Đến tham dự buổi tọa đàm có đông đảo khán thính giả là giảng viên của trường Đại học KHXHNV, Đại học Văn Hóa Tp. HCM, Đại học Kinh tế Tp. HCM, Đại học Văn Hiến, Phân viện Văn hóa - Nghệ thuật Quốc gia VN tại TP.HCM, Cao đẳng Sư phạm TW TP.HCM, các hướng dẫn viên du lịch, nhà sưu tập cổ vật, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố.
Mở đầu tham luận, GS. Jean – Michel đã trích lời phát biểu của học giả Karan Singh trong hội nghị thường niên do Hội đồng Nghiên cứu Lịch sử Quốc gia Ấn Độ tổ chức vào tháng 12 năm 2001 như sau: “lịch sử phát triển của nền văn hóa vĩ đại từ Ấn Độ đã lan tỏ rộng khắp vùng Nam Á và Đông Nam Á. Nó kết nối Ấn Độ với Vùng Ngoại Ấn, trong phạm vi của thuật ngữ văn hóa, nó vượt xa khỏi những vùng bờ biển của chúng ta (Ấn Độ) (the history of the great cultural efflorescence from India that spread throughout and Southeast Asia. Link us to greater India, in cultural terms that lies far beyond our shores)”. GS. Jean – Michel đã đánh giá cao quan điểm của Karan Singh khi học giả này đưa ra những nhận định tuyệt vời về nền văn hóa chịu ảnh hưởng Ấn Độ ở Đông Nam Á. Karan Singh cũng được xem là người đại diện cho nhóm học giới Ấn Độ theo quan điểm nghiên cứu xem Đông Nam Á như một vùng văn hóa chịu ảnh hưởng Ấn Độ, mà không phải là vùng thuộc địa của Ấn Độ.
GS. Jean – Michel cho rằng, tiến trình ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á bắt đầu từ những thế kỷ đầu Công Nguyên (TK 1-2) kéo dài đến thế kỷ thứ 9, nhưng ở Campuchia ảnh hưởng Hindu giáo và Phật giáo Đại thừa vẫn còn tiếp diễn đến thế kỷ 15. Một trong những nguyên nhân khiến người Ấn Độ tiến về phía Đông là nhu cầu thương mại ở Ấn Độ phát triển mạnh vào thời điểm này. Ấn Độ đã từng mua vàng từ vùng Siberia rồi vận chuyển xuyên qua vùng Bactria, một khu vực thuộc Trung Á ngày nay. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên, làn sóng di dân bùng nổ mạnh tại vùng Trung Á làm cho tình hình an ninh tại khu vực này bị xáo trộn khiến cho con đường vận chuyển vàng của Ấn Độ bị cắt đứt. Ấn Độ đã tìm cách nhập một lượng lớn những đồng tiền vàng của đế quốc La Mã, nhưng đến giai đoạn cai trị của hoàng đế Vespasian (69-79) đã ra lệnh cấm xuất khẩu vàng. Từ đó, nguồn nguyên liệu vàng ở Đông Nam Á đã được thương nhân người Ấn nhập khẩu về Ấn Độ để thay thế cho những đồng tiền vàng của đế quốc La Mã.
Mối quan hệ thương mại, văn hóa và ngoại giao giữa Ấn Độ và Đông Nam Á được tiếp nối vững chắc bằng sự ra đời của quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, GS. Jean – Michel cho rằng sự ảnh hưởng của nền văn hóa Ấn Độ ở Campuchia chỉ tập trung vào tộc người Khmer. Dựa vào bản đồ khảo cổ học mà ông trình bày cho thấy hệ thống các di tích Hindu giáo và Phật giáo Đại thừa phân bố chủ yếu về phía bắc Biển Hồ và vùng hạ lưu sông Mekong, còn căn cứ trên bản đồ phân bố ngôn ngữ của Campuchia thì vùng đất tập trung các di tích cổ thuộc phạm vi cư trú của những người nói tiếng Khmer và cộng đồng nói tiếng Chăm theo Islam giáo di cư từ miền Trung Việt Nam sang trong giai đoạn muộn. Vùng đất phía Bắc Campuchia là địa bàn cư trú của các tộc người thiểu số nói những ngôn ngữ khác với người Khmer và không chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa Ấn Độ.
