Từ ý nghĩa trong hai phương diện đối lập giữa “thần thánh” và “không sạch sẽ” bao hàm trong cấm kỵ, ta có thể thấy được rằng, cấm kỵ về máu là một cấm kỵ hoàn chỉnh nhất. Khi cúng tế hoặc khi lập đàn, thì máu dùng để cúng hiến và máu nhỏ giọt từ cánh tay bị chích khi giao bái thề thốt đều là một thứ thần thánh, mang một sức mạnh cấm ước; nhưng máu kinh của phụ nữ và máu chảy ra khi sinh đẻ thì lại bị xem là thứ ô uế, là một thứ nguy hiểm, cần phải tránh nó.
Tín ngưỡng trong dân gian Trung Quốc cho rằng, mồ hôi và máu là những thứ của con người được sinh ra từ tim. Trong “Bản thảo cương mục”, Lý Thời Trân đã viết: “Mồ hôi chảy ra từ tim, ở trong thì trở thành máu, ở ngoài thì trở thành mồ hôi”. Nếu máu và mồ hôi đã thuộc cùng một loại, thì mồ hôi đương nhiên cũng sẽ có những cấm kỵ tương tự như máu vậy. Người ta cho rằng, trong mồ hôi cũng có chứa tinh thần, nguyên khí của con người, vì vậy mà cần phải quý trọng. Vì thế nên từ “khó nhọc”, “vất vả” thì được gọi là “huyết hãn” (máu và mồ hôi). Mồ hôi mà đổ nhiều quá thì sẽ khiến cho thân thể con người bị suy tổn, táng thất nguyên khí. Nếu như có bệnh, ban đêm lại đổ mồ hôi trộm, thì người ta sẽ cho rằng tất sẽ bị ngất lịm, hoặc đó là điềm xấu. Nếu như trời nóng, lao động mệt mỏi mà không đổ mồ hôi thì cũng không tốt, là một biểu hiện của hiện tượng huyết khí bất thông.
Dân gian Trung Quốc rất xem trọng tóc và râu. Người ta cho rằng, tóc và râu là lông của đầu, mặt, quả thực là có quan hệ với hồn phách của thân thể. Vì thế, trong dân gian có rất nhiều điều cấm kỵ về tóc và râu.
Ở tộc người Hán và ở rất nhiều các tộc người thiểu số khác đều có tập tục kỵ không hớt tóc và cạo râu khi có tang ma. Trong nhà nếu có người chết, thì sau khi biết được hung tin, người nam sẽ không được hớt tóc và cạo râu trong vòng một tháng. Việc hớt tóc, cạo mặt không chỉ bị cấm chỉ trong thời gian chôn cất, mà ở các trường hợp khác cũng có rất nhiều cấm kỵ. Tộc Ngạc Luân Khắc có tập tục cấm không được hớt tóc, cạo mặt vào buổi chiều, vì e rằng việc hớt tóc và cạo mặt vào buổi chiều sẽ làm thay đổi diện mạo khiến linh hồn gặp khó khăn trong việc trở về với thân xác của mình. Người Hán còn có phong tục cấm kỵ cháu trai không được đến hớt tóc ở nhà cậu của mình, vì họ cho rằng, nếu hớt tóc ở nhà cậu thì sẽ bị “e cậu” (sợ cậu). Vào thời xưa, tục này rất được lưu hành ở các khu vực của Trung Nguyên như Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Đông, nhất là vào tháng giêng thì càng kỵ hơn nữa. Tháng giêng là thời khắc mùa xuân mở đầu cho một năm, nếu như hớt tóc ở nhà cậu thì người ta sẽ liên tưởng chữ đồng âm với chữ cậu (cữu) là chữ cũ (cựu), vì thế mà kỵ nó.
Người Hani thường tế rồng vào thời gian sau tháng năm âm lịch, cầu mong gió thuận mưa hòa, năm năm được mùa. Sau khi cúng tế xong, thầy vu thuật sẽ rãi một ít thóc khô trên dốc núi, tiếp theo đó, mọi người đều xạ thóc. Trước khi hạt nẩy mầm nhú lên mặt đất, thì kỵ không được hớt tóc, nếu không, mầm lúa sẽ không mọc lên được. Đối với người Hán, khi cha mẹ còn khỏe mạnh thì không được phép để râu. Nhưng nếu đến lúc có con cháu rồi mà không để râu thì sẽ bị người khác đàm tiếu. Phụ nữ tộc người Ngạc Luân Xuân chải tóc làm thành hai búi quấn trên đầu, là dấu hiệu để nhận biết rằng người ấy đã kết hôn, cụ thể là người con gái ấy đã có nhà chồng rồi, không được bàn chuyện hôn sự lại được nữa.
Đầu và mặt là nơi tôn nghiêm trên khuôn mặt con người, và cũng chính là biểu hiện nghi dung của con người. Về dáng vẻ của đầu và khuôn mặt, trong dân gian cũng có nhiều nghiên cứu sâu sắc. Người ta thường kỵ những người có đầu to nhưng khuôn mặt nhỏ, và cho rằng “đầu to mặt nhỏ, cả đời không ra gì”; và người ta cũng kỵ ngũ quan không ngay ngắn, cho rằng “ngũ quan bất chính, tà khí thông thiên” (ngũ quan không ngay ngắn, thì người ấy lòng đầy ý tà vẹo, xấu xa). Kỵ nốt ruồi mọc trên mặt, tục ngữ có câu “đầu không xương ác, mặt không nốt ruồi”. Người ta còn kỵ những người phụ nữ có xương lưỡng quyền cao, tục thường bảo rằng “Đàn ông lưỡng quyền cao, sinh ra chí khí cao; đàn bà lưỡng quyền cao, giết chồng không cần dao”. Người ta còn cho rằng mặt dài mà thịt ngang cũng là tướng xấu, lại cho rằng không nên kết giao với những người không có thịt nơi hai má. Kỵ nhân trung nhỏ hẹp, vì cho rằng “nhân trung rộng và dài, thì nhà đầy con cháu”, “nhân trung như sợi chỉ, có con cũng khó nuôi”. Họ càng kỵ tướng vòng đầu không cân xứng với cằm dưới, vì thế nên người ta mới gọi là “trời đất không đối xứng, suốt đời chịu nổi trôi”, “cằm dưới lệch, thì cơm không đủ no, áo không đủ ấm, không người đến thăm”.
Tộc Hán và tộc người Mãn còn có phong tục kỵ trẻ con có đầu dẹp. Và cũng do phần đầu và phần mặt có nhiều cấm kỵ như thế, nên dân gian thường cấm kỵ không để lộ đầu lộ mặt trước người khác, với mục đích là nhằm để tránh chuyện bất trắc và để bảo vệ thân thể của mình. Không chỉ dừng lại ở những cấm kỵ về hình dáng của đầu và khuôn mặt, ngay cả đến sắc thái biểu hiện ra trên khuôn mặt cũng có những cấm kỵ riêng. Dân gian tin rằng, vẻ xanh, đen, hoặc xám hiện ra trên mặt đều là những triệu chứng của điều xấu, là tai họa, là một dự báo của thọ yểu, tục ngữ nói rằng: “Mặt lộ nét đen, sẽ không qua được một tháng”.
Do dáng vẻ của lông mày có liên quan đến tướng mặt của người, nên người ta cũng có cấm kỵ đối với lông mày. Lông mày thường được cho là đi chung với giới hạn tuổi thọ của con người. Dân gian tin rằng, lông mày rậm và dài thì sẽ sống lâu. Vì vậy mà cấm kỵ không cho cạo hay nhổ đi, mà nhất là mấy cọng lông mày bỗng nhiên mọc dài ra, tục gọi là lông mày thọ. Lông mày càng dài thì càng tốt. Do vậy, cấm kỵ nhất là việc nhổ lông mày, cho dù là những sợi lông mày ấy dài đến nỗi che cả mắt thì cũng không được nhổ đi, nếu không sẽ bị giảm thọ. Người ta cho rằng, những người mà có ít lông mày thì cũng không có anh em gì cả, mà nếu có thì cũng rất ít. Những người có lông mày ít thì con cháu đời sau cũng không được phồn vinh. Kỵ không được nói là lông mi “rụng rồi”, vì “lông mi” (眉 /méi/) hài âm với “xui xẻo” (楣 /méi/), e rằng nó sẽ trở thành một lời sấm, và sẽ trở nên gặp xui xẻo thật.
Về dáng vẻ của mắt, người ta cũng có những cấm kỵ, người ta bảo rằng “người có con ngươi vuông thì là người trường thọ”. Họ kỵ những ai có mắt lệch, tục cho rằng “mắt nghiêng thì tâm vẹo”. Trên mắt kỵ có nốt ruồi, những người mà có nốt ruồi đen mọc trên mắt thì cho rằng đó là kẻ cướp. Nốt ruồi mọc dưới mắt cũng không tốt, người Ngạc Luân Xuân cho rằng, nốt ruồi mọc dưới mắt là nốt ruồi đau thương, luôn rơi nước mắt, cần phải dùng dao cắt bỏ đi, nếu không sẽ gặp phải chuyện thương tâm. Đối với người Hán, phụ nữ kỵ đôi mắt bị “tứ bạch”, “tứ bạch” tức là bốn bên trên dưới trái phải của mắt đều lộ ánh mắt trắng dã. Tục ngữ cho rằng, “mắt phải tứ bạch, năm chồng giữ nhà” (tức phụ nữ mà mắc chứng tứ bạch thì phải qua năm đời chồng). Lại kỵ người có mắt hình tam giác, tục cho rằng, người có mắt hình tam giác thì cô độc một mình, không ái tình, hung ác và lòng chất đầy ý muốn cướp đoạt, khó mà đề phòng.
Đôi mắt có chứa ma lực, trong nước mắt cũng có nguyên thần, vì thế mà khi khóc tang, nhất thiết không được để nước mắt rơi vào trong quan tài, và vì trong mắt có thần linh tinh khí, vì vậy mà nó có thể dự báo trước điềm hung cát. Về thị giác, tộc người Cao Sơn ở Đài Loan cấm không để mắt nhìn thấy rắn bách bộ, mèo núi, người chết, lại cấm không được nhìn động vật giao phối với nhau, cho rằng nếu nhìn thấy thì sẽ gặp điều không tốt.
Hơi thở được đi vào và ra từ lỗ mũi, vì vậy mà người ta còn có những cấm kỵ liên quan đến sự quan hệ giữa mũi và nguyên thần. Hình dạng mũi có liên quan đến diện mạo, vì vậy mà cũng có một vài kỵ húy, người ta cho rằng “mũi vẹo thì tâm bất chính”. Mũi dài, thẳng và cao thì tốt, nhưng không được quá cao, mũi quá cao mà không cân xứng với lưỡng quyền thì cũng không tốt. Sống mũi thấp, lõm thì cũng không được, tục gọi là “mũi bẹp”, “mũi hồ lô”, đều là tướng mệnh lao nhọc, ti tiện. Dân gian cho rằng, người có mũi nhọn mà quặp là người nhỏ nhen, bạc khí, âm hiểm, tục gọi là mũi chim ưng. Khi gặp phải những người như thế thì nên tránh ra xa, không làm việc chung với người ấy.
Lỗ tai là một trong những khiếu có thể thông thần trên cơ thể con người, tục cho rằng, lỗ tai cũng mang tính linh. Người tộc Ngõa tối kỵ để người khác sờ vào tai của mình. Người Hán kiêng để lỗ tai bị nóng lên. Trong dân gian, người Đài Loan kỵ hiện tượng lỗ tai trái phát nóng vào giờ Tỵ, giờ Mậu. Họ cho rằng, nếu lỗ tai trái phát nóng vào giờ tỵ thì sẽ tổn thất tiền tài, còn nếu tai phải phát nóng thì có việc mờ ám, nếu tai trái phát nóng vào giờ Mậu thì sẽ có chuyện kiện tụng. Người ta cũng kỵ hiện tượng tai kêu ong ong. Đối với tộc người Ngạc Luân Khắc, nếu đàn ông mà tai phải kêu ong ong, đàn bà mà tai trái kêu ong ong thì đó là điềm tốt; còn nếu đàn ông mà tai trái kêu ong ong, đàn bà mà tai phải kêu ong ong thì đều rất kỵ, vì họ cho rằng sẽ phải nhận được một tin xấu nào đó.
Dân gian cũng có nhiều niềm tin về hình dáng của miệng, vì cho rằng miệng có liên quan đến họa phúc, hung cát của con người. Người Hán có câu ngạn ngữ “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng chỉ ăn cám bèo”, tức là, đàn ông miệng rộng thì có phúc, còn đàn bà miệng rộng thì vô phúc. Dân gian còn kỵ người miệng nhỏ, vì vậy mà có câu nói “miệng nhỏ mà tròn, áo cơm không đủ”. Về hình dáng miệng, người ta kỵ dấu vân ăn vào khóe miệng, gọi là dấu vân khóa miệng. Khi lớn lên mà có kiểu dấn vân khóa miệng này thì sẽ bị chết đói! Tục ngữ cũng có câu “vân khóa miệng, đói chết người”. Dân gian có truyền thuyết về dấu vân khóa miệng, bảo rằng, người nào có dấn vân khóa miệng thì thân vào hàng tể tướng, chức vị cao nhất phẩm, nhưng sau cùng lại đại bại, phải bưng một cái bát vàng đi xin ăn, nhưng chẳng có ai chịu bố thí cho, nên ông ta đói mà chết. Ngoài hình dáng của miệng ra, người ta còn có kỵ húy về sắc môi. Người ta cho rằng, “người môi đỏ thì quý, người môi trắng thì nghèo, môi chì thì tự ti, môi đen thì nguy hiểm”. Người Ngạc Luân Khắc cho rằng, nếu thịt trên môi mà run, thì tất sẽ có chuyện tranh cãi, là triệu chứng sắp chửi lộn với người khác, vì vậy mà nó cũng bị xem là phạm vào húy kỵ. Môi hở răng lạnh, vì vậy mà răng cũng mang tính linh. Người ta kỵ để răng lộ ra bên ngoài, kỵ răng bị đen hay bị vàng. Khi răng bị gãy vào thời gian không được gãy thì đó là điều bất cát bất lợi, vì nó sẽ làm chủ việc tang sự của người thân trong dòng tộc.
Tay chân là những bộ phận linh hoạt nhất của thân thể con người, phần lớn những hành vi cử chỉ đều liên quan đến tay chân. Vì vậy mà trong dân gian có câu “khổ sướng quan hệ đến tay chân”, mà cấm kỵ về đường vân tay cắt đoạn là một ví dụ. Đường vân tay cắt đoạn là đường vân trong lòng bàn tay, tạo thành một rãnh rất sâu đi từ trái qua phải, giống như cắt ngang lòng bàn tay vậy. Người phụ nữ có kiểu đường vân tay này sẽ khắc tử với chồng, vì thế mà người Đài Loan có câu “Đoạn chưởng tra bô tố tướng công, đoạn chưởng tra mỗ thủ không phòng”, ý nghĩa là, nếu là người đàn ông mà có đường vận tay cắt ngang thì sẽ làm quan, còn đàn bà mà có đường vân tay cắt ngang sẽ hại chết chồng.
Về hình dáng của bàn chân, dân gian cũng có cấm kỵ. Tục ngữ Quảng Tây có câu “(bàn chân) trên dài năm thốn, dưới dài năm tấc, trong ba năm không bị chết thì cũng phải chống gậy đi”. Hà Nam có câu tục ngữ: “hai ngón chân cái dài thì lớn lên không lấy vợ”. Phương Nam cũng có câu ngạn ngữ “Hai ngón chân cái dài quá mức, ừ không chết cũng nghèo một đời”. Huyện Tu Vũ ở Hà Nam cũng có cách nói “tháng giêng rửa chân, đầu chân trần”, cho rằng, những người phụ nữ đã kết hôn mà rửa chân vào tháng giêng thì sẽ gặp nhiều điều bất cát bất lợi. Khi ấy, nếu nam rửa chân thì sẽ làm chết vợ, nữ mà rửa chân thì sẽ làm chết chồng. Chân là nơi ở của thần thánh, nhưng chân cũng là nơi không sạch sẽ. Người Tháp Cát Khắc tối kỵ dùng chân đá vào cừu, tối kỵ dùng chân đạp lên muối ăn và những thức ăn khác. Dân gian Đài Loan cũng kỵ hiện tượng để gót chân bị ngứa. Móng tay và móng chân cũng bị cấm không được vứt lung tung. Nếu không, kiến mối bò lên trên, khiến người sinh ghẻ lở.