sau khi thai phụ ăn xong thì sẽ gây trụy thai, đẻ non.
Nguồn: 鴻宇2004:禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社
(Hồng Vũ 2004: Cấm kỵ - Văn hóa dân tục Trung Quốc. NXB Xã hội Trung Quốc)