Sự pha trộn giữa tín ngưỡng bản địa với Hindu giáo và Phật giáo được thể hiện ngay trong quy tắc thiết kế những ngôi đền trong hang núi thể hiện qua 3 di tích kiến trúc ở Phnom Chhngok, Phnom Totung và Phnom Khyang. Nghiên cứu của GS. Jean – Michel đã cho thấy quá trình ứng dụng học thuyết vũ trụ luận (cosmology) của Hindu giáo vào cảnh quan bản địa từng diễn tại 3 di tích này. Trong đó hai con đường chạy xuyên qua hang động được thiết kế nằm theo trục đông – tây và bắc – nam, giao điểm ở trung tâm là một ngôi đền bằng gạch. Hình tượng được thờ cúng trong đền là một cột thạch nhũ được đồng hóa thành chiếc Linga của thần Shiva như trường hợp tại hang núi Phnom Chhngok. Cửa hang Phnom Totung nhìn thẳng ra một cách đồng bên ngoài. Cách đó không xa là một hồ nước thiêng (Baray), cạnh phía tây của hồ nước là một phế tích chỉ còn lại phần nền. Nằm giữa phế tích và hồ nước là một con đường lát đá ong (laterite) chạy thẳng hàng với cửa hang Phnom Totung tạo thành một chiếc trục theo hướng đông – tây. GS. Jean – Michel cho rằng kiến trúc của kiểu đền núi như vậy không xuất hiện tại Ấn Độ, đặc biệt cái trục vũ trụ (Mandara) chỉ được nói đến trong kinh tạng của Ấn giáo nhưng nó chưa bao giờ được thể hiện bằng loại hình kiến trúc kết hợp với cảnh quan tại Ấn Độ. Một điểm đặc biệt khác nữa hiện diện tại các ngôi đền trong hang núi là việc thờ cúng Linga từ mẫu hình tự nhiên (cột thạch nhũ) được đồng hóa với tín ngưỡng thần vương (Devaraja). Điều này được chứng minh qua bia ký số K 44 niên đại năm 674 tìm thấy trong hang núi Phnom Totung, có một đoạn mình văn nhắc đến đức vua Sri Utpannecvara. GS. Jean – Michel cho rằng cái tên Sri Utpannecvara là kết hợp giữa tiếng Sanskrit (Sri) và Khmer cổ (Utpannecvara), trong đó Sri thường được dùng để tôn vinh thần Shiva, còn Utpannecvara lại không mang ý nghĩa gì. Đồng thời, thuật ngữ Devaraja xuất phát từ tiếng Sanskrit với ý nghĩa Deva = thần, Raja = vua nhưng nó chưa từng được áp dụng cho bất kỳ vị vua nào tại Ấn Độ. Vì thế sự kết hợp bốn yếu tố diễn ra tại các ngôi đền trong hang núi thời kỳ Tiền Angkor đã cho thấy sức mạnh của bản địa trong sáng tạo những yếu tố có nguồn gốc từ Ấn Độ như ngôi đền trong lòng núi, chiếc trục vũ trụ, bộ Linga bằng thạch nhũ và bia ký tôn vinh cho thần vương (Devaraja).
Một loại hình tín ngưỡng khác tồn tại khắp mọi vùng miền của Campuchia là việc thờ cúng Lok Ta. Đặc biệt tại cố đô Udong của Campuchia thuộc tỉnh Prey Veng, nằm trên ngọn đồi Udong có ba ngôi tháp thờ các vị vua có công xây dựng Udong và Lovek. Trên con đường dẫn lên các ngôi tháp đều có các ngôi miếu nhỏ thờ Lok Ta trong vai trò là thần bảo vệ cho những ngọn đồi thiêng liêng. Nhân hình của Lok Ta được gọi bằng những cái tên dân gian như Lok Ta cầm gậy đá quý, Lok Ta cầm gậy sắt. Một loại hình tín ngưỡng phổ biến khác nữa là tục thờ Ye Mao của người Campuchia hay còn gọi là Bà Đen. Miếu thờ Yeo Mao thường được dựng rải rác khắp vùng làng quê của Campuchia nhưng ngôi miếu lớn nhất thờ bà nằm tại cảng Sihanouk Ville. Trong tục thờ Ye Mao, tượng bà thường được đặt ở trung tâm của ngôi miếu, hai bên trang trí bằng hai chiếc sinh thực khí của đàn ông. GS. Jean – Michel cho rằng tín ngưỡng thờ Ye Mao là một điều kỳ lạ chưa thể giải thích được ở Campuchia, vì nhiều ngôi miếu thờ bà lại do Khmer đỏ xây dựng trong gia đoạn cầm quyền của chúng.
Trong phần kết luận của mình, GS. Jean – Michel đã nêu ra các ý kiến như sau: Ấn Độ hóa trong phạm vi không gian văn hóa của người Khmer và khu vực Đông Nam Á không phải là sao chép nguyên mẫu từ Ấn Độ. Vào thời kỳ tiền ảnh hưởng Ấn Độ, ở Đông Nam Á không có những trung tâm văn minh đóng vai trò “nguồn phát” như Athena và Rome. Tuy nhiên ảnh hưởng Hindu giáo hay các tôn giáo của Ấn Độ là một mẫu hình mang tính lý thuyết, sự lan tỏa của nền văn hóa Ấn Độ vào vùng Đông Nam Á diễn ra khi nơi này thật sự đã có một nền văn minh vững chắc.
Tin bài: Phan Anh Tú
Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn